Giáo Lý Hôn Nhân


Giáo Lý Hôn Nhân
Xin thân ái chúc mừng tình yêu của anh chị và nguyện xin Chúa chúc lành để anh chị có thể tận dụng thời gian từ nay tới lễ cưới, trang bị thật nhiều những gì cần thiết cho cuộc sống hôn nhân và gia đình sắp tới.
Tập Giáo lý hôn nhân này mong được đóng góp phần nào cho việc trang bị ấy. Nó không nhằm cung cấp những hiểu biết chuyên môn về các vấn đề kỹ thuật, nhưng nhằm giúp anh chị xác tín vào hướng đi mình chọn lựa.
Khi anh chị sắp bước vào cuộc sống hôn nhân, đức tin Ki-tô-giáo muốn cống hiến cho anh chị một tin mừng: Hôn nhân là một con đường nên thánh, tức là một con đường để anh chị đạt tới hạnh phúc trọn vẹn, hạnh phúc tuyệt vời nhất, hạnh phúc trong Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.
Vâng, trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một con đường nên thánh. Vì thế, tất cả những gì thuộc về hôn nhân đều là những phương thế Chúa ban nhằm giúp anh chị đạt được mục tiêu ấy: Từ niềm vui, tình cảm, đời sống tính dục, công ăn việc làm, việc sinh sản và nuôi dạy con cái...
Như vậy, anh chị cần tìm hiểu để thấy tất cả đều là ơn Chúa và biết cách tận dụng những ơn ấy như Chúa muốn, vì hạnh phúc của gia đình bé nhỏ mà Chúa đang muốn anh chị xây dựng.
Mến chúc anh chị không phải chỉ đạt được trăm năm hạnh phúc nhưng còn là đời đời hạnh phúc.
I. YÊU NHƯ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ
Phải có tình yêu đích thực thì hôn nhân và gia đình mới đạt được hạnh phúc đích thực. Kinh nghiệm cho thấy sở dĩ ngày nay có nhiều gia đình tan vỡ là vì những người trong cuộc không có cái nhìn đúng về tình yêu. Khi chuẩn bị cho các bạn trẻ lập gia đình, điều cần kíp nhất là trang bị cho họ một cái nhìn chính xác về tình yêu quên mình, một kinh nghiệm và một nghị lực để dám sống đúng theo cái nhìn ấy.
Vì thế, tập giáo lý hôn nhân này sẽ bàn về tình yêu theo gương Chúa Ki-tô trước khi nói về hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng Tin Mừng.

Gặp Gỡ 1
YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA ĐÃ YÊU THƯƠNG

Anh chị thân mến,
Chúa Giê-su gọi điều răn yêu thương của Ngài là điều răn mới. Có nhiều tôn giáo đã dạy yêu thương. Người Việt Nam cũng nhắc nhau điều răn của Cựu ước: “Thương người như thể thương thân”. Nhưng điều răn yêu thương của Chúa Giê-su quả là một điều mới mẻ. Mới mẻ ở bản chất của tình yêu Ngài đem lại, đây không phải là bất cứ một tình yêu nào, nhưng là tình yêu đến từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.

I. YÊU THƯƠNG BẰNG MỘT TÌNH YÊU
   BẮT NGUỒN TỪ THIÊN CHÚA

Trước hết, Chúa Giê-su đòi ta yêu thương bằng một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Như thể là tình yêu thương của Thiên Chúa chảy qua trái tim ta mà lan đến với mọi người. Nó là sự nối dài trong lòng ta tình yêu thương mà Chúa Giê-su đã yêu thương ta, như Chúa Giê-su đã nối dài tình yêu thương của Cha đến với ta: “Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã yêu mến các ngươi. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến của Ta... Hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 15, 9-12).
Lòng yêu thương này là hồng ân của Thiên Chúa, nên ta không ngừng cầu xin Thiên Chúa ban tình yêu thương của Ngài cho ta, cầu xin Chúa Thánh Thần đến trong lòng ta để dạy ta yêu thương.

II. Một tÌNH YÊU ĐI BƯỚC TRƯỚC
Như Kinh thánh nói: “Tình yêu ấy là thế này: không phải ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương ta trước...” (1Ga 4, 10). Quả vậy, “Thiên Chúa đã yêu thương ta ngay khi ta còn là tội nhân” (Rm 5,8). Khi giữa người này với người kia có chuyện bất bình, ai cũng đòi người kia phải xin lỗi trước. Còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương mà không đòi hỏi gì trước cả. Ngay cả khi con người đã phản bội Ngài, Ngài vẫn yêu thương con người. Ngài quyết định dùng tình yêu đem con người trở về. Ngài không ngồi một chỗ chờ ta đến cho Ngài yêu thương, nhưng Ngài đến với ta, và hiến dâng tình yêu cho ta. Ngài không đợi ta gõ cửa, nhưng Ngài đã đến gõ cửa từng người để trao ban lòng yêu thương. Chúa Giê-su đã làm người để đến với chúng ta là vì thế. Ngài đã đích thân đến với mọi người và từng người. Ngài đến Bét-sai-đa gặp Phi-líp, vào nhà Phê-rô để gặp gỡ bà nhạc gia của ông, đến trạm thu thuế gặp Lê-vi, đến Bê-ta-ni-a gặp Ma-ri-a, đến bờ giếng Gia-cóp để hoán cải một phụ nữ. Và Ngài đã đến trong đời mỗi người chúng ta. Tình yêu không ngồi chờ. Tình yêu luôn luôn lên đường... “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu mến, vì chính Ngài đã yêu mến chúng ta trước hết” (1Ga 4,19). Như Thiên Chúa đã đi đầu trong việc yêu thương ta, ta cũng thực hiện một tình yêu hoàn toàn tặng không, không đòi hỏi người khác phải thế này thế nọ rồi mới yêu thương. Một tình yêu đến với.

III. Yêu thương không trừ ai
Chúa Giê-su đã yêu thương tất cả mọi người, từ đông sang tây, từ nam chí bắc, từ xưa đến nay và mãi mãi. Tất cả, trong đó có mỗi người chúng ta, đều được Ngài sẵn lòng đón nhận. Cả những kẻ ghét Ngài, Ngài vẫn yêu thương họ. Yêu thương tất cả mọi người, và mỗi người. Ngài đã yêu thương với tất cả tấm lòng.

IV. Làm cho kẻ mình yêu được lớn lên
Chúa Giê-su đã yêu thương để ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho ta được chung phần sự sống của Ngài, làm cho ta được trở nên con cái Cha trên trời trong quyền làm con của Ngài. Tình yêu là san sẻ. Tất cả những ai đã nhận được Tin mừng của Thiên Chúa sẽ không giữ lấy cho mình, nhưng sẽ san sẻ hạnh phúc đó với mọi người, để họ cũng được may mắn như ta, cùng sống hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa với ta. Không những giúp anh em được nên giống Chúa, người ki-tô-hữu còn cầu nguyện cho anh em được điều ấy.

V. Một tình yêu hướng về Thiên Chúa
Đây là đặc điểm thứ năm. Hẳn đã có lúc bạn tự hỏi sẽ lấy gì để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Thì đây, Chúa Giê-su dạy ta câu trả lời: lấy tình yêu đáp trả tình yêu, như Chúa Giê-su đã yêu thương ta và cũng vì “Ngài đã yêu thương ta” (1 Ga 4,11). Trong lịch sử Hội thánh ở Việt Nam, anh An-rê Phú Yên cũng nói như thế với các đồng đạo lúc họ đến chứng kiến cái chết vì tình yêu của anh: “Hỡi anh chị em, chính Chúa Giê-su đã yêu thương ta, ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu; Chúa Giê-su đã chết để cứu ta, ta hãy đem sự sống báo đền sự sống”.
Sự sống đó cũng chính là tình yêu. Nói cách khác, tình yêu phải thấm nhuần tất cả cuộc sống ta để mọi việc ta làm đều hướng về vinh danh Thiên Chúa (1Cr 10,31; Mt 5,16), như Chúa Giê-su đã hướng tất cả về Cha Ngài (Ga 17,4). Ngài đã yêu thương chúng ta để làm cho chúng ta biết Chúa Cha. Chúng ta cũng yêu thương người khác để qua ta, người khác nhận ra được tình yêu Thiên Chúa và được sự sống đời đời. “Sự sống đời đời là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật và độc nhất và Đấng Cha đã sai đến là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17,3). Ta yêu thương người khác để họ yêu thương Chúa Giê-su và trở nên môn đệ của Ngài. Ta yêu thương người khác nghĩa là tự nguyện làm nhịp cầu cho người khác bước lên mà đến với Chúa Giê-su. Tình yêu không dừng lại ở nơi ta nhưng hướng về Thiên Chúa.

VI. Tình yêu quên mình
Chúa Giê-su là Con Một của Thiên Chúa đã đến hy sinh, đền tội thay cho chúng ta (1 Ga 4,10). Ngài là người chăn chiên đến đem sự sống dồi dào cho đoàn chiên. Để cứu đoàn chiên, Ngài đã vui lòng thí mạng sống, như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 10,11 và 15,13).
Với tất cả những đặc điểm đó, tình yêu Chúa Ki-tô thật là mới mẻ. Chính vì thế, ngay từ đầu, lòng yêu thương Ki-tô-giáo được phổ biến bằng một tên mới mẻ là Agape. Khi dịch Cựu ước sang tiếng Hy Lạp, người ta đã dùng tiếng Agape (tình yêu thương, lòng mến, đức bác ái), thay cho tiếng Eros (ái tình). Tiếng Eros thường được dùng để chỉ khoái lạc nhục dục đầy tính cách ích kỷ mà người ta đã mạo nhận là “yêu”, vẫn được phô diễn trong phim thương mại và tiểu thuyết đồi trụy. Vì thế, Kinh thánh không dùng tới tiếng Eros một lần nào, mà chỉ dùng tiếng Agape là tình yêu thương thăng tiến con người.
Tình yêu thương Chúa dạy cũng hàm chứa cả khía cạnh nhân loại. Agape được dùng để chỉ mọi tương quan tình yêu, không những là lòng yêu thương tha nhân đến độ quên mình mà còn là mối tình lôi kéo lẫn nhau giữa hai thụ tạo. Đó là lòng yêu thương của người cha đối với con cái, đó là tình yêu thương giữa hai vợ chồng đã nên dấu tượng trưng cho lòng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Những khía cạnh nhân loại đã trở thành Agape, tình yêu thương thần linh: Chính vì đã quy hướng về Thiên Chúa mà người ta biết yêu bằng tình bác ái.
Anh Tony làm tại một xưởng bia, trong công xưởng có độ 1.000 công nhân, nhưng họ không tìm thấy hạnh phúc, vì họ không liên lạc với nhau, và giữa họ thiếu hẳn tình huynh đệ. Anh Tony, quản trị xí nghiệp này, cũng không liên lạc gì với công nhân. Anh đối xử với họ như những nô lệ. Nhưng từ khi thực sự gặp được Đức Ki-tô, anh đã biến đổi hẳn, anh nhìn thấy Chúa Giê-su trong mỗi người công nhân, và từ đó nảy sinh một mối liên lạc thân tình, giữa anh Tony và các công nhân, vì anh muốn yêu Chúa Giê-su nơi mỗi người trong họ. Đây không phải là điều dễ thực hiện, vì Tony bị ghét. Các công nhân cho là Tony có dụng ý, không thành thật với họ, nhưng rồi nhờ kiên nhẫn, Tony đã thành công... Nếu giờ đây trở lại công xưởng này, ta sẽ thấy tất cả đều thay đổi trong sự liên lạc thông cảm với nhau. Anh Tony là bạn của Jun Funk và Jun Funk đã kể lại chuyện này cho chúng tôi hôm 13-7-1974 trong một buổi nói chuyện tại Nha Trang.
Tony đã nhìn thấy Chúa Giê-su nơi các công nhân. Mà đúng, Chúa Giê-su muốn ta nhìn mỗi người chung quanh bằng tấm lòng quý mến như ta quý mến Ngài, vì chính Ngài đã coi trọng mỗi người trong những người đó như chính bản thân Ngài, và đã đổ máu cứu chuộc từng người để họ được chia sẻ chức phận làm con Thiên Chúa với Ngài. Tuy nhiên, ta đừng lầm cái nhìn này với cái nhìn xuyên qua tha nhân và chỉ thấy có một mình Thiên Chúa. Không, trong giáo lý của Chúa Giê-su, người bên cạnh ta không phải là một cái bóng trong suốt, không phải là một cái bàn đạp để ta tiến lên với Chúa, không phải là một phương tiện thuận lợi giúp ta yêu Chúa mà “lập công”. Người bên cạnh ta chính là một con người với những nhu cầu, với nhân cách, với tất cả cuộc sống nhân loại. Như khi Chúa Giê-su thấy nỗi buồn mất con của bà góa thành Na-im mà “động lòng thương”. Như cảnh người Sa-ma-ri gặp một người đầy thương tích bên đường mà “động lòng thương”. Trong những trường hợp này, nạn nhân là một đối tượng rất sống động và cụ thể...
Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941, tại trại tập trung Oswiecim của Đức quốc xã có một người vượt ngục. Mười người khác bị xử tử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm không dám kêu một tiếng, trừ một người rú lên: “Ôi, vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dãy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình. Không ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người đàn ông gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có. Viên trại trưởng đặt tay lên súng:
- Anh muốn gì?
Người kia trả lời rất nhỏ:
- Tôi muốn chết thay cho một người trong bọn họ.
Viên trại trưởng sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trại trưởng nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu.
Kẻ tình nguyện hôm đó là Maximilien - Kolbe, một linh mục công giáo.
Trong cuộc phán xét, Chúa Giê-su nói: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em hèn mọn này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta” (Mt 25,40). Nghe lời đó, hẳn ai cũng tự nhủ: “Nếu tôi biết phẩm giá anh em tôi cao quý như vậy, tôi đã yêu mến họ nhiều hơn biết mấy”.
Hôm nay, Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta biết sự cao cả của người chung quanh là để chúng ta càng thêm lòng yêu mến họ. Nhờ lời Chúa dạy, chúng ta sẽ dễ yêu thương người bên cạnh với tất cả tâm hồn, không phải vì họ dễ thương, nhưng vì họ là chi thể quý giá của Chúa Giê-su, là con của Cha trên trời, là anh em với chúng ta trong máu Chúa Ki-tô.
Anh chị thân mến,
Thánh Âu tinh nói: “Cứ yêu thương đi rồi muốn làm gì thì làm”. Tình yêu thương là tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của người ki-tô-hữu. Nhưng cần xác định rõ thế nào là yêu thương, để khỏi rơi vào ngụy biện, buông thả theo tình dục rồi phân bua: những gì làm vì yêu không có tội. Làm như vậy là quên rằng tình yêu thương mà Chúa Giê-su dạy và Hội thánh rao giảng là yêu thương như Chúa Giê-su đã yêu thương, nghĩa là một tình yêu đến từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.
Có người sẽ hỏi: nhưng yêu thương như Chúa Giê-su để làm gì? Thưa, yêu thương để cho tình yêu lớn lên. Tình yêu phát sinh tình yêu. Ta tình nguyện trở thành men yêu thương như chương trình từ ban đầu Thiên Chúa đã định cho con người. Yêu thương để nuôi sống nhân loại, vì yêu thương là muối ướp nhân loại khỏi ươn thối. Yêu thương để đưa cả loài người vươn tới Thiên Chúa, để loài người được thành đạt mà làm vinh danh Thiên Chúa, Cha chúng ta. Như lời Kinh thánh nói: “Bởi đó, anh em hãy chấp nhận lẫn nhau, như Đức Ki-tô đã chấp nhận anh em vì vinh quang Thiên Chúa” (Rm 15,7).

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Tại sao phải có tình yêu đích thực thì hôn nhân và gia đình mới đạt được hạnh phúc đích thực?
2.  Tình yêu đích thực là thế nào?

 Gợi ý cầu nguyện:
Mỗi người tìm nơi thanh vắng, dành thời giờ thinh lặng suy nghĩ và tâm sự với Chúa dựa theo Lời Chúa trong 1Ga 4, 7-12:
Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.
 

Gặp Gỡ 2
TẤT CẢ TRONG TÌNH YÊU

Muốn luôn yêu thương như Chúa Giê-su, anh chị cần làm thế nào để luôn cảm nhận tình yêu của Chúa Cha, tự nhắc nhở mình đáp lại tình yêu ấy từng giây phút và mau mắn trở lại với tình yêu nếu có khi nào lỡ lạc xa.

I.  CẢM NHẬN YÊU THƯƠNG
Trước hết, anh chị cần cầu xin Chúa cho anh chị cảm nhận được Ngài đang yêu thương anh chị đến mức nào, để lòng anh chị thấy nôn nóng đáp lại bằng một tình yêu mãnh liệt.
Chúa Giê-su đã yêu thương vô vàn, yêu đến thí mạng sống là vì Ngài đã cảm nhận được tình yêu vô biên của Cha Ngài. Câu “như Cha đã yêu thương Ta” cho thấy rõ điều đó. Khắp mọi nơi mọi lúc, Ngài đều cảm nhận được tình Cha yêu thương: “Ta đã giữ lệnh truyền của Cha Ta, và Ta ở trong tình yêu thương của Ngài” (Ga 15,10). Nhìn mọi vật, Ngài đều thấy rõ tình yêu của Cha: “Mọi vật đã được Cha Ta trao phó cho Ta” (Mt 11,27). Tâm tình của Ngài vì thế bao giờ cũng chan hoà yêu thương cảm tạ: “Lạy Cha, con ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải cho những tâm hồn bé mọn” (Ga 11,41). Ngài luôn luôn kết hiệp với Cha trong tình yêu: “Lạy Cha, Cha ở trong con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Tình yêu Cha ấp ủ Ngài từng giây phút: “Đấng đã sai Ta ở với Ta, Ngài không bỏ ta một mình, vì Ta hằng làm những sự đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).
Đến lượt chúng ta, chúng ta tha thiết cầu xin cho mình cảm nhận được tình yêu này của Thiên Chúa, để cũng như Chúa Giê-su, chúng ta sẽ nhờ đó mà yêu thương đậm đà. Muốn cảm nhận được tình yêu này phải cầu xin, nhưng không phải cứ nhắm mắt xin là đủ, trái lại, phải mở mắt để nhận ra tình yêu Ngài đang bao bọc lấy ta. Mở mắt nhìn thiên nhiên, nhìn cuộc đời và nhìn chính bản thân ta và xin Chúa cho thấy được nơi tất cả những điều đó NGÀI ĐANG YÊU THƯƠNG ta đến ngần nào.
Phải, Thiên Chúa đã yêu thương anh chị từ đời đời và còn yêu thương anh chị đến vô cùng tận. Nhưng quan trọng nhất là Ngài đang yêu thương anh chị, ngay lúc này, ngay tại đây. Ngài yêu thương không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành động: Ngài đang CHO anh chị tất cả, và đang LÀM cho anh chị tất cả. Khi đã biết lắng nghe tình yêu Chúa trong vạn vật, thì không cần nhớ chuyện gì sâu xa, chỉ cần lật một trang giấy, nhặt lên một viên sỏi, ngắm một cành hoa, anh chị cũng thấy tình yêu Ngài tràn ngập: trong những vật đó, Thiên Chúa đang hiện diện nơi từng tia phóng xạ, từng vi thể vật chất, Ngài tác động cho nó hiện hữu, Ngài săn sóc giữ gìn nó và NGÀI TRAO NÓ LÀM QUÀ CHO ANH CHỊ.
Có một cách cầu nguyện đơn giản dễ giúp tập quen cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa: Tạ ơn theo hơi thở.

II. TẠ ƠN THEO HƠI THỞ
1. Bước vào thực tập
Xin anh chị dành ra nửa giờ, hoặc lâu hơn, chỉ chuyên dành để cảm nhận Tình yêu Thiên Chúa. Anh chị có thể đứng hay ngồi ở một phòng kín, trong nhà nguyện, một góc vườn hay đi bách bộ trên một quãng đường ngắn cũng được... Miễn sao tâm hồn anh chị thật yên lặng thoải mái. Anh chị ý thức mình đang hiện diện trong Thiên Chúa và xin Ngài thương giúp anh chị cảm nhận được tình yêu Ngài. Cũng xin nhắc lại, ở đây chúng ta không suy niệm về Thiên Chúa là Tình Yêu, nhưng là cầu nguyện để cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Việc cầu nguyện này sẽ giúp anh chị nhận ra Thiên Chúa đang CHO anh chị tất cả và tình yêu là trao đổi giữa đôi bên, nên vừa cảm nhận được Ngài đang trao cho anh chị, anh chị cũng thưa ngay với Ngài là anh chị đang dâng hiến tất cả cho Ngài.
2. Nội dung thực tập:
Việc thực tập này rất đơn giản. Chỉ cần nhớ 3 điều sau đây:
- Hít vào thật sâu, thở ra thật chậm.
- Vừa hít vào vừa nguyện thầm trong trí: “Cha đang cho con tất cả
- Vừa thở ra vừa nguyện thầm trong trí: “Xin Cha nhận lấy con đây”
3. Hít vào
Cùng với dưỡng khí Thiên Chúa đang ban cho anh chị khi anh chị hít vào, anh chị hãy NHỚ TỚI bao nhiêu ơn lành khác.
- Ơn lành trước mắt: ánh sáng, đưỡng khí, áo quần, sách vở, căn phòng đang che mưa nắng, mặt đất đang nâng đỡ ta...
- Ơn lành khắp nơi: cha mẹ, anh chị em, thân nhân bạn hữu, dân tộc, nhân loại, thời đại ánh sáng này... bầu khí quyển, hệ mặt trời, vũ trụ...
- Ơn lành quá khứ: từ ngày sinh ra cho đến nay.
- Ơn lành trong tâm hồn: trí tuệ, tự do, tình yêu, ơn được làm con cái Thiên Chúa...
- Ơn lành còn chính là bản thân Thiên Chúa: Kinh thánh dùng từ ngữ khí, hơi thở để diễn tả Chúa Thánh Thần.
Khi hít vào trong tâm tình cầu nguyện, bên ngoài anh chị được đón nhận dưỡng khí, bên trong anh chị đang đón nhận chính Chúa Thánh Thần, và cùng với Chúa Thánh Thần, cả Chúa Cha và Chúa Con cũng đến với anh chị.
4. Thở ra
Cùng với hơi thở ra, anh chị sống tâm tình cảm tạ và hiến dâng: “Xin Cha nhận lấy con đây”.
Anh chị dâng lên Thiên Chúa tất cả những gì anh chị đang nhận được
- Dâng mọi ơn lành bên ngoài: vật và người.
- Dâng mọi ơn lành bên trong: ý thức, tình yêu và nhất là dâng ý muốn tự do để xin Thiên Chúa làm chủ đời anh chị.
- Sau cùng là dâng chính Chúa Giê-su là đầu của anh chị, là thân nho mà anh chị là cành nho.
Bài tập tạ ơn theo hơi thở có thể được thực hiện bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu: trên xe, trên đường, trên giường ngủ.
Khi vui hãy tạ ơn theo hơi thở, sẽ thấy niềm vui thấm sâu và bền bỉ.
Khi buồn hoặc thất bại, tạ ơn theo hơi thở sẽ giúp đạt được bình an.
Khi bị cám dỗ, tạ ơn theo hơi thở sẽ giúp ta có sức mạnh lướt thắng.
Cứ tạ ơn theo hơi thở anh chị sẽ quen dần với việc cảm nhận yêu thương trong cuộc sống. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bất cứ gặp ai hay sử dụng một vật gì, anh chị cũng có thể nhận ra Thiên Chúa đang cho anh chị tất cả. Thiên Chúa tràn ngập từng giây phút và mọi cảnh ngộ đời anh chị. Thỉnh thoảng, anh chị cũng nên dành ra chừng mười lăm phút, nửa giờ để ôn lại cảm nhận đó cách kỹ lưỡng hơn.

III.  SỐNG YÊU THƯƠNG
Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an nhắc nhở chúng ta: “Tình yêu thương hệ tại ở điểm này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng là chính Ngài đã yêu mến ta và sai Con của Ngài đến hy sinh đền tạ tội lỗi ta” (1Ga 4,10), “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11). Yêu thương là kết quả của được yêu thương (và cũng là nguyên nhân nữa), cho nên vừa nói “như Cha đã yêu thương Ta”, Chúa Giê-su liền nói thêm “Ta đã yêu thương các ngươi”. Thực sự cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa là anh chị bắt đầu sống yêu thương rồi. Vì thế, sau phần trình bày về cảm nhận yêu thương, tôi chỉ nhắc lại mấy điểm về tình yêu của Đức Ki-tô, mẫu mực cho tình yêu của chúng ta.

Tình yêu Ngài vượt mọi ranh giới: Ngài vượt qua các ranh giới nghìn trùng giữa Tạo hoá và thụ tạo để nối kết vô biên với hữu hạn, nối kết vĩnh cửu với thời gian. Vì thế, trong tình yêu của Ngài không có một kỳ thị nào, những kẻ ngoại bang, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội ruồng rẫy... càng được Ngài yêu thương. Yêu thương cả những kẻ oán thù.

Tình yêu của Ngài là tình yêu đi bước trước và yêu đến cùng. “Con Người không đến để được hầu hạ nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người (Mc 10,45). Và Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở nên vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá (Pl 2,7) để thể hiện lời Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).

Đó là tình yêu mà chúng ta tiếp tục thực hiện cho hết mọi người chung quanh: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em mà nó thấy được, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà nó không thấy” (1Ga 4,20).

IV. RAO GIẢNG YÊU THƯƠNG
Ta đem lửa xuống trần gian, và Ta không mong ước gì hơn là cho lửa ấy cháy lên” (Lc 12,49). Lửa đó là tình yêu, tình yêu phải lan rộng. Vì thế sau khi nói về tình yêu của Cha và của Ngài, Chúa Giê-su nói thêm: “Các ngươi hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các ngươi”. Và cũng tương tự, Ngài muốn không những chúng ta yêu thương, nhưng chúng ta còn biết làm cho người khác yêu thương. Trong lời nguyện cuối đời, Ngài nêu rõ điều đó: Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai chúng đến trong thế gian để rao giảng cho mọi người biết tình yêu của Thiên Chúa. Cha yêu thương Đức Ki-tô, Đức Ki-tô yêu thương chúng ta, chúng ta yêu thương mọi người, mọi người yêu thương nhau. Đó là dây chuyền tự nhiên của tình yêu. Ai cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, đều để cho mình được cuốn theo dòng sông yêu thương đó.

Ngay từ đầu, các đàn anh của chúng ta đã làm như thế. Điều đã nhận được, các tông đồ không giữ riêng cho mình, nhưng họ mau mắn chia sẻ với người khác. Gio-an tâm sự: “Điều chúng tôi đã từng thấy và đã từng nghe, thì chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, ngõ hầu anh em được thông hiệp với chúng ta. Mà sự thông hiệp của chúng tôi là sự thông hiệp với Cha và Đức Giê-su Con Ngài (1Ga 1,3). Phao-lô cũng thổ lộ: “Xin Chúa gia tăng và làm chan chứa nơi anh em lòng mến thương nhau và mến thương mọi người, như chúng tôi đối với anh em” (1Tx 3,12). Thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca của Phao-lô cho thấy rõ rằng lòng người sứ đồ yêu thương giáo dân đã đem lại kết quả là giáo đoàn sống mật thiết yêu thương nhau để tình thương đó lan dần đến những người khác nữa: “Anh em đã noi gương chúng tôi và bắt chước Chúa, đã chịu lấy lời Ngài giữa bao nỗi gian truân, trong sự hoan hỉ của Thánh Thần khiến anh em đã trở nên mẫu mực cho mọi tín hữu trong vùng Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a (1Tx 1,6-7). (có thể xem thêm 2,7-12 để thấy lòng yêu thương của Phao-lô dành cho giáo dân).

Sứ mệnh của người ki-tô-hữu là hãy yêu thương nhau. Từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Tha thứ cho nhau, sống hoà thuận với nhau không có nghĩa là sống uể oải, bất động. Trái lại, người ki-tô-hữu có bổn phận tạo công bằng xã hội, hoà bình và tự do, vì nhân loại cần được hoàn hảo và phát triển cho đến khi đạt tới kích thước hoàn toàn như Thiên Chúa muốn. Người ki-tô-hữu hành động chống lại bất công, chống lại mọi hình thức bóc lột và kỳ thị. Họ dấn thân phục vụ để nâng cao đời sống tha nhân. Đối với ki-tô-hữu, phục vụ công cuộc thăng tiến cuộc sống nhân loại là một mục đích tự nó có đầy đủ giá trị, nên họ hợp tác với anh em khác tín ngưỡng để cùng theo đuổi.

Gần gũi và căn bản hơn, chúng ta xây dựng tình yêu thương trong gia đình mình và tại nơi mình làm việc. Yêu thương người bên cạnh, những kẻ chung sống hằng ngày, xóa mình đi để giữ hoà khí và để nhóm lửa yêu thương... Việc này đòi hỏi phải chịu nhiều hy sinh to lớn. Nó đòi một sự quảng đại triền miên và đôi khi quả là phải vác thập giá hằng ngày (Lc 9,23). Nhưng kết quả của những hy sinh này thật huy hoàng, ta sẽ ứa lệ vui mừng khi thấy tình yêu đang dần dần lan tỏa quanh ta.

Xây dựng một bầu khí yêu thương nhân loại chưa đủ, phải giúp cho mọi người biết điều này là Thiên Chúa đã yêu nhân loại đến nỗi ban cho họ Đức Giê-su Cứu Thế. Đời sống tốt đẹp của người ki-tô-hữu là lời rao giảng hùng hồn nhất. Như lời Chúa Giê-su nói: “Các ngươi là ánh sáng cho thế gian, một thành phố tọa lạc trên núi thì làm sao mà che khuất được” (Mt 5,14). Nhưng Chúa Giê-su còn muốn chúng ta rao giảng bằng lời nói nữa: “Hãy đi rao giảng khắp cả thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Thực ra lắm lúc người ki-tô-hữu đã quá thiếu sót trong việc này, nhiều anh chị em quanh chúng ta muốn nghe Tin mừng nhưng chúng ta lại im lặng. Nhiều người ki-tô-hữu thấy rằng mình không được chuẩn bị để nói về Chúa Ki-tô, nói về lòng tin của mình. Nhưng có lẽ họ thiếu can đảm thì đúng hơn. Họ sợ bị mang tiếng là “truyền đạo”. Nhưng một ki-tô-hữu đích thực không thể bỏ qua việc này, vì đó là mệnh lệnh của Chúa. Hơn nữa, chúng ta được Chúa cho nghe Tin mừng lớn lao của Ngài mà bo bo giữ lấy một mình, giấu nhẹm Tin mừng đó đi thì thật đáng trách. Có người ngại không biết phải nói gì! Thật ra cứ bắt đầu rồi mọi sự sẽ đâu vào đó. Chúa Giê-su hứa: “Không phải các ngươi nói, mà Thần Khí của Cha sẽ nói trong các ngươi” (Mt 10,20). Rao giảng là một mệnh lệnh do chính Chúa truyền dạy: “Điều Ta nói với các ngươi trong bóng tối, các ngươi hãy nói ra  ánh sáng, điều các ngươi nghe rỉ tai, hãy rao trên sân gác” (Mt 10,27). Thánh Phao-lô cũng nhắc lại trong thư của ngài gửi Ti-mô-thê:: “Tôi khẩn thiết kêu cầu anh, dù gặp thời thuận tiện hay không, cũng cứ rao giảng Lời Chúa” (2Tm 4,2).

Trên chuyến xe về Nha trang, H. đã nói cho một người bên cạnh nghe về Chúa Giê-su. Cuối chuyến xe người này cho biết: “Tất cả những chuyện đó tôi thật không ngờ. Đây là lần đầu tiên tôi nghe một người công giáo nói về Chúa Ki-tô”.

Q. là một giáo viên không tin gì cả. Một hôm anh và mấy người bạn cùng đi chơi với nhau, họ đồng ý xin vào xem một ngôi nhà thờ kiểu mới. Tại đây, một người bạn của Q. đã giải thích cho mọi người về 14 bức tranh kể lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, qua đó, anh tóm tắt lại sứ điệp của ki-tô-giáo. Sau buổi đi chơi, Q. ngỏ ý nhờ người bạn giúp mình tìm hiểu ki-tô-giáo.

Tổ thi công của Ng. sửa khúc đường Lê Lợi. Mỗi buổi trưa ăn xong, Ng. ngồi tâm sự với chị em bạn dưới bóng cây. Chị em đề nghị Ng. hát cho họ mấy bản thánh ca. Và từ những lời ca đó, họ đã hỏi nhiều về Chúa và Đức Mẹ. Ng. chân thành trả lời họ.

Em Hoài, một bé gái 10 tuổi, trên một chuyến xe về Trung, trời trưa, em đói bụng và lấy bánh mì ra ăn. Trước khi ăn, em làm dấu thánh giá. Người đàn ông bên cạnh hỏi:
- Cháu làm cái gì vậy?
- Thưa bác, cháu làm dấu thánh giá bên công giáo đó bác.
- Dấu thánh giá nghĩa là làm sao?
- A, vậy là bác không biết rồi.
Rồi em nói lại những gì em hiểu, quên cả khúc bánh mì.
Dĩ nhiên, không có bài giảng nào thay thế được cuộc sống,  hơn nữa, lắm lúc người ta chỉ có thể nói bằng chính sự sống của mình.
Trong một trại tù binh cuối thế chiến 2, đời sống cơ cực hết chỗ nói. Một mục sư cũng bị tù ở đó. Ông chia sẻ với mọi người đến mẩu bánh cuối cùng của ông, chia sẻ tất cả thuốc men và quần áo mà ông có. Một lần kia, trong khi nói chuyện với một nhóm bạn tù, một người hỏi ông: “Nhưng ông Giê-su  đó như thế nào, giống như ai?”. Lấy ai để so sánh bây giờ? Vị mục sư nhắm mắt lại, lấy hết can đảm, ông khẽ trả lời, đơn giản và khiêm tốn: “Giê-su giống như tôi”. Và ông nhắm mắt lại cầu nguyện trong khi người bạn tù kia lên tiếng: “Vậy thì tôi yêu mến ông Giê-su đó”.
Then chốt của lời chứng là chữ NHƯ đó: “Anh em hãy bắt chước tôi, NHƯ tôi đã bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11,1). Rao giảng bằng một cuộc sống chứng nhân, một cuộc sống xóa mình phục vụ. Đòi hỏi đó thật khó khăn nhưng cũng thật cần thiết, để chúng ta được luôn khiêm tốn.

 

V. TRỞ LẠI VỚI YÊU THƯƠNG

Sau cùng, chúng ta còn phải cố gắng mãi để mỗi ngày được nên giống Chúa Giê-su hơn, mỗi ngày phải tiến thêm. Tình yêu của chúng ta chỉ có thể tăng thêm hoặc giảm bớt chứ không thể đứng yên. Có một thời giới sinh viên Âu Châu đưa ra một châm ngôn tình yêu thật đẹp mà ta có thể áp dụng cho tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và mọi người: “Hôm nay hơn hôm qua nhưng chưa bằng ngày mai”.

Nhưng để tiến mãi như vậy, ta cần phải không ngừng canh tân chính mình, kẻo nhỡ ta thụt lùi lúc nào không hay. Có một nhóm tín hữu trẻ cùng đi phục vụ với một tập thể những anh chị em không mấy thiện cảm với ki-tô-giáo, giữa rừng hoang, xa cách nhà thờ và mọi sinh hoạt tôn giáo. Cuộc sống rất cam go, dễ làm người ta lãng quên cả đức tin. Về sau, một người trong nhóm họ kể lại: sở dĩ họ còn gần gũi Chúa Ki-tô và sống đức tin mãnh liệt là nhờ mỗi ngày họ đã tự vấn: “Hôm nay Đức Ki-tô đối với tôi là ai rồi?”.

Đó quả là một câu hỏi rất chính xác mà chúng ta phải đặt ra cho mình mỗi ngày. Hôm nay, Đức Ki-tô đối với tôi là ai rồi? Vâng, hôm nay chứ không phải hôm qua hay một hôm nào khác. Hôm nay, Đức Ki-tô. Đức Ki-tô, chứ không phải ai khác. Tôi đã theo Đức Ki-tô, chứ không phải một người đại diện Hội thánh. Mọi chuyện có thể đổi thay, con người có thể phản bội, các ki-tô-hữu bên cạnh tôi có thể làm tôi nản lòng, nhưng Đức Ki-tô thì không thay đổi. Ngài vẫn trung thành. Ngài trung thành mãi. Hôm nay Đức Ki-tô đối với tôi, điều quan trọng là đối với tôi. Tương quan giữa Ngài và tôi là tương quan tuyệt đối. Lời Ngài mời gọi là lời mời gọi tôi. Tôi chứ không phải ai khác. Không ai sẽ chịu trách nhiệm dùm tôi trước mặt Đức Ki-tô.

Đức Ki-tô đối với tôi là ai rồi? Phải thêm chữ “rồi” vào ngay sau câu hỏi. Chữ “rồi” thật quan trọng. Có thể trong quá khứ ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, đã dâng hiến Ngài tất cả. Có thể đã có lúc ta sẵn sàng móc đôi mắt cho Ngài, moi quả tim dâng Ngài. Nhưng rồi hôm nay? Ngài thì không thay đổi, nhưng tình ta yêu Ngài có đổi thay? Thế nên mỗi ngày phải tự hỏi lại; để đừng bao giờ Đức Ki-tô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tự hào của quá khứ! Để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước nhẫn nhục bên cạnh đời ta, còn ta thì chịu đựng Ngài như một của nợ, một người tình bất đắc dĩ. Sách Khải huyền ghi lại Lời Chúa Giê-su nhắc nhở giáo đoàn Ê-phê-xô: “Ngươi có lòng kiên nhẫn, chịu đựng vì Danh Ta, gian lao chẳng quản. Nhưng Ta oán trách ngươi điều này: ngươi đã bỏ lơi lòng mến thuở ban đầu. Vậy ngươi hãy lo nhớ lại ngươi đã sa đọa từ đâu và hãy hối cải mà làm cái việc ban đầu!” (Kh 2,4-5)

Tóm lại, để sống như Đức Ki-tô, sống trong Thiên Chúa, ta phải cảm nhận yêu thương, sống yêu thương, rao giảng yêu thương và trở lại với yêu thương. Tất cả những điều đó không dễ một tí nào. Nhưng mọi khó khăn đều có thể vượt qua, vì Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta như lời tuyên xưng của thánh Phao-lô: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Chúa Ki-tô? Phải chăng là gian truân, bỉ cực, bắt bớ, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư? Nhưng trên các điều ấy, hết thảy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Vì tôi thâm tín rằng: dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều sâu hay chiều cao, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. (Rm 8,35-39).

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Để yêu thương, không phải chỉ muốn là đủ, nhưng còn phải học cách yêu thương. Anh chị nghĩ thế nào về điều này?
2. Để có thể sống yêu thương và mang lại hạnh phúc cho nhau, anh chị cần làm thế nào?

Gợi ý cầu nguyện:
Suy nghĩ và cầu nguyện theo 1 Ga 3,16-18:
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu chúng ta có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
 

Gặp Gỡ 3
ĐẠO HIẾU

Bước vào hôn nhân, anh chị hiểu rằng tình yêu không khép lại với riêng hai người, nhưng mở ra với tất cả, trước hết là đối với cha mẹ đôi bên, cùng với anh chị em họ hàng.
Trong khi hướng tới thực hiện tương lai mình nơi con cháu, anh chị không thể quên công ơn của tiền nhân: ông bà, tổ tiên. Tình gia tộc, đạo hiếu thảo là một môi trường rất thuận lợi để học yêu và yêu như Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã yêu và vâng phục cha mẹ trần gian của Ngài (Lc 2,51-52).

 

I. KHI CHA MẸ CÒN SỐNG

Luật Chúa dạy con cái phải có tâm tình và thái độ nào đối với cha mẹ?
Kinh thánh coi hiếu thảo là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất trong tương quan giữa người với người (Ep 6,1-2;
Is 49,15; Is 63,16; 64,7)
Là con cái, ta cần biết sống thảo hiếu đối với cha mẹ. Ta phải yêu thương kính mến cha mẹ, đặc biệt là khi các ngài còn sống, bởi vì  các ngài là những người đã hợp tác với Thiên Chúa để truyền lại sự sống cho ta. Cha mẹ đã chăm lo nuôi dưỡng và giáo dục ta. Tình yêu thương của cha mẹ thật lớn lao đến nỗi trong Kinh thánh, Thiên Chúa đã dùng để diễn tả tình Ngài yêu thương ta. Ta phải yêu mến, tôn kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ.

Phải yêu mến và tôn kính cha mẹ như thế nào?
Thiên Chúa muốn ta thật lòng yêu mến và tôn kính cha mẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm.
- Trong tư tưởng, ta thực tình nhìn nhận cha mẹ đáng trọng kính, vì đã sinh, nuôi, dạy dỗ, hướng dẫn, gây dựng hạnh phúc cuộc đời cho ta.
- Trong lời nói, ta lựa cách xưng hô và chuyện trò thật khiêm cung, êm ái, không bao giờ dùng những lời nói cứng cỏi, nóng nảy đối với cha mẹ.
- Trong việc làm, ta năng thăm viếng, hoặc  thư từ, hỏi han bày tỏ lòng yêu mến bằng quà biếu, tìm cách làm cho cha mẹ được vui. Khi liệu việc trọng đại, dù đã ở riêng, ta cũng nên bàn hỏi cha mẹ vì các ngài có ơn Chúa để giúp ta (Hc 3,1-16).

Phải vâng lời cha mẹ như thế nào?
Khi chưa trưởng thành, con cái phải mau mắn vâng lời cha mẹ trong tất cả những gì hợp luật Chúa dạy, không nên trách móc phàn nàn. Ngay cả khi đã trưởng thành và dù đã ở riêng, nếu ta có làm điều gì sai trái mà cha mẹ có lòng nhắc nhở, cần mau mắn vâng theo. Hơn nữa, người con trưởng thành cần biết đón trước điều cha mẹ mong muốn để làm đẹp lòng cha mẹ. Khi cha mẹ lâm chung, có trối phó điều gì, con cái nên vui lòng noi giữ. Ngược lại, nếu cha mẹ có ép cưỡng điều gì trái lương tâm, con cái nên tìm cách giãi bày để cha mẹ cảm thông, chứ không được hùa theo (Lc 2,51-52; Dt 5,8; Mt 10,34-39).

Phải giúp đỡ cha mẹ thế nào?
Phải luôn luôn giúp đỡ cha mẹ về phần hồn phần xác, nhất là khi các ngài già cả, ốm đau, thiếu thốn, cần tận tâm tận lực phụng dưỡng, lo thuốc thang đầy đủ, vui vẻ thăm nom sớm tối. Đừng vì keo kiệt, ganh tị nhau mà để cha mẹ khổ cực. Phải cầu nguyện cho cha mẹ được mọi ơn lành, liệu cho cha mẹ được lãnh các bí tích và dọn mình sống đời đời (1Tm 5,8; Mt 15,1-6).

Ngoài cha mẹ, ta có bổn phận gì đối với những người trong gia tộc?
Ta cần biết kính nể và yêu mến tất cả mọi người trong gia tộc ta, như ông bà, chú bác, cô dì, cậu mợ và anh chị em. Ta cần cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ tùy sức ta.

II. KHI CHA MẸ ĐÃ QUA ĐỜI
 

Khi cha mẹ qua đời, ta phải tỏ lòng hiếu kính thế nào?
Phải lo an táng, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Anh chị em cần hoà thuận yêu thương nhau, noi gương cha mẹ để nên lành nên thánh. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, ta còn nên xin cha mẹ cầu nguyện cho ta trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho ta.

Hội thánh công giáo đón nhận việc thờ cúng ông bà như thế nào?
Hội thánh nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội thánh khuyến khích  các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, phải loại trừ những chi tiết mang ý nghĩa trái ngược với giáo lý công giáo (xin xem thêm bài 18, số 1-5 và 13-14).

Vì sao đã có một thời gian Hội thánh ngăn cấm việc cúng tế và vì sao nay lại cho phép?
Những thời gian đầu của việc truyền giáo ở Việt Nam, Hội thánh vẫn để cho tín hữu bày tỏ lòng hiếu kính đối với người đã khuất bằng những hình thức cúng tế. Thế nhưng về sau xét thấy có những điều có thể gây ngộ nhận, không hợp với đức tin chân thật, nên Hội thánh buộc lòng phải ngăn cấm để tránh gây thiệt hại cho đức tin. Đến giữa thế kỷ 20, xét thấy nhận thức của dân chúng đã cao, không còn nguy cơ hiểu lầm tai hại như xưa, nên vào năm 1964, Hội thánh đã giải tỏa lệnh cấm và mời gọi phát huy những điều tốt đẹp phù hợp với đức tin.

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Có người nói: “Theo đạo Chúa là bỏ ông bỏ bà”. Anh chị trả lời thế nào?
2. Anh chị đã biết gì về cha mẹ, anh chị em và họ hàng của bạn mình?

Gợi ý cầu nguyện:
Mỗi người tìm nơi thanh vắng, dành thời giờ thinh lặng suy nghĩ và tâm sự với Chúa dựa theo Lời Chúa trong Ep 6,1-4:
Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất, có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
 
II
HÔN NHÂN
LÀ CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH
VÀ ĐẠT TỚI HẠNH PHÚC


Gặp Gỡ 4
TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA,
HÔN NHÂN LÀ MỘT CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH

Tại sao lại nói tới “nên thánh” khi đề cập đến hôn nhân?
Thưa, vì hôn nhân nhằm giúp con người được sống hạnh phúc trong tình yêu, mà ý nghĩa cuối cùng của hai chữ “nên thánh” không gì khác hơn là đạt đến hạnh phúc tuyệt đối trong Thiên Chúa Tình yêu. Hôn nhân là một con đường nên thánh là vì hôn nhân cung ứng cho người trong cuộc những yếu tố thuận lợi để đạt tới hạnh phúc cuối cùng trong tình yêu Thiên Chúa.
Mục tiêu nên thánh của hôn nhân được xác định từ trong Cựu ước và được nhấn mạnh nhiều hơn trong Tân ước.

 

I.  THIÊN CHÚA DỰNG NÊN CON NGƯỜI
ĐỂ HỌ ĐƯỢC SỐNG HẠNH PHÚC

Khi hai người nam nữ yêu nhau, người ta tưởng rằng việc yêu đó là do tự hai người mà thôi. Thật ra việc yêu đó phát xuất từ Thiên Chúa, được tình yêu Thiên Chúa làm nền tảng nâng đỡ. Trước khi có con người, trước khi có tình yêu trong nhân loại, chính Thiên Chúa  đã yêu thương nhân loại. Ngài muốn con người sống thành hôn nhân để đạt tới hạnh phúc và Ngài còn muốn lấy tình yêu của Ngài làm mẫu mực cho tình yêu hôn nhân.

Chương hai của sách Sáng thế kể lại: A-đam được quyền đặt tên cho mọi thụ tạo của Thiên Chúa, tức là được làm chủ tất cả. Thế nhưng ông vẫn buồn vì không tìm được một người bạn tương xứng với mình. Thiên Chúa cảm thông nỗi buồn của A-đam. Ngài dựng nên E-và và dẫn đến với ông. Vừa thấy E-và, A-đam reo lên:
- Ôi, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi.
Câu chuyện trên cho thấy hôn nhân là để con người được hạnh phúc. Tuy nhiên, câu chuyện không dừng ở đó. Câu chuyện kể tiếp rằng Thiên Chúa đặt con người trong khu vườn hạnh phúc để nó giữ vườn cho Thiên Chúa. Khu vườn ấy có đủ thứ ơn lành của Thiên Chúa và nhất là ở đó con người được sống thân tình với Thiên Chúa: chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đến gặp gỡ con người.
Hình ảnh thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nhằm diễn tả một sự thật: Hạnh phúc lớn nhất của con người là được sống thân mật với Thiên Chúa, là được thuộc về Thiên Chúa, tức là được nên thánh.
Hạnh phúc đó đạt được khi con người vâng phục Thiên Chúa, thực hiện ý của Thiên Chúa, làm công việc mà Thiên Chúa trao phó.

 

II.  THIÊN CHÚA DIỄN TẢ TÌNH YÊU NGÀI
BẰNG HÌNH ẢNH HÔN NHÂN

Thiên Chúa đã rất trân trọng tình yêu hôn nhân. Ngài đã dùng hình ảnh hôn nhân để diễn tả tình yêu của Ngài đối với nhân loại:
 Ngài coi Áp-ra-ham, Mô-sê như bạn hữu thân thiết.
 Ngài coi dân Do Thái như một hiền thê: mặc dù nhiều lần dân Do Thái bất trung, bỏ Ngài đi thờ ngẫu tượng, Ngài vẫn thứ tha và nhẫn nại yêu thương.
 Ngài đã mặc khải tình yêu đó qua các ngôn sứ:
-  Ngôn sứ Hô-sê được lệnh dùng chính kinh nghiệm hôn nhân riêng của ông để diễn tả tình yêu trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Ngài.
-  Ngôn sứ Giê-rê-mi-a dùng biểu tượng hôn nhân để nhắc nhở dân Chúa biết họ đã sa đọa và phản bội tình yêu Thiên Chúa.
-  Ngôn sứ I-sai-a lại dùng lời an ủi nói cho Giê-ru-sa-lem biết nó được Thiên Chúa yêu thương đến mức nào: “Đấng Tạo Hoá chính là chồng ngươi. Ngài bỏ ngươi một lúc thôi, rồi lại yêu thương vĩnh viễn”.

 

III.  ThIÊn CHÚA BẢO ĐẢM HẠNH PHÚC HÔN NHÂN

Thiên Chúa ưu ái đối với hôn nhân, Ngài nâng đỡ con người trong trách nhiệm ấy:
 Bằng cách kín đáo sắp xếp một số cuộc hôn nhân:
- Ngài đã đưa dẫn người lão bộc của Áp-ra-ham đi tìm người vợ xứng đáng cho I-xa-ác: đó là Rê-béc-ca.
- Ngài đã sai sứ thần Gáp-ri-en dẫn đưa Tô-bi-a con đến Me-di cưới Sa-ra làm vợ.
Hai trường hợp trên nói lên việc Thiên Chúa hỗ trợ cho một trong hai mục đích của hôn nhân là yêu thương và nâng đỡ nhau.

 Bằng cách cho một số các bà mẹ son sẻ được sinh con theo lời cầu xin của họ: đó cũng là cách hỗ trợ cho mục đích thứ hai của hôn nhân là sinh sản con cái:
- Bà Sa-ra sinh ra I-xa-ác lúc đã cao niên.
- Bà An-na đã sinh ra Sa-mu-en.
- Vợ ông Ma-nô-a đã sinh ra Sam-son.
- Bà Ê-li-sa-bét đã sinh ra Gio-an Tẩy Giả.

Bằng cách đề cao đặc tính của hôn nhân: một vợ một chồng (chuyên nhất) và bền vững (bất khả phân ly).
Nền tảng của sự chuyên nhất và bất khả phân ly nằm trong chính phẩm giá của hôn nhân. Hôn nhân đã được Thiên Chúa thiết lập, mô phỏng theo tình yêu Ngài dành cho loài người. Do đó, nó phải là một tình yêu trọn vẹn, không chia sẻ, như Thiên Chúa đã chọn một dân riêng cho mình và đòi hỏi nó chỉ tôn thờ một mình Ngài, loại trừ mọi ngẫu tượng. Chương trình tình thương của Ngài không thay đổi, nên sự trung thành của hôn nhân phải theo mẫu mực trung thành của Ngài: mặc dù dân Chúa phản bội, Thiên Chúa vẫn trung thành. Khi sống hai đặc tính này của hôn nhân, đôi bạn đang diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa.

IV.  ĐỨC KI-TÔ PHỤC HỒI PHẨM GIÁ HÔN NHÂN
Không phải vô tình mà khi lên đường rao giảng Tin mừng, Đức Ki-tô đã dành phép lạ đầu tiên cho một đám cưới: biến nước thành rượu. Việc này mang hai ý nghĩa:
1. Đức Ki-tô đến khai mạc thời Thiên sai: Đó là thời Thiên Chúa và nhân loại vĩnh viễn sánh duyên với nhau trong một giao ước mới.
2. Ngài đến để củng cố sự chung thủy trong cuộc sống hôn nhân, bằng cách phục hồi nét đẹp nguyên thủy của nó, và tô thêm cho nó một phẩm giá mới là nâng lên hàng bí tích, tức là biến hôn nhân thành một phương tiện để giúp người tín hữu nên thánh.
Bí tích hôn nhân là phương tiện cho vợ chồng gặp gỡ Đức Ki-tô trong chính tình yêu của họ: Tình yêu của họ được bén rễ trong tình yêu Thiên Chúa, không sợ bị phai tàn, trái lại có khả năng tồn tại vĩnh cửu.
Khi dùng hình ảnh hôn nhân để diễn tả quan hệ giữa Ngài với nhân loại được cứu độ, Đức Ki-tô muốn nói rằng: Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu tuyệt đối, không chia sẻ. Cả nam cả nữ đều bị ràng buộc như nhau, và đều phải được tôn trọng như nhau. Sự tôn trọng như thế chỉ có được trong hôn nhân một vợ một chồng.
Đằng khác, cũng như Ngài yêu thương Hội thánh bằng một tình yêu muôn đời, hôn nhân của con người có đặc tính “bất khả phân ly”. Không ai có quyền hủy bỏ hôn nhân đã thành sự. Hôn nhân là việc của Chúa.

 

V.  CON ĐƯỜNG THỰC HIỆN ĐƯỢC

Con đường nên thánh của hôn nhân chính là đôi vợ chồng thương yêu nhau bằng một tình yêu tuyệt đối và trung thành, như tình yêu giữa Đức Ki-tô và Hội thánh. Muốn thực hiện được tình yêu đó, cần phải có ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, ơn mà hai vợ chồng nhận được ngay khi cử hành bí tích hôn nhân và là ơn sẽ triển nở trong cuộc sống hôn nhân cùng với sự triển nở tình yêu của hai người.
Gương các ki-tô-hữu đi trước cho thấy con đường nên thánh trong hôn nhân là điều có thể thực hiện được. Ta có thể nhìn vào gương tiêu biểu:
- Gia đình thánh của Chúa Giê-su, Đức Mẹ và thánh Giu-se.
- Gia đình bố mẹ thánh Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su: Cả ông Guérin và bà Zélie Martin đang có tên trong hồ sơ xin phong thánh.
- Gia đình thánh Nguyễn Đích.
Thánh An-tôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong việc giáo dục, hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ, người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai vị tử đạo khác (hai vị này không có trong danh sách): ông Lý Thi, bị xử giảo năm 1858 thời vua Tự Đức (con thứ hai ông trùm Đích), và ông phó Nhâm, người con thứ tư, cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó. Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính mẫu gương chứng tá đức tin sống động của mình. (Đào Trung Hiệu, Thiên hùng sử, trang 265)

TÓM LẠI

Trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một ơn gọi, một con đường để giúp con người gặp Chúa, sống hạnh phúc trong Chúa.
Đã có thời người ta tưởng chỉ có đi tu mới nên thánh được. Thế nhưng dựa trên Tin mừng, ta hiểu rằng cả đi tu lẫn ở đời đều là những con đường nên thánh. Ngay trong cuộc sống hôn nhân, người ta có thể trở nên những vị thánh lớn, bởi lẽ việc nên thánh trong gia đình rất đáng giá. Người Việt Nam xưa nói:
Thứ nhất là tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Người tín hữu ngày nay nói:
Những người sống bậc vợ chồng
Được mời nên thánh ở trong gia đình.
Trước ngưỡng cửa hôn nhân, anh chị hãy xác tín rằng hôn nhân là một con đường nên thánh, vì nếu không Đức Ki-tô đã chẳng cần nâng hôn nhân lên hàng bí tích.
 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Anh chị tìm kiếm điều gì trong hôn nhân?
2. Người Việt Nam nói: “Tu là thanh (trong), cưới vợ lấy chồng là trọc (đục)”. Nguyễn Du viết: “Tu là cỗi phúc, tình là dây oan”. Hôn nhân theo Ki-tô-giáo khác với những quan niệm ấy thế nào?
 Gợi ý cầu nguyện:
Mỗi người tìm nơi thanh vắng, dành thời giờ thinh lặng suy nghĩ và tâm sự với Chúa dựa theo Lời Chúa trong 1Pr 1,14-16:
“Như những người con biết vâng phục, anh chị em đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh chị em còn mê muội. Anh chị em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh chị em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.”

Gặp Gỡ 5
TẠI SAO CÓ NHỮNG CUỘC HÔN NHÂN
KHÔNG HẠNH PHÚC?

Thiên Chúa đã tạo dựng nên mọi sự thật hài hoà tốt đẹp và đã ban cho con người được sống ơn gọi hôn nhân để được hạnh phúc ở đời này và cả hạnh phúc đời đời. Thế nhưng trong thực tế, con số ly dị trong xã hội hiện nay ngày càng cao. Điều đó cho thấy nhiều gia đình không hạnh phúc, đến nỗi lắm người không dám lập gia đình.
Tại sao lại có những cuộc hôn nhân tan vỡ? Tại sao nhiều người không đạt được hạnh phúc trong hôn nhân và gia đình?
Đức tin ki-tô-giáo cho thấy những lý do sau đây:
1. Loài người đã sai lầm khi không chọn Thiên Chúa làm cứu cánh.
2. Những quan niệm ngược với lời dạy của Chúa đã khiến người ta rơi vào bế tắc.
3. Nhiều người không chịu đầu tư chuẩn bị trước khi xây dựng gia đình.

I.  TỔ TÔNG TA ĐÃ CHỐI BỎ THIÊN CHÚA

Câu chuyện nguyên tổ loài người sa ngã (St 3,1-24) được trình bày bằng một hình ảnh sống động và dễ hiểu để những độc giả cách đây 3.000 năm có thể hiểu được. Ý nghĩa sâu xa của đoạn văn gồm những điểm sau:
- Thiên Chúa muốn con người vâng lời Ngài
- Thế nhưng, con người đã nghe lời rắn dữ thay vì nghe lời Chúa.
- Nghe lời rắn dữ, con người đã nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa và quyết định không vâng phục Ngài.
Hậu quả của sự không vâng phục thật tệ hại:
- Mất sự thân mật với Thiên Chúa (Chúa đến, con người chạy trốn)
- Mất sự hài hoà trong bản thân, tình dục nổi dậy (phải kết lá che mình)
- Mất tình nghĩa vợ chồng (đổ lỗi cho nhau)
- Lao động trở thành cực nhọc vất vả
- Phải chết
- Cuối cùng là bị đuổi khỏi vườn hạnh phúc, không còn được ở với Thiên Chúa nữa.
Rõ ràng, tất cả những hậu quả ấy đều liên hệ đến mục đích của hôn nhân và gia đình. Đôi vợ chồng đầu tiên không còn giữ được hạnh phúc thuở ban đầu. Anh em ruột thịt trong gia đình lại chém giết nhau (Ca-in và A-ben). Đau đớn hơn nữa là từ đó, họ đã để lại khổ đau cho con cháu. Từ đó, hạnh phúc hôn nhân và gia đình của con người trở thành như ảo ảnh.
Sự sai lầm của nguyên tổ là đã muốn tự xây dựng lấy một hạnh phúc khác với chương trình hạnh phúc Thiên Chúa dọn cho. Nhưng cái bình gốm làm sao khôn hơn người thợ gốm được? (Gr 18,1-17).

II. NHỮNG QUAN NIỆM LỆCH LẠC

Tiếc thay, con cháu của A-đam và E-và vẫn không chịu học bài học của nguyên tổ. Họ tiếp tục phá vỡ hạnh phúc hôn nhân và gia đình của chính mình bằng những quan niệm lệch lạc, đi ngược với dự án ban đầu của Thiên Chúa:
- Cho rằng có thể tìm được một hạnh phúc đích thực và lâu bền mà không cần đến Thiên Chúa
- Đặt sai mục đích và bậc thang giá trị của cuộc sống: Tìm kiếm vật chất, hưởng thụ, lạc thú, tự mãn, thay vì tìm kiếm tình Chúa và tình người.
- Quan niệm sai về sự độc lập giữa vợ chồng, đồng hoá tự do với việc  sống theo ý riêng và tính ích kỷ của mình
- Và những quan niệm lệch lạc khác ngược với bản tính con người như tự do luyến ái, ngoại tình, lạc thú chủ nghĩa...
Quyết định kết hôn là một việc vô cùng quan trọng vì đó là một sự lựa chọn có ảnh hưởng trên toàn thể cuộc đời con người. Vì thế cần phải học hỏi và tìm hiểu sâu rộng về vấn đề tình yêu hôn nhân và gia đình.

III. THIẾU ĐẦU TƯ TRANG BỊ

Xây nhà cần chuẩn bị vốn, nghiên cứu nơi thuận lợi, vẽ kiểu,... Còn khi xây dựng gia đình, người ta chuẩn bị những gì?
Để dạy học, cần qua nhiều năm học phổ thông và sư phạm; để chữa bệnh cần 7 năm ở ngành y. Làm vợ chồng và làm cha mẹ cũng khó không kém làm thầy giáo và thầy thuốc, có khi còn khó hơn, nhưng có trường nào đào tạo?
Tại những trung tâm chuẩn bị hôn nhân, thường người ta quá chú trọng đến một số vấn đề kỹ thuật, chưa nhấn mạnh đến việc đào tạo cái nhìn đúng về tình yêu, hôn nhân và gia đình. Nhất là chưa quan tâm trang bị khả năng yêu thương.
Còn chính các bạn trẻ sắp lập gia đình, họ dùng thời kỳ đính hôn vào việc gì? Có phải để tìm hiểu chín chắn, để tự uốn nắn mình hay đã rơi vào chỗ tìm thoả mãn những gì chưa đến lúc...
Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Theo anh chị, đâu là những nguyên nhân chính gây nên sự đổ vỡ cho hôn nhân ngày nay?
2. Ngỏ lời với các đôi bạn công giáo, Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Chúng con đừng sợ sống đúng bản chất của hôn nhân và gia đình ki-tô-giáo”. Theo anh chị, bản chất của hôn nhân và gia đình ki-tô-giáo là gì và làm sao để có thể sống đúng với bản chất của hôn nhân và gia đình?
 Gợi ý cầu nguyện:
Cũng như Hội thánh, gia đình tín hữu giống như chiếc thuyền của thánh Phê-rô. Giữa khi ta hoảng hốt vì bão tố của cuộc sống, Chúa Giê-su lướt trên giông bão, đến trấn an ta: “Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Trong Kinh thánh, có 365 lần Chúa nói: “đừng sợ!”, đủ để mỗi ngày anh chị chọn lấy cho mình một lời trấn an ấy. Lý do để ta không sợ là “vì có Ta ở với con”. Trong tâm tình ấy, anh chị hãy đọc và suy niệm Mt 14,22-33.
Yêu thương là ơn gọi của hết mọi người, của vợ chồng và của gia đình. Quả thế, trong Hội thánh, mọi người đều được mời gọi đạt tới mức hoàn hảo của sự thánh thiện (x. Mt 5,48)
ĐGH Gio-an Phao-lô II,
Thư gửi các gia đình công giáo trên toàn thế giới, 1994

Gặp Gỡ 6
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (1):

TRÔNG CẬY CHÚA THÁNH THẦN
Chúa Cha đã lập nên hôn nhân như một tiếng gọi nên thánh vừa tầm với phần đông nhân loại. Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô đã phục hồi hôn nhân và nâng lên hàng bí tích, làm phương tiện để ban ơn cho những người bước vào con đường hôn nhân đạt tới hạnh phúc đích thật tức là nên thánh.
Còn Chúa Thánh Thần là hồng ân đặc biệt mà Chúa Cha và Chúa Con hằng ban cho các đôi bạn ki-tô-hữu để họ sống xứng với ơn gọi. Vai trò Chúa Thánh Thần hết sức quan trọng, cách riêng là đối với những người có trách nhiệm dùng đời sống của mình để diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, cũng như bí tích Truyền chức thánh, bí tích Hôn phối mang tính cách một đoàn sủng, tức là một ơn gọi đặc biệt để xây dựng cộng đoàn. Do đó, đôi bạn ki-tô-giáo cần biết luôn sống gắn bó với Chúa Thánh Thần.

I. VAI TRÒ CHÚA THÁNH THẦN


Trong hôn nhân và gia đình, chính Chúa Thánh Thần là Đấng giúp mọi người được hiệp thông với nhau và yêu mến nhau  (2Cr 13,13), là Đấng ban bình an, vui tươi hạnh phúc (Gl 5,22). Chính Chúa Thánh Thần là ánh sáng soi dẫn, là nguồn an ủi (Ga 14,26) và là sức mạnh giúp ta sống theo lời Chúa Giê-su dạy (1Cr 12,3).
Chúa Thánh Thần không xuất hiện thành hình ảnh cụ thể. Ngài linh động như khí, như lửa, như nước. Chính nhờ vậy, Ngài len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời ta và lòng ta. Mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, đôi bạn ki-tô-giáo cần biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Thiếu vắng Chúa Thánh Thần, mọi sự sẽ mất sức sống và ta không thể nào đạt tới hạnh phúc chân thật. Còn nếu ta xin Chúa. Thánh Thần ở với ta, thì cả những điều loài người không làm nổi, Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện cho ta (Lc 1,37).
Nếu anh chị muốn yêu thương nhau mãi và được hạnh phúc mãi trong tình yêu thì mỗi ngày hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến với mình. Ngài là Thánh Thần Tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, Ngài cũng sẽ là Thánh Thần Tình yêu giữa anh và chị, cũng như giữa anh chị và con cái.

 

II.  SÁNG SUỐT NHẬN ĐỊNH

Nguyên tổ loài người đã bị lừa để tưởng rằng chương trình riêng của mình hay hơn chương trình của Thiên Chúa. Nơi những cuộc hôn nhân khác của nhân loại, người ta thất bại và chuốc lấy đau khổ, thường cũng vì do chủ quan chọn lầm.
Làm sao tránh được chủ quan? Làm sao biết được điều gì thực sự đem lại lợi ích lâu dài cho hạnh phúc gia đình? Lắm khi thật rất khó phân biệt. Muốn sáng suốt nhận định đúng ý Chúa, ta cần có thái độ khiêm nhường:
- Dành ưu tiên cho Chúa, mọi sự sẽ có giải đáp, vì chính Chúa Giê-su đã dạy: “Trước hết, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các con” (Mt 6,33)
- Tha thiết cầu xin Chúa Cha và Chúa Giê-su ban Thánh Thần cho ta (Lc 11,13)
- Khiêm nhường và vui lòng đón nhận những điều trái ý, phản ứng bằng thái độ ôn tồn, hiền hoà, nhã nhặn.
- Quảng đại phó thác cho Chúa
- Khiêm nhường lắng nghe tiếng Chúa qua sự góp ý của người khác.
- Tóm lại, khi phải chọn giữa hai điều tốt, muốn biết được đâu là ý Chúa, ta cần giữ cho được tấm lòng tha thiết muốn vâng theo ý Chúa, và khiêm nhường cầu nguyện, nếu cần thì hỏi ý kiến những người đáng tin cậy, rồi thấy lý trí và lương tâm hướng về phía nào thì phía ấy là ý Chúa.
Thiên Chúa chống lại người kiêu ngạo nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Nếu anh chị biết khiêm nhường, Chúa Thánh Thần sẽ không để anh chị lầm lạc, mà dù chẳng may có bị lầm lạc, Ngài cũng sẽ tìm cách dẫn đưa anh chị về lại đúng với con đường hạnh phúc thật.
Để tạo thuận lợi cho ơn Chúa Thánh Thần, trong mọi chọn lựa lớn nhỏ thường ngày, anh chị hãy luôn quảng đại đứng về phía hạnh phúc đích thật của mình và bạn mình cũng như của con cái. Hãy nhớ lời Chúa Giê-su đã hứa, ai bỏ mọi sự vì Ngài và vì Tin mừng sẽ được lại gấp trăm (Mc 10,28-31). Trong cuộc sống thường ngày, ai càng quảng đại đáp lại những gợi ý của Chúa Thánh Thần, thì càng trở nên bén nhạy trước ơn soi sáng của Ngài, để biết chọn đúng điều đem lại thuận lợi nhất và hạnh phúc thật cho gia đình mình. Cha Eynde có nói: “Nếu ta thoáng thấy Chúa đang đòi hỏi một điều gì đó mà lại vội nghĩ sang điều khác là hỏng rồi.”

 

III.  KINH NGUYỆN CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Cuối cùng, để nâng đỡ sự yếu đuối của chính mình, xin anh chị hãy tự đề ra một kỷ luật cầu nguyện cho bản thân mình và cho cả hai vợ chồng. Xin anh chị vững tin, chính sự kiên trì hằng ngày trong việc cầu nguyện sẽ bảo đảm cho anh chị có được đầy đủ ơn Thánh Thần (2Cr 12,9) để vượt qua mọi thử thách và đạt tới thành công trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình và cũng là chính việc nên thánh. Đề tài này xin xem thêm bài số 17.

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Từ trước đến nay, anh chị đã cầu nguyện với Chúa Thánh Thần thế nào? Anh chị có kinh nghiệm nào về ơn soi sáng và nâng đỡ của Chúa Thánh Thần?
2.  Nhờ biết nhìn lại những chọn lựa đúng hoặc sai thường ngày mà dần dần ta trở nên sáng suốt hơn trong việc nhận định. Hằng ngày anh chị đã xét mình kiểm điểm đời sống để rút kinh nghiệm như thế nào?
 Gợi ý cầu nguyện:
Tìm hiểu và cầu nguyện theo kinh “Cúi xin Chúa sáng soi”

Gặp Gỡ 7
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (2):

DÁM SỐNG QUYẾT CHỌN CĂN BẢN
GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Để biến giấc mơ nên thánh trong cuộc sống hôn nhân và gia đình thành hiện thực, anh chị cần tự tìm lấy một linh đạo cho gia đình mình, tức là cần xây dựng cho gia đình một lý tưởng, một phương hướng mà chính mình xác tín. Đó sẽ là điều mà anh chị chuyên cần theo đuổi mỗi ngày.

I. MỘT LINH ĐẠO CHO GIA ĐÌNH MÌNH:
MỘT GIAO ƯỚC TÌNH YÊU

Linh đạo là một con đường nên thánh. Trong Hội thánh có nhiều con đường nên thánh. Giữa những con đường ấy, anh chị sẽ tìm lấy con đường thích hợp riêng cho trường hợp mình. Có thể trong giáo xứ sẵn có nhiều hội đoàn, những dòng ba khác nhau, những tu hội đời... Tuy nhiên vấn đề không nằm ở chỗ gia nhập một đoàn thể sẵn có và chấp hành các sinh hoạt thường kỳ, nhưng cốt yếu ở chỗ anh chị xác tín được một con đường nên thánh. Con đường ấy có thể cảm hứng từ đời sống một vị thánh, một gương sáng nào khác hoặc cảm hứng từ lý tưởng của một đoàn thể hay từ một đoạn Lời Chúa... Đâu là lý tưởng mà anh chị sẽ truyền lại cho con cái mai sau với tất cả niềm xác tín? Phải chăng đó là làm giàu? Học giỏi? Có một chỗ đứng trong xã hội? Thành công và nổi tiếng? Hay đó là niềm vui và hạnh phúc vì đã sống đúng theo lời mời gọi của Thiên Chúa đang yêu thương ta?

Anh chị hãy trao đổi với nhau thật nhiều để tiến tới một sự tâm đắc chung. Nếu không có một xác tín mạnh mẽ, có thể dần dần cuộc sống tất bật của gia đình sẽ vô tình chỉ còn là một chuỗi ngày tìm kiếm tiền bạc, hưởng thụ và hư danh, thay vì tìm kiếm tình người và tình Chúa: kết quả là chuốc lấy mỏi mệt và cằn cỗi, còn hạnh phúc thì biến tan!
Từ điều xác tín và tâm đắc ấy, anh chị sẽ biết được đâu là bậc thang giá trị mình phải theo đuổi hằng ngày, cả trong việc lớn và việc nhỏ. Anh chị sẽ không vì những khó khăn thực tế của cuộc sống bức bách mà tạm thời lãng quên mục đích để chạy theo phương tiện.

Ngược lại, anh chị sẽ luôn kiên trì với điều đã quyết chọn từ ban đầu.
Trong những ngày từ đây đến lễ cưới, anh chị nên suy nghĩ và cầu nguyện nhiều về điểm này, để khi cử hành bí tích hôn nhân, anh chị cũng dâng lên Thiên Chúa sự quyết chọn của mình như một lời cam kết, như dấu hiệu của giao ước tình yêu mà anh chị muốn ký kết với Thiên Chúa cùng lúc với giao ước tình yêu mà anh chị đang ký kết với nhau.
Rồi hằng năm, đến dịp kỷ niệm lễ thành hôn, anh chị sẽ dành ra một buổi, trở về thinh lặng bên Chúa và bên nhau mà ôn lại giao ước của hạnh phúc, để mỗi năm anh chị mỗi tiến xa hơn trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và trong tình yêu dành cho nhau.

 

II.  TRƯỚC HẾT HÃY LO TÌM KIẾM NƯỚC THIÊN CHÚA

Chịu khó thinh lặng bên Chúa và bên nhau, anh chị sẽ tìm ra điều mình xác tín và diễn tả bằng những ngôn từ mình yêu thích. Chắc hẳn, dù diễn tả bằng cách nào, phương hướng chọn lựa của anh chị cũng không ngoài sự theo đuổi một hạnh phúc chân thật và hạnh phúc này chỉ có được khi ta sống chan hoà trong tình Chúa và tình người. Và như thế đã là nên thánh, đã là Nước Thiên Chúa rồi.
Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các con
(Mt 6,33).

Từ công việc làm ăn, giao tiếp, giáo dục, v.v..., tuỳ ơn Chúa thúc đẩy, anh chị sẽ định nghĩa Nước Thiên Chúa là đáp lại tình yêu Thiên Chúa, là tôn vinh danh Thiên Chúa, là thực hiện ý Thiên Chúa, là sống hiền hòa, cầu nguyện và phục vụ, là công bằng bác ái, hoặc những cách diễn tả khác. Dù diễn tả cách nào thì điều anh chị đã quyết chọn ấy sẽ phải là giá trị ưu tiên số một, cần được bảo đảm trong mọi trường hợp.

Từ công việc làm ăn, giao tiếp, giáo dục, xếp đặt nhà cửa, cả sinh hoạt tính dục v.v... trước mọi chọn lựa lớn nhỏ thường ngày, anh chị sẽ luôn nhớ đến quyết chọn căn bản của mình. Nói cách khác, mỗi ngày anh chị sẽ đáp lại điều quyết chọn căn bản bằng cách quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong từng chọn lựa nhỏ. Chắc hẳn là không dễ, cần có đức tin, lòng trông cậy và tình yêu mến mãnh liệt mới có thể dám hy sinh và đứng về phía Thiên Chúa từ trong những điều nhỏ. Như thế tức là cần liên lỉ cầu xin để luôn được lớn lên trong lòng tin, cậy, mến.

Hãy có một chọn lựa căn bản và rồi dù sướng hay khổ, nghèo hay giàu, ốm đau hay mạnh khoẻ, anh chị luôn đứng vững trong quyết chọn căn bản ấy, càng lúc càng tiến xa hơn trong chọn lựa căn bản ấy. Và rồi anh chị sẽ thấy: hạnh phúc đích thật ở trong tầm tay, ngay giữa những an ủi và thử thách của cuộc sống hằng ngày.

 

III.  CHIÊM NGẮM GƯƠNG GIA ĐÌNH NA-DA-RÉT

Giữa những gia đình đáng nêu thành gương sáng cho anh chị, trên hết có gia đình của Con Thiên Chúa làm người: Gia đình Na-da-rét với thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giê-su.
Nhờ thường xuyên chiêm ngắm cuộc sống Chúa Giê-su tại Na-da-rét, anh chị sẽ: 
- Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống thường ngày (trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở...) dưới ánh sáng Tin mừng,
- Biết sống những chuyện đời thường cách sâu xa và trọn vẹn trong sự kết hiệp với Đức Ki-tô, coi mọi việc xảy đến trong đời như là con đường giúp mình sống những gì Đức Giê-su đã từng sống.
- Biến đổi cuộc sống mình và môi trường mình sống theo tinh thần của Đức Ki-tô để ki-tô-hoá chính mình và ki-tô-hoá thế giới.
- Quy hướng mọi sự về cho Đức Ki-tô, kết hợp tất cả nên một với Ngài để làm của lễ tạ ơn dâng lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần hầu tôn vinh Danh Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho mình và cho tất cả.
- Nối kết được "đời và đạo", thống nhất đời sống qua việc lắng nghe và khám phá Ý Thiên Chúa để thực hiện trong cuộc sống thường ngày.
Năm 1997 là kỷ niệm 100 năm thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su qua đời. Chị thánh này đã được đào tạo trong một gia đình mang dáng dấp Nước Trời. Chị tóm tắt kinh nghiệm Na-da-rét cho ta bằng câu: “Làm mọi việc nhỏ với tình yêu lớn nhất”.
 

IV.  YÊU TỪ TRONG ĐIỀU NHỎ MỖI NGÀY

Trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, anh chị cần phát huy kinh nghiệm mà hiện anh chị đang có: Mỗi cử chỉ nhỏ đều có thể là một biểu lộ yêu thương. Tiến xa hơn, anh chị sẽ làm mọi việc bé nhỏ tầm thường hằng ngày với lòng yêu mến lớn: Vì yêu mến nhau và nhất là vì yêu mến Thiên Chúa.
Trước một điều tốt và một điều xấu, đương nhiên ta phải bỏ ngay điều xấu để chọn điều tốt. Còn trước hai điều đều tốt cả, anh chị sẽ chọn thế nào? Hãy chọn theo hai chữ “bình tâm” và “hơn nữa”.
Bình tâm: Giữ thăng bằng giữa hai bên, không nghiêng về bên này hay bên kia.
Hơn nữa: Bên nào yêu mến hơn thì chọn bên đó.
Yêu mến hơn cũng đồng nghĩa với:
Đáp lại tình yêu Chúa hơn = Tôn vinh Chúa hơn = Làm theo ý Chúa hơn = Xoá ý riêng mình hơn = Bỏ mình hơn v.v...
Cuối mỗi ngày, anh chị sẽ xét mình xem trước mọi việc lớn nhỏ trong ngày, anh chị đã chọn thế nào? Có chọn đúng theo quyết chọn căn bản đã nói trên kia? Có giữ được thái độ bình tâm và hơn nữa? Có vươn lên mỗi ngày?
Những câu hỏi khác để kiểm điểm cuối ngày:
1. Hôm nay, tôi quan tâm đến điều Chúa mời gọi bản thân tôi hay là tranh né tiếng Chúa bằng cách lăng xăng lo việc người khác?
2. Hôm nay, tôi chăm chú quảng đại thực hiện điều Chúa mời gọi trong hiện tại hay là tôi chạy trốn vào những suy nghĩ về quá khứ hoặc những vẽ vời tương lai?
3. Hôm nay, tôi có để điều phụ lấn át điều chính?
4. Hôm nay, tôi đáp lại tiếng Chúa tận cõi lòng hay chỉ làm cho xong về mặt bên ngoài?
5. Hôm nay, tôi đã làm điều cần phải làm hay đã làm điều dư thừa không cần thiết?
Và một câu hỏi khác: Hôm nay, tôi đón nhận những điều bất ngờ với tâm tình nào?

V.  THỬ THÁCH LÀ CƠ HỘI CỦA ÂN SỦNG

Có những bất ngờ đem lại lý thú mà cũng có những bất ngờ khiến ta phải lao đao khốn khổ. Tuy nhiên, khi mọi sự qua rồi, thanh thản nhìn lại, ta sẽ thấy những điều bất ngờ ấy thường ôm theo cả một cơ hội của ân sủng. Cái khó là ta không đủ bình tĩnh và quảng đại để vui nhận, cho nên lắm lúc đã tự tay phá hỏng mất những cơ hội quý báu của đời mình.
Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng” (Mt 24,42-44). Tương tự, giả như  người ta biết khi nào hạnh phúc gõ cửa, hẳn người ta sẽ không để mình bắt hụt.

Nếu không một sợi tóc nào rụng xuống ngoài ý muốn của Thiên Chúa thì chắc hẳn không một sự bất ngờ nào xảy đến cho anh chị mà Thiên Chúa không quan tâm. Nếu anh chị vui lòng đón nhận tất cả như quà tặng của Thiên Chúa, thì sẽ nghiệm thấy Thiên Chúa không bao giờ chịu thua sự quảng đại của chúng ta.

Nếu ta không sẵn lòng đón nhận, thì các thử thách nhỏ có thể sớm dệt thành các thử thách lớn. Còn nếu ta vui nhận những điều trái ý, mọi khó khăn có thể sẽ dần dần được hoá giải cách diệu kỳ. Những hy sinh lặng lẽ, những sự vui nhận điều trái ý cách âm thầm sẽ dệt nên nơi anh chị một tình yêu khiêm nhường và thinh lặng, hết sức đẹp lòng Thiên Chúa.

Thưa anh chị,
Suy nghĩ theo hướng của bài này, có thể anh chị sẽ cảm thấy như lạc lõng giữa dòng thác của cuộc sống hôm nay. Một đàng anh chị cảm thấy được thu hút bởi con đường của hạnh phúc thật, một đàng anh chị cảm thấy sức mình thật yếu đuối: làm sao mà đi ngược dòng thác? Thế nhưng ơn Chúa luôn đủ cho anh chị (2Cr 12,9). Hãy đến với Chúa Giê-su mỗi ngày, Ngài sẽ nâng đỡ anh chị, và nếu có lúc nào anh chị lỡ sẩy chân rời xa quyết chọn căn bản của mình, Ngài sẽ dịu dàng đưa anh chị trở về với quyết chọn ấy: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai lao đao vác nặng, và Ta sẽ cho được nghỉ ngơi lại sức.” (Mt 11,28).

Sau cùng, trong niềm tin vào ơn Chúa, để đứng vững và để tiến bước hơn, anh chị sẽ chia sẻ xác tín của mình với những đôi bạn khác, để tạo nên một nhóm gia đình có chung mối đồng cảm, nâng đỡ nhau trên đường thực hiện hạnh phúc đích thật.
 Suy nghĩ và trao đổi:
1. Đâu là lý tưởng mà anh chị muốn cùng nhau theo đuổi và để lại cho con cái sau này?
2. Ngày nay nhiều người thờ ơ với các giá trị tinh thần. Đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả của thái độ ấy?
 Tâm tình cầu nguyện:
Để chiêm ngắm gia đình Na-da-rét, anh chị hãy cùng nhau tìm hiểu 5 sự vui của chuỗi Mân côi rồi sau đó lần chuỗi chung với nhau 10 kinh Kính mừng.

Gặp gỡ 8
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (3):

BƯỚC THEO ĐƯỜNG HẸP
Hãy vào cổng hẹp, vì rộng rãi và thênh thang là con đường dẫn đến hư  vong và lắm người đi qua đó, còn cổng hẹp và đường chật thì dẫn đến sự sống đời đời và rất ít kẻ gặp được nó
(Mt 7,13-14).

Chỗ khác, Chúa nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta” (Lc 9,23)
Chúa Giê-su không giấu con đường của Ngài với các môn đệ, dù là môn đệ sống độc thân vì Nước Trời hay môn đệ sống đời đôi bạn. Muốn nên thánh, cần sống như môn đệ của Chúa. Hãy can đảm bước vào đường hẹp rồi bạn sẽ cảm nghiệm được niềm vui sâu xa Chúa ban.

I.  TÍNH DỤC CŨNG LÀ PHƯƠNG TIỆN

    GIÚP ĐÔI BẠN NÊN THÁNH
 

Anh chị nhớ rằng trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một con đường nên thánh. Đã vậy, tất cả những gì thuộc về hôn nhân, từ tính dục cho tới kinh nguyện gia đình đều là phương tiện giúp đôi bạn nên thánh.

Hiểu như thế, anh chị sẽ thấy ngay rằng hoạt động tính giao được dành riêng cho những người thực sự là vợ chồng của nhau mà thôi. Tất cả những trường hợp khác, việc lạm dụng thân xác không hề giúp người ta nên thánh (đạt hạnh phúc thật) mà ngược lại, chỉ khiến người ta xa Thiên Chúa và xa nguồn hạnh phúc.

Thiên Chúa tạo dựng loài người có hồn có xác. Trách nhiệm thuộc về con người toàn diện “hồn xác” ấy. Chính việc Ngôi Hai xuống thế làm người và việc Chúa Giê-su phục sinh thân xác của Ngài từ cõi chết, là bằng chứng xác nhận giá trị của thân xác.

Niềm tin xác loài người ngày sau sống lại cũng khẳng định giá trị của thân xác, cho nên luân lý công giáo không khinh miệt thân xác, nhưng ngược lại cũng không thần tượng hoá đời sống sinh lý vì thân xác không phải là tất cả con người.

Thân xác không phải là tất cả cho nên các hành vi tính dục cũng như các hành vi sinh lý khác chỉ có giá trị giới hạn. Chúng chỉ đáng quí trọng khi được thực hiện phù hợp với ý định của Thiên Chúa.  Đôi bạn ki-tô-hữu không đề cao cách lệch lạc các hành vi trao hiến thân xác nhưng sẽ vận dụng chúng để nên thánh. Bằng cách nào? Trước hết, cần quan niệm đúng về hành vi vợ chồng theo đúng ý Thiên Chúa.

Trong khuôn khổ hôn nhân theo luật tự nhiên và hôn nhân công giáo, các hành vi trao hiến vợ chồng, tự bản chất là tốt lành và đáng quí trọng.
Khi tự hiến cho nhau trong sinh hoạt vợ chồng, đôi bạn cần làm sao để các hành vi ấy thực sự đem lại hạnh phúc cho nhau nghĩa là vươn tới sự kết hợp nên một trong tình yêu thương và kính trọng nhau, làm phát sinh sự sống và nâng đỡ lòng trung tín với nhau.


1. Dấu hiệu biểu lộ tình yêu.

Mọi tình yêu chân thật đều phát xuất từ Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16). Tình yêu nào không dẫn đến với Thiên Chúa, không đem lại hạnh phúc trong Thiên Chúa thì tình yêu ấy là tình yêu giả tạo, không phải bởi Thiên Chúa. Tình yêu mến nhau đòi phải kính trọng lẫn nhau.
 

2. Dấu hiệu biểu lộ sự sống

Đâu có tình yêu, đó có sự sống. Tự bản chất, tình yêu vợ chồng hướng về việc phát sinh và làm triển nở sự sống. Do đó, hành vi vợ chồng phải làm thế nào để không chống lại việc sinh sản con cái. Con cái phải được coi là ân huệ tuyệt hảo và hạnh phúc của bậc vợ chồng.
 

3. Dấu hiệu biểu lộ lòng trung tín.

“Mình với ta tuy hai mà một”.  Các hành vi tự nguyện trao hiến phải giúp cho đôi bạn không những “trở nên một” trong thân xác nhưng còn nên một cả về tâm hồn để có thể chung thủy và gắn bó keo sơn với nhau mọi ngày cho đến suốt đời, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe.
Trong cái nhìn ấy, các đôi bạn ki-tô-giáo thực hiện đời sống tính dục cách trong sạch và tiết độ. Không phải chỉ bậc tu trì mới cần sống trong sạch và tiết độ mà cả những người sống bậc vợ chồng. Đó là vì:
- Trong sạch và tiết độ trong hành vi ái ân, là thước đo tinh thần xả kỷ, quan tâm thực sự đến hạnh phúc và nhu cầu của người mình yêu.
- Trong sạch và tiết độ còn là sự biểu lộ mức trưởng thành và tự chủ của đôi bạn biết yêu thương kính trọng nhau.
- Phải trong sạch trong thân xác: lạc thú tính dục được Thiên Chúa ban tặng riêng cho đời sống hôn nhân để đôi bạn thuộc về nhau suốt đời. Do đó chỉ những ai là vợ chồng của nhau mới có quyền trên thân xác nhau.
- Chúa Giê-su còn căn dặn loài người phải giữ trong sạch trong cả tư tưởng: “Ta bảo các ngươi, ai nhìn người nữ để thỏa mãn lòng dục, thì đã ngoại tình với nó trong lòng rồi” (Mt 5, 28). Như thế, người ta không được cố tình suy tưởng và ước muốn điều tà dâm.

II. SỰ TIẾT DỤC VÌ NƯỚC TRỜI

Ki-tô-hữu là người tin vào Chúa Ki-tô và sống theo Tin mừng của Ngài. Theo Tin mừng ấy, Nước Trời mà Thiên Chúa hứa thiết lập đã bắt đầu đến giữa thế gian. Nó trở thành viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà người ta dám đánh mất mọi thứ khác để chiếm cho được. Nó có giá trị cao cả tuyệt đối: so với nó, mọi tình yêu và giá trị của cải trần gian chỉ có tính cách tương đối. Chúa Ki-tô khuyên mời con người hãy bỏ của cải, bỏ ý riêng, bỏ việc chạy theo thỏa mãn xác thịt để chiếm được Nước Trời. Đó là ba lời khuyên của Tin mừng: Nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục. Chúa Ki-tô khuyên hết mọi ki-tô-hữu, người độc thân cũng như người có đôi bạn, và để tùy mỗi người thực thi ba lời khuyên ấy trong bậc sống của  mình.

Vì Nước Trời, có những kẻ tự nguyện sống độc thân, sống khiết tịnh suốt đời. Hội thánh luôn coi đặc sủng khiết tịnh đó trổi vượt hơn đặc sủng hôn nhân. Vì sống khiết tịnh là sống như thiên thần trên trời, là cho thấy rằng Nước Trời đã có ở nơi bản thân mình, là dốc toàn tâm toàn lực phục vụ Chúa và làm việc tông đồ. Do đó việc sống trinh khiết đặc biệt có giá trị làm chứng về Nước Trời và khích lệ bậc có đôi bạn can đảm trung thành hơn trong lý tưởng hôn nhân của đạo Chúa.

Vì Nước Trời, có những đôi vợ chồng tự nguyện tiết dục trường kỳ hay định kỳ, như Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se trọn đời sống trinh khiết để nói lên hai Đấng đầy lòng khao khát Nước Trời. Ngay từ khởi đầu của Hội thánh, cũng có những gia đình ki-tô-hữu làm theo lời kêu gọi của Thánh Phao-lô, sống tiết dục từng thời kỳ để có thể chuyên chú cầu nguyện (1Cr 7,5), hoặc tiết dục trường kỳ để tỏ lòng nôn nóng mong đợi Trời mới Đất mới.

Bởi đó, khi vợ chồng ki-tô-hữu tiết dục định kỳ để hạn chế sinh sản là họ tỏ ra mình đang tuân phục định luật tự nhiên của Thiên Chúa, đang làm chủ trên bản năng của mình, và đang muốn đáp lại phần nào lời khuyên của Tin mừng.
Vả lại về mặt con người, việc tiết dục cũng không phải là điều nghịch thường, vượt quá sức tự nhiên của con người: nhiều người tập Yoga bên Ấn Độ, nhiều cư sĩ Phật giáo, nhiều nhà chính trị hay khoa học đã từ khước hôn nhân, hoặc tiết dục trường kỳ để theo đuổi một lý tưởng cao đẹp hơn.

 

III. ĐAU KHỔ TRONG CUỘC SỐNG

Thập giá Chúa mời gọi ta vác theo Ngài là thập giá mỗi ngày (Lc 9,23), nơi những bổn phận đều đặn hằng ngày và cả nơi những đau khổ, trái ý bất ngờ.

Từ khi nguyên tổ phạm tội, đau khổ gắn liền với đời người, cả trong cuộc sống hôn nhân. Ngay trong những gia đình lý tưởng nhất vẫn có những điều gây đau khổ. Đừng ảo tưởng để khỏi vỡ mộng. Tuy nhiên ta cũng không bi quan. Hằng ngày, bên cạnh những khổ đau lại có những niềm vui và an ủi. Chính tình yêu sẽ đem lại cho đôi bạn sức mạnh để đón nhận mọi thử thách trong cuộc sống: Nhờ yêu mến, ta sẽ biến đổi đau khổ thành dịp chứng tỏ tình yêu như lời Chúa nói: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Thiếu yêu mến, thì đau khổ là ngõ cụt, nhưng khi đã yêu mến Chúa, thì dần dần sẽ thấy có giải đáp. “Vì đối với những ai yêu mến Chúa, thì Ngài biến đổi mọi sự nên lành” (Rm 8,28).

Dấu thánh giá ta ghi trên người, ảnh thánh giá ta treo trước mặt là dấu hiệu nhắc ta nhớ đến tình yêu Chúa và biết rằng ta đang tin vào Đấng nào. Nhờ đó, ta sẽ nghiệm ra cả thử thách cũng là ơn Chúa và có lẽ những ơn này còn lớn hơn cả  những thuận lợi.

 
Câu hỏi để anh chị trao đổi:

1. Khi nào tính dục là thánh thiện và khi nào tính dục là tội lỗi?
2. Tại sao trong cuộc sống gia đình, ta cần biết hy sinh từ bỏ các đam mê và những điều tốt không cần thiết?

Tâm tình cầu nguyện:
Dành thì giờ suy nghĩ về lời Chúa mời gọi trong (Mt 7,13-14) rồi thinh lặng tâm sự với Chúa: “Hãy vào cổng hẹp, vì rộng rãi và thênh thang là con đường dẫn đến hư vong và lắm người đi qua đó. còn cổng hẹp và đường chật thì dẫn đến sự sống đời đời và rất ít kẻ gặp được nó”.

Gặp Gỡ 9
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (4):

HOÀ HỢP GIỮA HAI VỢ CHỒNG
Bí quyết của hạnh phúc là khám phá và thực thi ý Thiên Chúa, là từ bỏ ý riêng để thuận theo ý Thiên Chúa. Gia đình là trường học tốt để ta thực tập điều đó, vì trong gia đình mỗi người phải khám phá tâm hồn người kia và gọt dũa những góc cạnh của tâm hồn mình để có thể sống hoà hợp. Đây là một công việc trường kỳ đòi nhiều cố gắng. Để giúp anh chị có một cái khung cho việc hiểu biết nhau, ở đây sẽ trình bày những nét khác nhau cơ bản giữa tâm sinh lý nam nữ mà khoa tâm lý đã khám phá ra và thu gọn trong 5 định luật sau đây:

I. Luật ưu tiên:              
Nơi người đàn ông thể xác ưu tiên.
Nơi người đàn bà trái tim ưu tiên.
Chị hãy nhớ:                
Anh rất chú trọng đến thể xác, đến sắc đẹp của chị, nên chị hãy ăn mặc, trang điểm dễ thương. Hãy dọn những bữa ăn ngon và đúng giờ.
Anh hãy nhớ:
Chị sống bằng tình cảm hơn là lý luận. Chị cần sự nương tựa và che chở nơi anh. Hãy đáp ứng bằng những lời đầy tâm tình, những cử chỉ âu yếm. Hãy phát huy các giá trị tinh thần của mình và đi đầu trong việc hướng dẫn cả gia đình theo đuổi các giá trị tinh thần.
 

II. Luật phân cách

Nơi các chị, trái tim chỉ có một ngăn.
Nơi các anh, trái tim có tới bốn ngăn.
Anh hãy nhớ:               
Trái tim của chị chứa có một mình anh. Hãy coi chị là quan trọng nhất, tỏ ra yêu chị nhất đời. Hãy quan tâm đến hạnh phúc gia đình như chị quan tâm.
Chị hãy nhớ:
Trái tim anh có đến bốn ngăn:
  • Ngăn một: dành cho chị, anh rất yêu chị.
  • Ngăn hai: Công việc. Đôi khi anh say mê công việc mà quên cả việc lo cho vợ con.
  • Ngăn ba: Lý tưởng. Hãy thông cảm cho anh khi anh phải tham gia công việc chính trị, xã hội, vì đàn ông cũng có trách nhiệm xã hội phải chu toàn.
  • Ngăn bốn: Giải trí. Thà anh say mê thú giải trí còn hơn anh say mê cờ bạc, rượu chè... Giải trí lành mạnh là phương tiện để bảo vệ hạnh phúc.
III. Luật chi tiết:
 
Đàn bà để ý đến các chi tiết.
Đàn ông quan tâm đến điều cốt yếu.
Anh hãy nhớ:
- Tôn trọng chị về những cái nho nhỏ trong đời sống chị.
- Những cái nhỏ mọn có thể khiến chị đau khổ hoặc hạnh phúc.
- Trời ban cho chị nhiều trực giác: chị thích sự tế nhị và khéo léo nơi anh.
Chị hãy nhớ:
- Nên bớt những chi tiết làm bận tâm chồng
- Hãy chăm lo trang sức tâm hồn.

 
IV. Luật bất đồng cảm:
 
Đàn ông phản ứng nhanh, nhưng cũng mau dứt.
Đàn bà phản ứng chậm, nhưng kéo dài.
Anh hãy nhớ:
Trong phạm vi tình cảm, chị là trái bom nổ chậm. Tình cảm nữ giới kéo dài hơn nam giới.
Chị hãy nhớ:
Anh mau nóng nhưng cũng mau nguội. Chị hãy dịu hiền, đừng đổ dầu vào lửa khi anh nổi nóng.
 
V. Luật thính giác:
 
Người đàn bà có lỗ tai to.
Người đàn ông lại ngắn lưỡi.
Anh hãy nhớ:
Lỗ tai của chị gắn liền với trái tim: thích nghe và dễ tin. Anh phải biết nói lời âu yếm, khen tặng, nói chuyện lặt vặt. Vì yêu là cởi mở tâm hồn.
Chị hãy nhớ:
Đừng để người ta dụ dỗ. Hãy lắng nghe cả chuyện thời sự của anh. Đừng càm ràm, than thở, hãy nói trong niềm vui.
Anh chị hãy biết sự khác biệt tính tình của nhau. Hãy bỏ bớt những thói tật riêng của mình, biết chú ý đến bạn, tế nhị trong lời nói và hành vi đối với bạn, như thế anh chị dễ có sự hoà hợp và hạnh phúc.

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Đâu là những ưu điểm mà anh, chị cần phát huy và đâu là những điểm yếu mà anh, chị cần khắc phục để đem lại hạnh phúc cho nhau?
2. Về tính tình, giữa anh và chị có những gì xung khắc với nhau? Có những gì có thể bổ túc cho nhau?
 Tâm tình cầu nguyện:
Thư Cl 3,12-14 nên được anh chị thường xuyên nghiền ngẫm như phương hướng để xây dựng hạnh phúc hôn nhân: “Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Nếu trong anh chị em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.”
 GIÚP NHAU BIẾN ĐỔI
Tình yêu giúp cho hai người biến đổi, ngày càng nên hoàn thiện. Tình yêu có thừa thông minh để người này giúp người kia biến đổi, một cách âu yếm.
- Yêu thương mà không đòi hỏi biến đổi là hạ giá bạn mình. Nhưng đòi hỏi biến đổi mà không yêu thương sẽ làm cho bạn mình bất mãn.
- Yêu thương để giúp bạn biến đổi là cho bạn phương tiện. Bắt bạn biến đổi rồi mới yêu thương là cất hết phương tiện.
-  Phương tiện độc nhất để biến đổi tâm hồn bạn mình là chấp nhận bạn như “thuở ban đầu”, vì được yêu thương là điều kiện cần thiết để biến đổi.
-  Có một sự sáng suốt đáng buồn: xét mọi người theo quá khứ của họ. Có một sự sáng suốt đáng yêu: đoán trước người ta có thể biến đổi tốt đẹp chừng nào.
-  Tình yêu không mù quáng: thấy yếu đuối của người yêu và cố sức gánh vác, thấy khả năng của người yêu và tế nhị khơi dậy. (ĐHV).
Tuy nhiên, sự biến đổi quan trọng nhất là biến đổi chính mình để luôn nhận ra được thiện chí và điều tốt nơi người kia. Cách dễ nhất là hãy luôn cảm tạ Chúa cho bạn mình, vì Chúa đang yêu thương bạn mình và bạn mình đang đáp lại tiếng Chúa theo khả năng và theo cách của họ. Người bạn đời của ta vẫn luôn đầy thiện chí và đang đáp lại tiếng Chúa đấy chứ. Ta hoài nghi Chúa sao? Chúa có đủ tình yêu và quyền năng để giúp bạn ta làm điều đó chứ. Coi chừng, chỉ vì ta thiển cận mà không nhìn ra đó thôi.
 

Gặp Gỡ 10
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (5):

SINH CON MỘT CÁCH CÓ TRÁCH NHIỆM
“Bổn phận sinh sản và giáo dục phải được coi là sứ vụ riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết mình cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hoá và như trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận mình với trách nhiệm của con người và của người ki-tô-hữu” (MV 50).
Con cái là hạnh phúc của cha mẹ, và cha mẹ có trách nhiệm giúp con cái được nẩy nở hạnh phúc. Muốn thế, mỗi gia đình phải lo sao cho có một số con theo khả năng nuôi dạy của mình, nghĩa là sinh con theo kế hoạch hay điều hoà sinh sản. Đó là một giải pháp tích cực: Cha mẹ hạn chế sinh sản vì hạnh phúc của con cái.
Dưới ánh sáng của hiến chế Mục vụ số 50 và thông điệp “Sự Sống Con Người”, ta sẽ tìm hiểu:
- Những lý do đòi phải điều hoà hay hạn chế sinh sản.
- Người công giáo chọn điều hoà sinh sản cách nào.
Tiếp nối những điều đã nói trước, ở đây cũng cần nhắc lại rằng: Vấn đề sinh con một cách có trách nhiệm cũng góp phần giúp vợ chồng ki-tô-hữu nên thánh, tức là đạt được hạnh phúc đích thật.

I. Vấn đề điều hoà sinh sản

1. Những biến chuyển khiến đặt ra vấn đề điều hoà sinh sản:

- Dân số thế giới gia tăng mau khiến nhiều quốc gia và nhiều gia đình không đáp ứng đủ lương thực và các điều kiện giáo dục, y tế v..v...
- Quan niệm về sự bình đẳng của người phụ nữ đã phát triển: người phụ nữ không còn đóng kín trong gia đình, nhưng đi ra ngoài, tham gia nhiều vào đời sống xã hội.
- Ý thức về trách nhiệm của bậc làm cha làm mẹ: không phải chỉ sinh con nhưng còn phải chăm lo giáo dục chúng nên người.
- Khoa học và kỹ thuật tân tiến giúp con người làm chủ thiên nhiên, hiểu biết những định luật truyền sinh con cái.

 

2.  Con người có quyền và có bổn phận điều hoà sinh sản

Con người có trí khôn và tự do, không tuỳ thuộc bản năng và các định luật như súc vật.
Sinh con là hợp tác với Tạo hoá cách sáng suốt và có trách nhiệm. Khi quyết định sinh con, còn phải lo sao để có thể yêu thương, giáo dục và săn sóc sức khoẻ của con cách đầy đủ.

Ngoài mối lo về con cái và gia đình, vợ chồng còn phải có trách nhiệm về công ích của toàn thể xã hội và để ý đến những chính sách của quốc gia và cộng đồng quốc tế (MV 50).

Mỗi gia đình có những khả năng vật chất và tâm linh khác nhau, nên chính vợ chồng có quyền quyết định về số con cái với tinh thần trách nhiệm (MV 87).

Vì vấn đề sinh con cái ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên và trật tự xã hội quốc gia và quốc tế, nên nhà nước và cơ quan quốc tế có quyền ra chỉ thị và áp dụng những chính sách chung hợp lý và cần thiết (MV 87).

Cũng cần nhớ rằng các vấn đề bộc phát dân số, thiếu thực phẩm, và các tiện nghi tối thiểu không phải chỉ có thể giải quyết bằng cách hạn chế sinh sản mà còn đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải phân phối tài nguyên và lợi tức giữa các quốc gia và các giai cấp xã hội cách hợp lý và công bằng. Nếu không có sự phân phối hợp lý trên, việc hạn chế sinh sản là một việc bất công.

 

3. Luật luân lý

Nhận thức được sứ mệnh cao quí ấy, đôi bạn phải giải quyết việc sinh sản con cái như thế nào cho phù hợp luật luân lý?
- Trước hết, đôi bạn phải tuân theo tiếng nói chân chính và ngay thẳng của lương tâm:
- Lương tâm là tiếng nói trong lòng mỗi người, chỉ dẫn điều hay lẽ phải, đòi buộc làm lành lánh dữ, và phải trả lời trước mặt Thiên Chúa về các hành động của mình.
- Sống theo tiếng nói lương tâm, là hành động theo qui tắc khách quan, nghĩa là hành động theo luật Thiên Chúa đã được Hội thánh giải thích và hướng dẫn, chứ không được theo phán đoán chủ quan của mình.
- Đối với vấn đề điều hoà sinh sản cũng vậy: đôi bạn phải ý thức mình không thể hành động theo sở thích, hoặc vì những lý do chủ quan; trái lại, phải học biết luật Chúa, và áp dụng giáo huấn Hội thánh vào hoàn cảnh từng gia đình.
- Những tiêu chuẩn luân lý hướng dẫn đôi bạn khi phải quyết định điều hoà sinh sản:

1. Tinh thần trách nhiệm.
Đôi bạn phải luôn nhớ rằng: sinh sản và giáo dục là hai trách nhiệm đồng thời của cha mẹ. Vì thế, khi nghĩ đến việc sinh con, phải nghĩ đến những điều kiện tạm đủ để nuôi dưỡng và giáo dục chúng cách xứng hợp. Không thể chấp nhận việc sinh sản bừa bãi, đưa đến thiếu khả năng hay thiếu phương tiện nuôi sống và giáo dục con cái. Cũng không thể chấp nhận những người vì ích kỷ, lười biếng, vì sắc đẹp mà hạn chế số con cách mù quáng và phi lý.

2. Quyết định đúng đắn.
Để quyết định nên hay không nên hạn chế sinh sản, đôi bạn cần suy nghĩ chín chắn và quảng đại. Một suy nghĩ chín chắn và quảng đại phải đặt căn bản trên:
- Những lý do chính đáng và khách quan đối với việc hạn chế số con: con cái đã đông, thiếu phương tiện tối thiểu để nuôi sống và giáo dục, tình trạng bệnh tật của cha mẹ.
- Phải là suy nghĩ và quyết định của người cha và người mẹ.

3. Ý nghĩa của chính hành vi vợ chồng.
- Phải tôn trọng tính cách nhân bản của việc phối hợp nam nữ và những khả năng sinh sản nơi con người.
- Phải tôn trọng bản chất tự nhiên của việc phối hợp thể xác là hướng về sinh sản trong bầu khí yêu thương của hai người.
- Phải tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai.

 

4.  Ba tiêu chuẩn thực tế cần giữ

1. Hạnh phúc của chính đôi bạn.
Mỗi đứa con chào đời phải củng cố và xây dựng tình yêu và hạnh phúc của đôi bạn, vì đứa con là kết quả tình yêu tự hiến giữa vợ chồng. Nhưng đôi bạn cần để ý những gì tạo hạnh phúc cho nhau: Người nữ kết hôn, trước khi làm mẹ đã là vợ, và phải được hạnh phúc làm vợ. Người nam cũng thế, trước khi được hạnh phúc làm cha, phải được hạnh phúc làm chồng. Do đó không chỉ lo cho con cái mà quên người bạn đời của mình. Đôi bạn phải để ý đến những vấn đề riêng tư của nhau như sức khỏe, tâm lý, ước vọng tương lai...

2. Hạnh phúc của con cái.
Sinh con cái là hành vi tốt đẹp nhất của hôn nhân. Tác sinh một đứa con, là tự ý chấp nhận tạo mọi điều kiện cho nó sống hạnh phúc, sống xứng đáng thân phận con người và con Chúa.
Do đó, đôi bạn cần chú ý đến khả năng tài chánh, đến nơi ăn chốn ở, đến việc giáo dục, để tạo hạnh phúc cho con cái.

3. Thiện ích của xã hội và Hội thánh.
Xã hội lớn mạnh là nhờ ở những phần tử cường tráng, chuyên cần làm việc, có những đức tính cao quí. Do đó, sự lượng định khả năng nuôi sống và giáo dục con cái trở nên phần tử hữu dụng cho xã hội và Hội thánh cũng là tiêu chuẩn mà đôi bạn cần lưu ý để quyết định điều hoà sinh sản.

 

LỜI CHA CHUNG

Muốn điều hoà sinh sản một cách lương thiện, trước hết các người phối ngẫu phải tin tưởng mạnh mẽ vào chân giá trị của đời sống, của gia đình và phải tập luyện thế nào để có thể luôn hoàn toàn làm chủ lòng mình. Việc dùng lý trí và ý chí tự do để làm chủ bản năng đòi hỏi phải có một đời sống thiêng liêng đặc biệt, vì chỉ có thế đôi vợ chồng mới có thể biểu lộ tình yêu hôn nhân một cách tốt đẹp, cách riêng là trong việc tiết dục từng thời kỳ. Kỷ luật sống thanh tịnh giữa hai người phối ngẫu không hề làm suy giảm tình yêu trong hôn nhân, trái lại còn làm cho hôn nhân ấy tăng thêm giá trị nhân bản. Kỷ luật này đòi hỏi bậc vợ chồng phải luôn luôn cố gắng, nhưng nó có một ảnh hưởng tốt đẹp là giúp cho hai người phối ngẫu phát triển toàn diện nhân vị mình và được phong phú hoá bằng các giá trị siêu nhiên. Chính nhờ đó, đời sống gia đình sẽ trở nên thanh tao, hoà hợp, giúp vợ chồng giải quyết dễ dàng các vấn đề khác. Cũng chính nhờ đó, người này sẽ lưu tâm đến người kia và cả hai sẽ tránh được tính ích kỷ là một yếu tố làm hại tình yêu chân chính, đồng thời tinh thần trách nhiệm của hai người sẽ có dịp tăng thêm. Nhờ tuân giữ kỷ luật này, bậc cha mẹ sẽ tạo được một ảnh hưởng tốt đẹp mỹ mãn hơn trong việc giáo dục con cái: vì các trẻ em và thiếu niên được lớn lên trong tinh thần tôn trọng các giá trị nhân bản, và có hoàn cảnh thuận tiện để phát triển các khả năng thiêng liêng và cảm xúc của mình. (SN 21)
Tới đây, Ta lên tiếng kêu gọi thẳng các con cái của Hội thánh, đặc biệt là những người Thiên Chúa đã chọn sống trong bậc vợ chồng... Chớ gì đôi vợ chồng ki-tô-giáo tuân theo tiếng Chúa gọi, nhớ kỹ rằng thiên chức ki-tô-hữu của mình bắt đầu từ ngày chịu phép Rửa Tội, để rồi được xác nhận thêm khi chịu bí tích Hôn Phối. Nhờ bí tích này, người phối ngẫu trở thành vững mạnh để chu toàn sứ mạng của mình một cách hoàn hảo, để trở thành chứng nhân xứng đáng về Ki-tô-giáo trước mặt trần gian (MV 48; GH 35). Họ chính là những người đã được Thiên Chúa giao cho trách vụ biểu lộ tính chất thánh thiện và êm dịu của lề luật liên kết với hai sự việc: tình yêu giữa hai người phối ngẫu và việc học cộng tác với Thiên Chúa Tình yêu tạo dựng đời sống con người.
Ta không có ý che dấu các khó khăn nhiều khi hết sức gai góc mà các đôi vợ chồng ki-tô-hữu thường xuyên gặp phải: đối với họ, cũng như đối với hết mọi người, Ta muốn nói: “Cửa dẫn vào sự sống thì chật, đường đưa tới sự sống thì hẹp” (Mt 7,14; Dt 12,11). Nhưng Ta tin rằng: viễn ảnh sự sống sẽ chiếu sáng đường lối, và nếu họ nhớ rằng: “Thế gian này đang qua đi” (1Cr 7,31), họ sẽ đủ can đảm vượt mọi khó khăn để sống một cách khôn ngoan, công chính và sốt sắng trong thời gian hiện tại” (SN  25)

 

II. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NGỪA THAI.
A. CẦN NHỚ

Khi đặt vấn đề điều hoà sinh sản, người công giáo cần nhớ:
1. Bản chất và mục đích của hôn nhân phải được tôn trọng, theo nguyên tắc: vợ chồng không nên làm điều gì để cố ý ngăn cản việc truyền sự sống.
2. Sinh con là hợp tác với Thiên Chúa, không phải việc riêng của vợ chồng.
3. Vì Hội thánh đã được giao trách vụ hướng dẫn các tín hữu nhận biết và sống theo ý định cứu rỗi của Chúa, nên người công giáo sẵn sàng theo sự chỉ dẫn của các mục tử Hội thánh trong vấn đề này (SN 4, 11, 13).

B. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU:

1. Những phương pháp ngừa thai nhân tạo:

Là những phương pháp dùng những cách thế:
  • Hoặc là trực tiếp làm cho không thể thụ thai tạm thời hay vĩnh viễn nơi người nam cũng như nơi người nữ:
- Thuốc ngừa thai: Thuốc uống, thuốc chích, tây y và cả đông y
- Bao cao su, màng chắn, hoá chất tiêu diệt tinh trùng.
- Cắt hay cột thắt vòi trứng nơi người nữ và cắt hay cột thắt ống dẫn tinh nơi người nam, gọi là triệt sản, triệt sinh.
  • Hoặc là trực tiếp hủy diệt trứng đã thụ tinh hay giết chết bào thai:
- Vòng xoắn,
- Phá thai, nạo thai.

 

2. Những phương pháp tự nhiên:

Là những phương pháp theo dõi thời gian rụng trứng trong chu kỳ kinh nguyệt của người nữ, để chỉ giao hợp trong thời kỳ không thể thụ thai.
Để biết thời gian rụng trứng, có nhiều phương pháp: Origno - Knaus, Đo nhiệt độ, Billings (theo dõi chất nhờn), Bút thử và giấy thử.
Hiện nay có rất nhiều tài liệu trình bày cặn kẽ những phương pháp trên, xin anh chị tìm đọc và trao đổi với các đôi vợ chồng đã có kinh nghiệm.
Thưa anh chị,
Phương pháp theo dõi chất nhờn (Billings) giản dị nhưng cũng đòi nhiều hy sinh, kiên nhẫn và cố gắng. Tuy nhiên, hy sinh, kiên nhẫn và cố gắng là những điều cần thiết để chứng tỏ tình yêu thương lớn lao của bậc vợ chồng biết giúp nhau thực hiện Luật Thiên Chúa.
Chúng tôi cũng xin nói thêm rằng: Phương pháp này rất hữu hiệu. Theo kinh nghiệm của bác sĩ Billings thì cứ 100 người áp dụng thì có 95,96 người thành công. Nhưng cũng còn 4,5 trường hợp bất ngờ, hoặc do quan sát không đúng hoặc do một con tinh trùng nào đó sống sót quá lâu... Sự rủi ro họa hiếm này ngay cả trong những phương pháp dùng thuốc, vòng xoắn,... cũng có thể gặp phải.
Sau cùng, xin anh chị xác tín rằng Hội thánh rất thông cảm với những cố gắng của anh chị và không ngừng cầu nguyện để anh chị được đầy ơn Chúa và can đảm thực hiện tình yêu ki-tô-giáo. Anh chị cũng hãy cầu nguyện nhiều để thấy được ách Chúa êm ái và gánh Chúa nhẹ nhàng (Mt 11,30), chính Chúa hiểu rõ mọi âu lo và ước vọng của anh chị và chính Ngài đã hứa “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2 Cr 12,9).

 
C. CHỌN LỰA CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO 

1. Chọn theo hướng Tin mừng

Người công giáo chọn những phương thức tự nhiên, dựa trên nguyên tắc chỉ giao hợp vào những thời kỳ phụ nữ không thụ thai được (SN 16). Nếu cần thì phải tránh giao hợp vào những thời kỳ dài đủ để bảo đảm; cũng có thể dùng thuốc điều hoà kinh kỳ. Người công giáo muốn có một  cái nhìn đầy đủ về con người: vợ chồng sẽ nâng cao giá trị cao quý của họ bằng cách chấp nhận trọn vẹn trách nhiệm làm cha mẹ theo bản tính con người của họ, chứ không trốn tránh trách nhiệm bằng cách phó thác vấn đề cho kỹ thuật.
Trong thực tế, không dễ. Tuy nhiên cần nhớ rằng bất cứ giá trị cao quý nào cũng đòi hỏi hy sinh rất nhiều mới đạt được. Để bảo đảm tình yêu cũng như hoà khí gia đình bằng các giá trị tâm linh, văn hoá và siêu nhiên, vợ chồng cần biết hy sinh, tiết dục. Việc giao hợp không phải là một giá trị nhất thiết phải được bảo đảm bằng mọi giá (SN 18).

2. Trông cậy ơn Chúa

Đối với những tín hữu quyết bước theo con đường hy sinh của Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, lập trường của Hội thánh trong vấn đề này là chuyện bình thường, không quá khe khắt.
Hội thánh có bổn phận trình bày đầy đủ kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa nhân ái, không có quyền che giấu điểm nào để tỏ ra dễ dãi mà làm hại ơn gọi cao quý của con người.
Hội thánh sẵn sàng ban ơn tha thứ dồi dào của Chúa nhân từ cho những người chưa đủ sức thiêng liêng để sống theo kế hoạch cứu rỗi của Chúa cách trọn vẹn.
Nhưng Hội thánh tin rằng, nhờ ơn Chúa Thánh Thần và mầu nhiệm Thập giá Chúa giúp đỡ, các cha mẹ công giáo có thể trung thành với ơn gọi của họ là hợp tác với Thiên Chúa trong công trình cao quý là truyền sự sống cho con cái và xây dựng Nước Trời (SN 20, 25).

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Tại sao phải sinh con một cách có trách nhiệm?
2. Khi quyết định việc điều hoà sinh sản, cần dựa trên những tiêu chuẩn nào?
 
Tâm tình cầu nguyện:

Không phải tình cờ hoặc ngẫu nhiên mà mỗi chúng ta có mặt trên đời này. Khi mời gọi anh chị bước vào cuộc sống hôn nhân, Thiên Chúa cũng muốn mời gọi anh chị cộng tác vào chương trình yêu thương của Ngài đối với những đứa con sẽ có mặt trong tương lai. Trong tâm tình đó, anh chị hãy suy nghĩ và cầu nguyện dựa trên Gr 1,5:
Trước khi Ta nắn ra ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc.
 
Gặp Gỡ 11

Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (6):

GIÁO DỤC CON CÁI
Cha mẹ có nhiệm vụ dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ để chúng nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến anh em, theo đức tin chúng đã nhận lãnh khi chịu phép Rửa tội (GD 3). Giáo dục con cái là ân huệ cao quý nhất của hôn nhân để kiến tạo hạnh phúc và thánh hoá cha mẹ, con cái có bổn phận đáp lại công ơn cha mẹ với tâm tình hiếu thảo và tin cậy, phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh (MV 48, 50).
Con cái là kết quả và là bằng chứng của tình yêu vợ chồng: “Yêu nhau không phải là để nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về một hướng”.
Con cái còn là niềm vui, là hạnh phúc của cha mẹ, vì không những nó mang hình ảnh của cha mẹ, mà còn mang hình ảnh Thiên Chúa nữa: nó được kêu gọi làm con Thiên Chúa. Buồn thay, cũng lắm khi con cái không đem lại hạnh phúc cho cha mẹ, mà còn làm cho cha mẹ buồn tủi đau thương.
Đó là những lý do khiến phải đặt nặng vấn đề giáo dục.

I.  QUYỀN VÀ BỔN PHẬN GIÁO DỤC

“Bổn phận giáo dục bắt nguồn từ trong ơn gọi đầu tiên của đôi bạn là dự phần vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Khi sinh ra một ngôi vị mới trong tình yêu và do tình yêu, một ngôi vị mang sẵn trong mình ơn gọi phải lớn lên và phát triển, bậc cha mẹ cũng từ đó mà lãnh nhận bổn phận phải giúp đỡ hữu hiệu cho ngôi vị ấy được sống nhân bản trọn vẹn” (GĐ 36).

1. Giáo dục con cái là hướng dẫn và giúp đỡ chúng phát triển toàn diện con người.

2. Việc giáo dục này là quyền lợi và bổn phận của cha mẹ, không ai thay thế được.

3. Điều đó còn là vinh dự cho cha mẹ công giáo, vì khi thi hành bổn phận giáo dục, họ biết mình cộng tác với tình yêu Thiên Chúa và trở thành những người diễn đạt tình yêu của Ngài.

4. Bậc cha mẹ hãy ghi nhớ điều này: “Gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được” (GD 3).

5. Muốn giáo dục thành công, cha mẹ cần lưu ý mấy điểm rất quan trọng:
w Cha mẹ phải thăng tiến chính bản thân trước đã: Phải nêu gương đời sống tốt đẹp về nhân cách, đạo đức và các khả năng khác.
w Cha mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái: Tìm hiểu tính tình, năng khiếu của con cái và phải biết dùng những phương thức thích hợp để giúp chúng đạt được mục đích.
w Tạo bầu khí gia đình lành mạnh, cởi mở, thánh thiện: Mọi người sống hoà thuận, lạc quan và biết tín nhiệm lẫn nhau.

II.  NGUYÊN TẮC

A. Mục đích của giáo dục ki-tô-giáo:  giúp nên người và nên thánh

Ta không thể nào dạy bảo hết mọi chi tiết. Do đó, ta cần vạch được cho con cái một định hướng. Được định hướng rồi, chúng sẽ theo đó mà phát triển:
Uốn cây từ thuở còn non,
Dạy con từ thuở con còn trong nôi.
Giáo dục ki-tô-giáo nhằm hướng con em đến chỗ nên người và nên người mới trong Chúa, tức là con người đã được cứu chuộc. Mẫu mực cho mọi người trong cuộc sáng tạo thứ nhất là A-đam. Mẫu mực cho mọi người trong cuộc sáng tạo mới là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng mà các vị thánh đã noi gương bắt chước.

B. Định hướng căn bản của đời sống: Đáp lại tình yêu của Thiên Chúa

Hằng ngày, ta dạy con em trong những chi tiết nhỏ nhưng mọi chi tiết đều phải được quy về một mối thống nhất thì mới kết quả. Quá trình đào tạo cũng tựa như quá trình nhận thức, nó gồm một phân tích giữa hai tổng hợp:
  •  Phân tích là dạy vẽ các chi tiết (theo phần áp dụng dưới đây).
  •  Tổng hợp 1: Cảm nghiệm tình yêu. Thánh Don Bosco nói: “Yêu trẻ thôi chưa đủ, còn phải làm sao để trẻ cảm thấy chúng được yêu”. Cần giúp cho các em thấy chúng được cha mẹ và Thiên Chúa yêu mến, nhờ đó, các em có thể phát triển tâm tình khiêm nhường và biết ơn, là nền móng cho sự nên người.
  •  Tổng hợp 2: Yêu mến, tức là hướng về vinh danh Thiên Chúa và hạnh phúc đồng loại. Yêu mến là biết quan tâm tới người khác và đáp ứng bằng phục vụ trong âm thầm.
Hai tổng hợp ấy sẽ giúp biết sống như Chúa Ki-tô: Từ Chúa Cha mà đến và hướng về Chúa Cha.

C. Gương cha mẹ

Bình thường, con cái sẽ bắt chước theo hướng cha mẹ sống. Hướng ấy các em nhìn thấy nơi những phản ứng nhỏ thường ngày của cha mẹ:
- Những câu ta nói với người khác cho thấy ta tôn trọng hay là coi thường người chung quanh,
- Những phê phán của ta về người và việc, cho thấy ta sống dựa trên căn bản giá trị nào,
- Cách ta chọn lựa trong những điều nhỏ cho thấy ta đang tìm gì trong cuộc sống: lợi lộc? tiếng khen? hay là tình Chúa và tình người?
Cần quan tâm sống tốt từ trong điều nhỏ, nơi bản thân cũng như nơi con cái. Muốn điều chỉnh hướng sống, hãy điều chỉnh từ trong việc nhỏ. Đừng khinh thường lỗi nhỏ.  “Lỗ nhỏ đủ đắm thuyền. Góp gió thành bão, kiến tha lâu đầy tổ.”

ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA TUỔI TRẺ:
VUI TƯƠI, CHUYÊN CẦN VÀ PHỤC VỤ

Ơn gọi căn bản của mỗi người ki-tô-hữu, dù trẻ hay già, là nên thánh. Hiểu được điều đó, Đa minh Sa-vi-ô nhất quyết phải nên thánh và "nên thánh thật nhanh".
Mới đầu, Sa-vi-ô muốn bắt chước các vị ẩn tu lớn, ăn chay nhiệm nhặt và cầu nguyện lâu giờ. Cha Gio-an Bốt-cô khen ngợi quyết tâm của cậu, nhưng ngài vạch ra một con đường nên thánh thực tiễn, phù hợp với tuổi trẻ của cậu hơn. Con đường đó được gói gọn trong ba chữ VUI TƯƠI, CHUYÊN CẦN và PHỤC VỤ: "luôn luôn vui tươi và chừng mực", kế đến là "chu toàn các bổn phận học hành và đạo đức", "chơi đùa với các bạn", "làm việc để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa, vì không có việc gì trên đời này thánh thiện bằng việc cứu rỗi các linh hồn".
Nhờ những chỉ dẫn đó, Đa minh Sa-vi-ô đã "nên thánh dễ dàng và nên thánh thật nhanh", đúng như ước vọng của cậu: "Con không hề nghĩ rằng con có thể nên thánh dễ như vậy. Nhưng bây giờ, con đã hiểu rằng thể nên thánh bằng cách sống vui vẻ. Con tuyệt đối ước ao nên thánh và tuyệt đối muốn làm thánh".
Anh chị nghĩ sao? Một con đường nên thánh cho tuổi trẻ như thế có gì là phức tạp, bí nhiệm và lạ thường không? Hay chỉ là những việc bổn phận thường nhật được chu toàn một cách khác thường trong vui vẻ, nhờ một tình yêu lớn lao?

III.  ÁP DỤNG

Sau đây là những điều dạy con ngay từ khi mới sinh:

1. Biết sống chừng mực và đúng giờ:

Từ việc cho bú đến việc ngồi bô sau này, cần tập cho con biết khép mình vào một thứ kỷ luật. Muốn vậy, đừng quá nuông chiều con cái.

2. Biết yêu thương:

Tập cho con biết sống yêu thương, quảng đại và quan tâm phục vụ người khác. Bữa ăn hằng ngày trong gia đình là cơ hội tốt để thể hiện bầu khí vui vẻ, yêu thương và quan tâm đến nhau.

3. Biết sống thật thà:

Muốn vậy chính cha mẹ phải biết sống trung thực trong lời nói và hành động. Một sự giả dối nhỏ của cha mẹ đủ làm cho con cái mất niềm tin vào cha mẹ. Đừng làm con cái sợ hãi, vì đó là nguyên nhân sự nói dối.

4. Biết sống khiêm tốn:

Năng nhắc cho chúng là còn nhiều người học giỏi hơn chúng, tài ba hơn chúng. Nên tạo điều kiện để chúng được chơi chung với các bạn.

5. Dạy con sống tự lập:

Tập cho con biết nhận trách nhiệm trong việc làm, từ dễ đến khó, không ỷ lại vào người khác trong những việc mà nó có thể làm được. Giúp con nhận ra tiếng gọi của Chúa và mau mắn đáp lại từ trong những điều rất nhỏ, để dần dần nó có thể sống tự lập, không phải lúc nào cũng cần có cha mẹ giám sát bên cạnh.

6. Đào tạo kiến thức:

Hãy liệu cho con cái được đi học và tiến xa trên đường học vấn. Cần sắm tủ sách gia đình. Tìm cách tạo cho các cháu lòng ham học, tự chăm lo việc học của mình, không đợi phải nhắc bảo.

7. Giáo dục tính dục:

 Là một trong những vấn đề quan trọng của đời sống con người. Phải dạy bảo để con cái phát triển tốt theo phái tính của nó. Tùy theo lứa tuổi mà giáo dục.

8. Lo cho con lớn lên trong đức  tin:

Trước hết là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Hãy đào tạo đời sống đức tin cho con mình ngay từ lúc nó mới bập bẹ học nói qua những lời ru, những bài hát và nhất là qua bầu khí cầu nguyện trong gia đình.

Kết:

Về việc nuôi dạy con cái, đừng chủ trương “tới đâu hay tới đó”, nhưng hãy vui vẻ nhận trách nhiệm nuôi dạy và chú tâm đầu tư ngay từ đầu. Muốn vậy, chính anh chị cần “biến đổi” mình trước đã.

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:

1. Khi lập gia đình, anh chị muốn đóng góp cho xã hội và cho Hội thánh những đứa con như thế nào? Anh chị chuẩn bị điều đó từ bây giờ ra sao?
2. Trách nhiệm giáo dục con cái thật cao đẹp nhưng cũng đầy khó khăn. Anh chị có nghĩ rằng cần phải phải học liên lỉ để biết cách giáo dục con cái không?
 Tâm tình cầu nguyện:
Đọc và suy niệm 1 Cr 10,31 - 11,1:
Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do Thái hay người ngoại, hoặc cho Hội thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.
Anh  em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Ki-tô.

Gặp Gỡ 12
Để bảo đảm hạnh phúc
cho hôn nhân và gia đình (7):

CẦN ĐẦU TƯ TRANG BỊ TRƯỚC
Kết quả của mọi công việc lớn nhỏ đều tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị: Chuẩn bị đúng và chuẩn bị kỹ.
Chính những cố gắng trong thời gian chuẩn bị hôn nhân đã là một bước đầu để nên thánh trong hôn nhân, hoặc nói cách khác, để đạt hạnh phúc trong hôn nhân.

I.  NHỮNG YẾU TỐ CẦN QUAN TÂM

Hôn nhân có mục đích bảo đảm sự kết hợp, yêu thương và nâng đỡ giữa vợ chồng để việc sinh sản, nuôi nấng, yêu thương và giáo dục con cái được chu toàn tốt đẹp (MV 48).
Để đạt mục đích ấy, trong hôn nhân cần quan tâm tới tình yêu và các yếu tố xã hội, kinh tế, tôn giáo.

1. Tình yêu trong hôn nhân

- Tình yêu gồm hai yếu tố là dục tính và tâm linh:
. Dục tính tức là sức thu hút giữa nam nữ về thể xác và tình cảm, thúc giục hai bên kết hợp với nhau để tạo thành sự sống.
. Yếu tố tâm linh là sự hiểu biết và lựa chọn tự do, biến sức thu hút của bản năng thành tình yêu, nghĩa là sự thông hiệp sâu xa nhất giữa hai người nhằm khai triển khả năng làm người của nhau và sáng tạo sự sống con người.
- Vì tình yêu loài người có tính cách toàn diện, bao gồm mọi khía cạnh, dục tính, tâm linh, xã hội, tôn giáo, cho nên một người quân bình không thể lấy một người và đồng thời yêu một người khác được. Đó không phải là tình yêu, nhưng chỉ là tình                  cảm. Duy trì mối tình cảm đó có thể gây tai hại cho cả hai bên, vì đó là một tình trạng trái với bản tính con người vốn muốn yêu và muốn được yêu với toàn thể, chứ không phải chỉ nguyên với tình cảm.

2. Yếu tố xã hội trong hôn nhân

Yếu tố xã hội có hai khía cạnh chính:
Hôn nhân phải được công nhận chính thức và công khai mới bền bỉ được.
Đôi khi bắt buộc phải tránh hôn nhân giữa hai người khác chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, v.v... Đó là trường hợp có thể đoán được xã hội sẽ lên án cuộc hôn nhân đó đến nỗi hai người không thể sống với nhau được lâu, hoặc con cái sẽ tủi nhục suốt đời.
Hôn nhân và gia đình là tế bào nền tảng và sống động của xã hội (TĐ 11), là nơi các thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu, gặp gỡ và giúp đỡ nhau hoà hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi của cuộc sống xã hội (MV 52). Do đó, dân luật phải bảo vệ phẩm giá và quyền tự trị hợp lý của gia đình về nơi cư ngụ, giáo dục con cái, điều kiện làm việc, an ninh xã hội, thuế khoá và đời sống chung của con cái với cha mẹ (TĐ 11).

3. Yếu tố kinh tế trong hôn nhân

Cần chuẩn bị những điều kiện vật chất tối thiểu cho đời sống gia đình. Đôi khi ta gặp những chuyện đau lòng: Vì quá túng thiếu, hai người không thể lập gia đình được như ý họ mong muốn, vì e rằng hôn nhân sẽ không bền bỉ và hạnh phúc. Ngược lại, có khi hai người chỉ lấy nhau vì lý do kinh tế mà thôi chứ không yêu nhau! Một cuộc hôn nhân thuần kinh tế như thế không phù hợp với phẩm giá con người!

4. Thủ tục giáo luật

Khi đã quyết định ngày cưới,  anh chị cần gặp cha sở phía bên gia đình chị để xin cử hành bí tích hôn phối. Cần sẵn sàng hợp tác với cha sở trong việc điều tra về những trở ngại có thể có. Nếu anh ở một họ đạo khác thì phải xin một chứng chỉ Rửa Tội và Thêm Sức để kèm vào hồ sơ. Việc rao hôn phối tại nhà thờ thường kéo dài ba tuần lễ. Trước khi làm lễ hôn phối, anh chị nên tĩnh tâm và xưng tội, để dọn lòng cử hành bí tích Hôn Phối thật thánh thiện.

II.  NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA THỜI KỲ ĐÍNH HÔN

Đính hôn là kết thúc giai đoạn sơ khởi của gặp gỡ, ve vãn, say mê, để đưa tình yêu lứa đôi lên một mức nghiêm túc hơn và đi tới một quyết định: hướng tới đám cưới.
Lễ đính hôn công khai hoá tình yêu hai người với họ hàng hai bên, với lối xóm, để được công khai gặp gỡ, tìm hiểu nhau.

1. Những điều cần tìm hiểu:

Để không vỡ mộng sau khi lấy nhau và để dễ sống hoà hợp lâu dài, cần tìm hiểu xem:
- Bạn mình quan niệm thế nào là hôn nhân, về đời sống chung? Về việc đón nhận và giáo dục con cái?
- Tính tình của bạn mình.
- Cách sống  đạo thế nào? Thích đi lễ hay giữ đạo trong lòng?
- Quan  niệm thế nào về bậc thang giá trị?
- Cách tiêu xài tiền bạc: coi nặng hay coi nhẹ đồng tiền?
- Ưa thích sinh hoạt gì? hoặc môn giải trí nào?
- Quá khứ của bạn: biết để đón nhận, thông cảm và nâng đỡ một cách chân thành.
- Gia đình của bạn: ưu điểm và khuyết điểm của từng người.

2. Sống khiết tịnh:

Hãy nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sáng.  Thời kỳ này rất cần ơn Chúa. Do đó, cần nỗ lực tối đa để sống khiết tịnh:
a. Về mặt tiêu cực
- Tránh đừng phạm những điều làm cho lương tâm bất ổn
- Khi diễn tả tình yêu, hãy tránh những hành vi không thích hợp với đức khiết tịnh, nó sẽ gây nên đau khổ và dằn vặt tâm hồn.
Tuyệt đối tránh giao hợp trước ngày cưới. Chỉ khi đã thành vợ thành chồng, mới có quyền trên thân xác của nhau.
Muốn giữ đức khiết tịnh thời đính hôn, cần có quyết tâm mạnh, tránh mọi nhượng bộ dù rất nhỏ, và tránh mọi dịp dễ đưa đến vấp ngã.

b. Về mặt tích cực
- Gia tăng cầu nguyện, không chỉ là cầu xin nhưng còn là suy niệm và chiêm niệm.
- Phát huy tinh thần hy sinh bỏ mình vì yêu mến.
- Cố gắng sửa đổi bản thân.

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Anh chị đã chuẩn bị những gì để có thể bước vào cuộc sống hôn nhân cách tốt đẹp và hạnh phúc?
2. Đời sống đức tin của cha mẹ ảnh hưởng thế nào đối với đời sống đức tin của con cái?

 Tâm tình cầu nguyện:
Đọc và suy niệm 1 Cr 13,1.4-7:
Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.

Gặp Gỡ 13
Hội thánh nâng đỡ đôi bạn
trên đường hạnh phúc (1):

GIÁO LUẬT VỀ BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Hội thánh có những luật riêng về hôn nhân, mục đích là để đảm bảo tính chất xã hội của hôn nhân, nhất là để giúp vợ chồng đạt được cùng đích của hôn nhân theo chương trình của Thiên Chúa, là yêu thương nâng đỡ nhau và chu toàn bổn phận sinh sản và giáo dục con cái.
- Luật Hội thánh chỉ ràng buộc người công giáo.
- Hôn nhân công giáo phải cử hành theo giáo luật mới có giá trị, dù chỉ có một bên là công giáo.

I. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BÍ TÍCH HÔN NHÂN THÀNH SỰ:

- Đã được rửa tội
- Không mắc những ngăn trở theo giáo luật.
- Tự do ưng thuận và cam kết sống chung suốt đời.
Một cuộc hôn nhân có thể không thành khi thiếu sự cam kết thực sự giữa hai bên, vì những nguyên nhân sau đây:
w Không biết hôn nhân là gì.
w Lấy nhầm người.
w Giả vờ cam kết, nhưng thực sự không muốn.
w Đặt điều kiện, tức cam kết với điều kiện có quyền ly dị hoặc không bao giờ sinh con.
w Trừ những trường hợp đặc biệt có phép của giáo quyền, bình thường phải có Linh mục có năng quyền chứng hôn mới thành. Xem (Ai là chủ lễ bí tích Hôn Phối? Phần II bài 14)

II.  CÁC TRƯỜNG HỢP HÔN NHÂN KHÔNG THÀNH SỰ:

1. Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
2. Một trong hai người chưa đủ tuổi theo giáo luật: Nam đủ 16, nữ đủ 14.  Ở Việt Nam hiện nay, dân luật: nam phải đủ 20 tuổi, nữ phải đủ 18 tuổi. Nhưng Hội Thánh khuyên nên đủ tuổi theo dân luật mới kết hôn.
3. Một trong hai người không được tự do, tức là bị ép buộc kết hôn.
4. Một trong hai người bị bất lực mãn tính, không thể giao hợp được.
5. Những người cùng giòng máu trực hệ.
6. Chú, bác, cậu với cháu, cô dì với cháu. Chồng với con riêng của vợ, vợ với con riêng của chồng.
7. Một trong hai người bị ngăn cản bởi lời khấn Dòng, bởi chức thánh.
8. Hai người theo hai đạo khác nhau.
9. Kẻ giết người phối ngẫu để kết bạn.

III. HỘI THÁNH CÓ THỂ CHUẨN MIỄN:

- Ngăn trở vì thiếu tuổi tối thiểu.
- Ngăn trở vì bà con giữa anh em họ, hoặc chú cậu cô dì với cháu.
- Ngăn trở họ kết bạn.
- Ngăn trở do lời khấn.
- Ngăn trở khác đạo.
Hội thánh dè dặt và đôi khi khắt khe với những hôn nhân khác đạo, chính là để đức tin bên công giáo và giáo dục công giáo cho con cái được bảo đảm tốt đẹp. Một lý do nữa là vì muốn tránh xích mích hay xảy ra giữa vợ chồng, cũng như gia đình hai bên, rất tai hại cho con cái.

IV. VẤN ĐỀ THÁO GỠ HÔN PHỐI

1. Hôn nhân đã trọn vẹn và hôn nhân không trọn vẹn

Hôn nhân đã trọn vẹn là hôn nhân:
  • đã thành sự,
  • là bí tích
  • vợ chồng đã ăn ở với nhau.
Hôn nhân không trọn vẹn là khi thiếu một trong ba điểm trên.

2. Hội thánh có quyền giải tán hôn nhân không?

Hội thánh không bao giờ có quyền giải tán những cuộc hôn phối trọn vẹn, tức là hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội, đã thành hôn và đã ăn ở với nhau rồi.
Còn đối với những cuộc hôn nhân không trọn vẹn, Hội thánh có quyền giải tán những trường hợp sau đây:
w Hôn nhân giữa hai người công giáo, hoặc một người công giáo và một người không được rửa tội, đã thành sự, nhưng hai vợ chồng chưa ăn ở với nhau.
w Hôn nhân giữa hai người chưa được rửa tội đã thành hôn và đã ăn ở với nhau, rồi một trong hai người xin rửa tội mà người kia không cho, hoặc vẫn giữ vợ lẽ, hoặc không chịu cho con cái theo đạo. Trường hợp này gọi là “đặc ân thánh Phao-lô” theo câu 1 Cr 7,15. Hôn nhân này chỉ được giải tán khi người mới theo đạo lấy người khác.
Ngoài ra, có khi Hội thánh công bố một cuộc hôn nhân đã không thành sự ngay từ đầu vì những trở ngại mà lúc bấy giờ không ai để ý tới, nghĩa là những trở ngại kể trong số III ở trên. Nhưng đó không phải là giải tán, bởi vì cuộc hôn nhân đã không thành sự.
Hội thánh không chấp nhận ly dị. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có thể chấp nhận ly thân nghĩa là hai vợ chồng không còn sống với nhau như vợ chồng nữa, nhưng không có quyền kết hôn với người khác.

Gặp Gỡ 14
Hội thánh nâng đỡ đôi bạn
trên đường hạnh phúc (2):

CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Ta đã thấy Chúa Giê-su đến để nâng hôn nhân lên hàng bí tích, nghĩa là dùng hôn nhân làm phương tiện cho người ta gặp Ngài; làm phương tiện diễn tả và thông ban tình yêu của Ngài. Chính khi bí tích hôn nhân được cử hành là khi Ngài ban đầy Thánh Thần của Ngài cho đôi vợ chồng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ chu toàn các bổn phận hôn nhân trong gia đình.

I.  NÓI CHUNG VỀ BÍ TÍCH

Bí tích nghĩa là dấu chỉ bí nhiệm, tức là những cử chỉ hay hành động (như đổ nước lên đầu, hay ăn bánh) mang một ý nghĩa thiêng liêng và do ý muốn của Chúa Giê-su, đem lại những kết quả thực sự cho linh hồn, (như rửa tội, hay tăng cường lòng bác ái).

Chúa muốn dùng các bí tích để thánh hoá các tín hữu, là vì:
- Từ ngàn xưa, con người đã quen dùng các lễ nghi, để đánh dấu các giai đoạn đời sống, như sinh ra, lớn lên, kết hôn, tang chế v.v... Chúa cũng thánh hoá các tín hữu bằng những lễ nghi tương tự.
- Chúa muốn để con người, (vốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài bằng giác quan), thấy và nghe được phần nào sự hiện diện của Chúa trong đời sống.

 Các bí tích mang lại 3 kết quả chính:
- Thánh hoá các tín hữu và Hội thánh.
- Thờ phụng Thiên Chúa.
- Biểu lộ và giáo dục đức tin.
Như vậy các bí tích không phải chỉ là những lễ nghi mừng sự sống, nhưng còn đem lại và tăng cường sự sống trong chúng ta.
Các bí tích là những cuộc gặp gỡ của tín hữu và Hội thánh với Chúa, nhờ đức tin. Muốn có kết quả, cả hai bên đều phải góp phần của mình. Về phía Chúa, các bí tích luôn đem lại kết quả, nhưng không phải cách máy móc mà cần có sự đáp ứng tự do của các tín hữu.

II.  RIÊNG VỀ  BÍ TÍCH HÔN PHỐI

Bí tích hôn phối là ý muốn và sự cam kết công khai giữa vợ và chồng trước mặt đại diện Hội thánh. Bí tích ban ơn Chúa Thánh Thần cho vợ chồng, để họ có khả năng yêu mến cách siêu nhiên: yêu nhau như Chúa Giê-su đã yêu Hội thánh, yêu thương và giáo dục con cái, và biến gia đình mình thành một tế bào sống động của Dân Chúa và xã hội.
Hôn nhân và bí tích hôn phối là hai điều khác nhau. Hôn nhân là sự cam kết công khai và tự do giữa một người nam và một người nữ để lập gia đình. Bí tích Hôn phối là sự cam kết đó trước mặt Hội thánh để lãnh nhận ơn Thánh Thần. Tuy nhiên đối với người công giáo, cả hai là một: hôn nhân nếu không có bí tích thì không thành sự.
Người công giáo phải cử hành bí tích hôn phối trước mặt đại diện Hội thánh, bởi vì: như mọi bí tích khác, hôn nhân là bí tích của Hội thánh, tức là một phương tiện đem lại ơn Chúa Thánh Thần qua trung gian của Hội thánh, và trao cho vợ chồng trách nhiệm góp phần xây dựng Hội thánh.

Ai là chủ lễ bí tích hôn phối?
Chính hai vợ chồng là chủ lễ bí tích hôn phối, còn linh mục chỉ là chứng nhân mà thôi. Vì thế, nếu không có linh mục, vẫn có thể cử hành bí tích hôn phối trước mặt hai chứng nhân, với điều kiện Giám mục Giáo phận đã cho phép trước cách tổng quát.
Ơn bí tích hôn phối: Bí tích Hôn Phối ban ơn Thánh Thần không phải chỉ một lần, lúc làm lễ cưới, nhưng còn ban ơn nhiều lần suốt đời qua những mối tương quan tốt đẹp trong gia đình.

III. PHỤNG VỤ BÍ TÍCH HÔN NHÂN

Phụng vụ là việc thờ phượng chính thức của cộng đoàn Hội thánh, qua đó ta diễn tả và sống điều mình tin, đồng thời ta cũng nhận được ơn và sức mạnh của Chúa. Thánh lễ hôn phối là một nghi lễ gồm một số kinh đọc và cử điệu, có ý diễn tả ý nghĩa của việc hôn nhân và mang lại ơn Chúa cho đôi tân hôn.
+ Xét về diễn tiến và thủ tục thì thánh lễ hôn phối khá đơn giản: đôi tân hôn vào nhà thờ, lên chỗ ngồi dành riêng, bắt đầu thánh lễ. Sau bài giảng bắt đầu nghi thức Hôn phối: linh mục hỏi về ba điểm: sự tự do, sự ưng thuận lấy nhau suốt đời, sự đón nhận và giáo dục con cái. Kế đó, đôi tân hôn long trọng nói lên lời cam kết nhận nhau làm vợ chồng suốt đời. Rồi đến nghi thức trao nhẫn cho nhau, và cuối cùng là ký vào sổ hôn phối.
+ Mặc dù đơn giản, nhưng các thủ tục đó lại giúp cho đôi tân hôn  ý thức giá trị cao quý của hôn nhân.
1. Hỏi về sự tự do:
Để hai người xác định với chính mình và với mọi người rằng hành vi của mình là một hành vi hoàn toàn tự do và thật sự trưởng thành (không có tự do này, hôn nhân bất thành).
2. Hỏi về việc yêu thương, kính trọng nhau suốt đời:
Yêu thương là chuyện dĩ nhiên rồi, nhưng hai tiếng ý nghĩa ở đây là “kính trọng và suốt đời”. Vì yêu là phải thật sự kính trọng người yêu: làm cho người yêu lớn lên, chứ không phải làm cho người yêu tan biến đi. Suốt đời: vì dây ràng buộc hai bên chỉ hết khi một trong hai người qua đời.
3. Hỏi về việc đón nhận con cái:
Đây là vấn đề cần thiết, vì lấy nhau với mục đích không sinh con thì hôn nhân bất thành.
4. Lời cam kết của hai người rất có ý nghĩa:
Nó có tính cách pháp luật và xã hội, cho nên đòi nêu đích danh và phải được tuyên bố trước mặt linh mục, hai người chứng và cộng đoàn.
Chính việc hai người xác nhận mình tự do và công khai cam kết yêu nhau suốt đời rất quan trọng, vì chúng làm thành Bí Tích Hôn Phối.
5. Sau khi hai người trao nhẫn cho nhau, đôi tân hôn, hai người chứng và linh mục cùng ký tên vào sổ hôn phối (cũng có khi việc này được thực hiện sau thánh lễ tại văn phòng giáo xứ).
6. Thánh lễ tiếp tục, sau kinh Lạy cha có một lời nguyện đặc biệt cầu cho đôi tân hôn.
7. Khi rước lễ, việc hai người cùng uống chung một chén Máu Thánh cũng giúp hai người nhớ mình đã thuộc trọn về nhau, là một với nhau trong Chúa Ki-tô.
8. Các lời nguyện cho đôi tân hôn nói lên việc Hội thánh đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho họ. Các bài Kinh thánh được chọn riêng cho lễ Hôn phối xoay quanh ba ý chính:
- Mục đích, ý nghĩa, bản chất của tình yêu và hôn nhân.
- Những con người mẫu mực trong đời sống hôn nhân và gia đình.
- Những đòi hỏi của tình yêu hôn nhân.

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Ai là chủ lễ bí tích Hôn Phối?
2. Anh chị hãy cùng nhau đọc và tìm hiểu ý nghĩa của Nghi thức Hôn Phối.

Gợi ý cầu nguyện:
Đọc bản Nghi thức hôn phối ở dưới, sau đó dành thời giờ thinh lặng suy nghĩ và cầu nguyện.
Phụ thêm:
NGHI THỨC HÔN PHỐI
Mọi người, kể cả đôi tân hôn, đứng lên. Linh mục nói với đôi tân hôn những lời sau đây, hoặc những lời khác tương tự:
Anh và chị thân mến.
Anh chị đến nhà thờ để tình yêu của anh chị được Thiên Chúa đóng ấn trước mặt đại diện Hội thánh và cộng đoàn. Thật vậy, Chúa Ki-tô rộng rãi chúc phúc cho tình yêu này. Chúa dùng bí tích đặc biệt làm cho anh chị được phong phú và kiên cường, để anh chị luôn luôn trung tín với nhau và đảm nhận những trách nhiệm khác của hôn nhân, cũng như chính Người đã dùng phép Rửa Tội để thánh hiến anh chị. Bởi đó, trước mặt Hội thánh, tôi hỏi ý kiến anh chị:
- Anh T. và chị T., anh chị có tự do và thật lòng đến đây để kết hôn với nhau không?
- Thưa có.
- Anh T. và chị T., anh chị có bị ép buộc để kết hôn với nhau không?
- Thưa không.
- Khi chọn đời sống hôn nhân, anh chị có sẵn sàng yêu thương và kính trọng nhau suốt đời không?
- Thưa có.
- Anh chị có sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa sẽ ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Ki-tô và luật Hội thánh không?
- Thưa có.
(Linh mục mời đôi tân hôn nói lên sự ưng thuận):
Vậy, bởi vì anh chị đã quyết định kết hôn, anh chị hãy cầm tay nhau và nói lên sự ưng thuận trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh Ngài.
(Đôi tân hôn nắm tay nhau)
Bên nam nói:
Tôi là T. nhận em T. làm vợ và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và kính trọng em mọi ngày suốt đời tôi.
Bên nữ nói:
Tôi là T. nhận anh T. làm chồng và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và kính trọng anh mọi ngày suốt đời tôi.
Linh mục đọc:
Xin Thiên Chúa đoái thương và xác nhận sự ưng thuận mà anh chị đã tỏ bày trước Hội thánh và xin đoái thương đổ tràn đầy ân phúc cho anh chị. Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.
- Amen.

Làm phép trao nhẫn
Linh mục đọc:
 Xin Thiên Chúa chúc phúc cho những chiếc nhẫn này mà hai người trao cho nhau để làm bằng chứng tình yêu và trung thành.
Bên nam đeo nhẫn vào ngón tay bên nữ và nói:
T. em nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của anh. Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.
Bên nữ đeo nhẫn vào ngón tay bên nam và nói:
T. anh nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của em. Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.
Lưu ý: Về nghi thức lễ cưới ở gia đình, xin xem bài 18, số 10 và 11.
 
III. GIA ĐÌNH
LÀ HỘI THÁNH NHỎ


Gặp Gỡ 15
GIA ĐÌNH LÀ HỘI THÁNH NHỎ CỦA THIÊN CHÚA


Nhân loại và gia đình luôn gắn liền nhau. Lịch sử gia đình và lịch sử nhân loại có nhiều điểm giống nhau: Loài người xuất hiện, cơ chế gia đình cũng xuất hiện - Loài người phạm tội, tình yêu gia đình cũng sa sút biến dạng - Loài người được Thiên Chúa cứu độ, gia đình cũng được phục hồi - Chúa Giê-su chết, sống lại, phục hồi nhân loại, Ngài cũng trả lại phẩm giá ban đầu cho hôn nhân - Chúa Thánh Thần được ban cho nhân loại mới là Hội thánh: Chúa Thánh Thần cũng được ban cho gia đình ki-tô-giáo.
Gia đình quả là một nhân loại thu hẹp, một Hội thánh nhỏ. Gia đình là hình ảnh sống động và là một biểu hiện lịch sử của chính mầu nhiệm Hội thánh. Gia đình vừa cho thấy tình yêu Thiên Chúa, vừa thể hiện sứ mạng của Hội thánh

I. GIA ĐÌNH LÀ BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Bí tích là một dấu hữu hình giúp người ta thấy được một điều vô hình. Gia đình là Bí tích, nghĩa là gia đình có thể giúp người ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa. Ta đã thấy, tình yêu Thiên Chúa là nền tảng gia đình. Việc vợ chồng con cái yêu thương nhau là do Thiên Chúa nâng đỡ, nhưng đồng thời việc họ yêu thương nhau ấy cũng cho thấy tình yêu Thiên Chúa, cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Trước hết, gia đình giúp nhìn thấy Tình yêu hiệp nhất của Thiên Chúa:
- Khi vợ chồng, cha mẹ, con cái yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau.
- Khi người này giúp phát triển ngôi vị của người kia, vì tình yêu không bóp chết ngôi vị, không đòi người này biến tan đi trong người kia.
- Khi tình yêu không khép kín lại giữa hai vợ chồng, nhưng mở  ra để đón nhận con cái và đón nhận tất cả mọi người, liên kết với mọi người.
- Khi người này trở nên hạnh phúc cho người kia, khi mỗi người yêu thương người khác và biết rằng mình được người khác yêu thương.
- Khi mỗi người vác thập giá đang có trong cuộc sống gia đình để theo Chúa Giê-su. Thập giá đó có thể là những va chạm vợ chồng với nhau, hoặc vì những khuyết điểm hay tính xấu của nhau hay vì  những khó khăn do hoàn cảnh gây ra. Tuy đời sống có lúc khó khăn, nhưng Chúa không để ta đơn độc, và ai kiên nhẫn đến cùng, sẽ thấy ơn Chúa giúp mình vượt qua được mọi trở ngại.

II.  THỰC HIỆN SỨ MẠNG HỘI THÁNH

Vì thuộc về Hội thánh, gia đình cũng thể hiện sứ mạng của Hội thánh là làm ngôn sứ, làm vua, làm tư tế để rao giảng Tin mừng cho mọi người, quy tụ tất cả thành Dân tộc mới của Thiên Chúa và thánh hoá họ cho Thiên Chúa.

1. Sứ mạng làm vua

Trước hết, nhờ tình yêu và tinh thần phục vụ, gia đình tham dự vào sứ mạng làm vua của Đức Giê-su. Đức Giê-su là vua nhân từ, vua tình yêu, vì đối với Ngài, cai trị là phục vụ. Tình yêu và sự phục vụ của vợ chồng công giáo có thể được diễn tả:
- Đối với chính người trong gia đình (quên mình, nhường nhịn, hy sinh cho nhau)
- Đối với các gia đình thân hữu (gặp gỡ, chia sẻ, sinh hoạt chung)
- Đối với khách (hiếu khách, khiến họ thích đến, thích sống như gia đình mình).

2. Sứ mạng tư tế

Nhờ tinh thần cầu nguyện, gia đình sống sứ mạng làm tư tế. Tinh thần cầu nguyện này được diễn tả:
- Qua việc mọi người trong gia đình năng dự lễ và xưng tội, nhất là vào dịp các lễ gia đình.
- Qua việc gia đình chuyên cần giữ giờ kinh tối: mọi người họp nhau đọc kinh, cầu nguyện, xét mình, đọc và suy niệm Lời Chúa. Cần bắt đầu cầu nguyện chung ngay từ hôm mới cưới và giữ thói quen này suốt đời, vì giờ gặp gỡ Chúa này là một liều thuốc hiệu nghiệm giúp giải quyêt nhiều vấn đề. Cần canh tân giờ kinh tối để nó khỏi trở nên máy móc.

3. Sứ mạng ngôn sứ

Nhờ tinh thần truyền giáo, gia đình sống sứ mạng ngôn sứ. Tìm hiểu về Chúa Giê-su. Sống Tin mừng của Ngài, rồi dựa trên hoàn cảnh và tâm sự của người ta mà nói về Chúa, giúp người ta gặp Chúa.
Trong tông huấn về gia đình, để giúp các đôi bạn chu toàn thiên chức mình, Đức Giáo hoàng mời gọi các gia đình liên kết với nhau và hợp tác với các tổ chức giáo dục khác. Ở đây, xin gợi ý vài điều cụ thể:
- Liên kết, trao đổi kinh nghiệm giữa các gia đình trong giáo xứ, từ kinh nghiệm xây dựng bầu khí hạnh phúc, đến kinh nghiệm giáo dục. Việc liên kết này nên dựa trên những cơ cấu đã có sẵn trong giáo xứ: Hội các gia trưởng, các hiền mẫu, các nhóm chia sẻ Lời Chúa.
- Liên kết với nhà trường, hội cha mẹ học sinh.
- Hợp tác với lớp giáo lý:
Tại Việt Nam ngày nay, việc dạy giáo lý thường được tổ chức theo từng tuổi, để tiện giáo dục và đào tạo. Nếu có sự hợp tác giữa gia đình và lớp giáo lý sẽ kết quả nhiều. Việc dạy giáo lý hết sức quan trọng, cần sự đóng góp của mọi tín hữu. Do đó, tốt nhất nếu có thể thu xếp được, anh chị đừng ngại góp phần giảng dạy tại các lớp giáo lý. Việc dạy giáo lý không phải chỉ dành cho những người chưa lập gia đình. Trong đội ngũ giáo lý viên càng có nhiều người đã lập gia đình, việc dạy giáo lý của giáo xứ càng thuận lợi. Nếu không tham gia công tác giảng dạy được, anh chị có thể tham gia nhóm tông đồ giáo lý của giáo xứ để nâng đỡ các giáo lý viên.

NHÓM TÔNG ĐỒ GIÁO LÝ
Công cuộc dạy giáo lý hết sức quan trọng mà lại gặp rất nhiều khó khăn: thiếu giáo lý viên, phòng ốc, sách vở... Trước nhu cầu này nhiều giáo xứ đã hình thành nhóm tông đồ giáo lý. Nhóm này quy tụ các giáo lý viên cũ và cả những người chưa từng dạy giáo lý nhưng có quan tâm tới công cuộc giáo lý và giáo dục, các cựu huynh trưởng, giáo viên v.v... Nhóm này giúp cha xứ và các giáo lý viên trong công cuộc dạy giáo lý. Cụ thể là:
- Dìu dắt nâng đỡ các giáo lý viên mới: Gầy dựng, đào tạo lớp kế thừa, chuyển giao kinh nghiệm, chia sẻ nội dung giáo lý, sư phạm đứng lớp, kinh nghiệm làm việc tông đồ theo phương hướng của cha xứ và hội đồng giáo xứ,
- Quan tâm tìm cách nâng đỡ phương tiện làm việc và tự luyện cho giáo lý viên, như: Tủ sách cho giáo lý viên,
- Động viên phụ huynh và học sinh.  Hỗ trợ một số công việc cụ thể, vận động yểm trợ vật chất,

III.  HƯỚNG VỀ TRỜI MỚI ĐẤT MỚI

Sống trong đời sống gia đình, nhiều lúc anh chị thấy hạnh phúc của mình còn hạn hẹp hoặc bị đe dọa bởi cái chết, không thỏa mãn được khát vọng vô biên của mình. Nhờ đức tin anh chị biết Chúa Giê-su đã chiến thắng sự chết, đã trở về trời dọn chỗ cho anh chị. Một ngày nào đó, gia đình là công trình của tình yêu Thiên Chúa, sẽ cập bến trong Thiên Chúa tình yêu. Hạnh phúc hạn hẹp của anh chị sẽ đầy  tràn. Anh chị sẽ gặp lại mọi người thân thiết hay ân nhân, sẽ thấy giá trị rực rỡ của những hy sinh, những giọt mồ hôi nước mắt hôm nay. Thân xác anh chị sẽ sống lại và, cùng với linh hồn, mặc lấy vẻ đẹp toàn bích nhất.
Với hy vọng đó, anh chị vui nhận mọi gian khó hiện tại, gắn bó với Chúa Giê-su và âm thầm liên lỉ trung thành xây dựng một tổ ấm yêu thương. Ngay giữa đời thường của gia đình mình, anh chị xây dựng Nước Thiên Chúa, tức là biến tổ ấm của mình thành nhúm men hạnh phúc cho chính mình, cho con cái và cho mọi người. Như thế khi Chúa đến, anh chị sẽ được rước vào tiệc cưới vĩnh cửu.

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Tại sao gia đình được gọi là Hội thánh nhỏ?
2. Làm sao để gia đình trở thành tổ ấm của tình yêu, đem lại hạnh phúc cho mọi thành phần trong gia đình?

Tâm tình cầu nguyện:
Đọc và suy niệm về nếp sống năm chuyên của Hội thánh thuở ban đầu (chuyên cần giáo lý, vững chí hiệp thông, bền lòng phục vụ, vui thú nguyện cầu và cùng nhau làm chứng) trong Công vụ Tông đồ 2, 42.44-46:
Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện.
Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.
Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến, và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.

Gặp Gỡ 16
ĐÔI BẠN VÀ CÁC BÍ TÍCH

“Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Chúa Ki-tô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa. Tuy nhiên, là những dấu chỉ, các bí tích còn giữ vai trò huấn giáo nữa... Do đó, việc quan trọng là làm sao cho các tín hữu dễ dàng hiểu được những dấu chỉ của các bí tích, và hết sức siêng năng đón nhận các bí tích, được lập ra để nuôi dưỡng đời sống ki-tô-hữu” (PV.59)

I.  HÔN PHỐI VÀ PHÉP RỬA:

1. Khi viết về tình yêu đôi bạn, thánh Phao-lô đã dạy: “Chồng hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô đã yêu thương Hội thánh, hiến thân vì Hội thánh, để sau khi dùng nước và Lời hằng sống rửa cho sạch, thì thánh hoá Hội thánh” (Ep 5,25). Nhờ cái chết và tình yêu tận hiến, Chúa Ki-tô đã biến Hội thánh thành trinh trong và là Mẹ sự sống thế nào, thì Ngài cũng dùng Bí tích Rửa Tội mà biến đổi đôi bạn trở nên phần tử của Hội thánh. Nhờ bí tích Hôn Phối, đôi bạn được thông phần giao ước tình yêu của Chúa Ki-tô và Hội thánh. Như vậy, lòng trung thành trong đức tin và đức mến mà mỗi người tuyên hứa khi chịu phép Rửa Tội, cũng chính là lòng trung thành và tình yêu mà đôi bạn trao cho nhau trong giao ước Hôn nhân.
Vì thế, khi đôi bạn sống Bí tích Rửa Tội của mình trong đời sống chung,  họ làm cho chính lời giao ước Hôn nhân của họ được thực hiện.

2. Phép Rửa rất cần cho được sống đời đời “Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần, không được vào Nước Trời” (Ga 3,5). Chính phép Rửa tha tội tổ tông và cả những tội riêng ta phạm trước đó, ban ơn thánh hoá, sinh ta làm con Thiên Chúa và con Hội thánh.
Do đó, đôi bạn cần đặc biệt quan tâm thực hiện việc Rửa tội cho con cái tùy theo các trường hợp sau đây:

a) Trường hợp thông thường:
Khi sinh con được chừng một tháng, cha mẹ và người đỡ đầu đưa con đến nhà thờ xin linh mục rửa tội cho em. Nên có sự hiện diện đông đủ và ý thức của mọi người trong gia đình. Có thể tổ chức việc mừng “đầy tháng” cho em vào ngày Rửa tội.

b) Trường hợp nguy tử:
Khi em chưa được rửa tội mà đau nặng, thì cha mẹ lo liệu cho em được rửa tội ngay, bằng cách:
- Tìm người khác (nếu không có ai, thì cha hay mẹ) rửa tội cho em như sau: lấy nước lã đổ trên trán em, vừa đổ vừa đọc: “T. (tên thánh và tên gọi), cha (mẹ) rửa con: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Khi làm việc này cần ý thức làm theo ý của Hội thánh.
- Ghi vào sổ gia đình Công giáo và sớm trình  cho cha sở.
- Khi em khỏe lại, có thể đưa em tới cha sở xin lãnh nhận các nghi thức bổ túc.

c) Trường hợp tối khẩn:
Khi sẩy thai, hoặc khó sinh, đôi bạn cần lưu ý:
- Mọi bào thai phải được rửa tội dù nó được bao nhiêu tháng. Nếu bào thai chắc chắn còn sống, thì rửa tội cách tuyệt đối: “...cha (mẹ) rửa con: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Nếu hồ nghi thai đã chết, thì rửa tội hồ nghi: ”...Nếu còn sống, cha (mẹ) rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Khi sẩy thai, thì xé bọc thai rồi đổ nước hoặc dìm vào nước, và đọc: “Nếu nên, ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Quái thai thì rửa tội hồ nghi: “Nếu con là người thì ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

II.  HÔN PHỐI VÀ THÊM SỨC:

Khi lãnh Bí tích Thêm Sức, người tín hữu được đầy ơn Chúa Thánh Thần, để trở nên chứng tá đức tin, có nhiệm vụ bảo vệ và mở mang Nước Chúa.
Khi lãnh Bí tích Hôn Phối, đôi bạn trở thành nhân chứng cho tình yêu tự hiến và xây dựng Nước Chúa trong chính bậc sống hôn nhân của mình. Những hy sinh, đau khổ, những thử thách trong cuộc sống chung, sự giáo dục con cái nên người con Chúa, đều là những công việc quý giá góp phần mở mang Nước Chúa. Chính ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ giúp đôi bạn chu toàn những nhiệm vụ trên.
Đối với gia đình ki-tô-hữu, sống bí tích Thêm Sức là liệu cho chính gia đình mình có một kế hoạch truyền giáo, quan tâm thực hiện và thường xuyên kiểm điểm để thực hiện tốt hơn.

III.  HÔN PHỐI VÀ GIẢI TỘI:

Trước khi lãnh bí tích Hôn Phối, Hội thánh khuyên đôi bạn xưng tội. Xưng tội để tâm hồn được trong sạch, xứng đáng đón nhận dồi dào ân huệ Chúa ban trong ngày thành hôn.
Nhưng suốt quá trình chung sống, đôi bạn không sao tránh hết mọi khuyết điểm, sai sót. Những sai sót về tình yêu, về lòng trung thành, về đức nhẫn nại... có thể làm họ chán nản cuộc sống chung. Bấy giờ, Bí tích Giải Tội sẽ xóa đi những lỗi lầm ấy và ban nhiều ơn giúp đôi bạn phấn khởi vững bước trong cuộc sống hôn nhân, với nhiều cố gắng mới. Cũng nhờ Bí tích Giải Tội, họ ý thức được những buồn phiền đã gây ra cho nhau, từ đó trở nên xả kỷ và quảng đại hơn; họ cũng phấn đấu sống hoà hợp với các phần tử khác trong gia đình, với lối xóm.
Người sạch sẽ thay quần áo trước khi bẩn và giặt ủi liền sau khi thay. Cũng thế, người tín hữu tốt, dù không có vấn đề gì trầm trọng, vẫn cố gắng xưng tội thường xuyên, khoảng hai hay ba tháng một lần. Đàng khác, không chờ đến ngày xưng tội mới xét mình nhưng kiểm điểm đời sống hằng ngày: Xét mình mỗi tối để mỗi ngày một đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại hơn.

IV.  HÔN PHỐI VÀ THÁNH THỂ

Ơn vô giá mà anh chị được hưởng trong thánh lễ Hôn nhân là Hiệp lễ. Lúc ấy anh chị được tham dự vào chính giao ước tình yêu giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Nhờ kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, anh chị được Chúa làm bạn đồng hành, được Ngài trợ lực suốt cuộc đời để anh chị nên một trong Ngài và để anh chị có thể yêu nhau, không phải bằng một tình yêu đầy giới hạn của mình, nhưng bằng chính tình yêu vô biên của Chúa Giê-su.
Năng đến với Bí tích Thánh Thể, anh chị sẽ được Chúa Giê-su biến đổi để trở nên tấm bánh tình yêu bẻ ra trao tặng cho nhau: tấm bánh của sự sống, của niềm vui, của tha thứ và của sự tâm đầu ý hợp. Bí tích Thánh Thể chính là sức sống nuôi dưỡng, củng cố và đổi mới tình yêu của đời sống hôn nhân và gia đình.
Cùng dâng lễ và Hiệp lễ, ngày ấy cũng như nhiều ngày khác, anh chị tự buộc mình sống tình yêu Chúa Ki-tô và thương mến nhau hơn. Nhờ tình yêu siêu nhiên ấy, anh chị dễ lướt thắng những vụn vặt khó chịu hằng ngày.
Để sống khoẻ, chẳng những là tránh bệnh tật mà còn phải ăn uống đầy đủ và tập thể dục. Đối với người tín hữu, dinh dưỡng là năng rước lễ và chăm đọc Lời Chúa, tập thể dục là cầu nguyện sâu xa và kiểm điểm đời sống hằng ngày.

V.  HÔN PHỐI VÀ TRUYỀN CHỨC THÁNH

Hôn phối và Truyền chức thánh là hai bí tích phục vụ cộng đoàn, vì nhằm xây dựng nên cộng đoàn do chính Chúa Ki-tô thiết lập, tức là Hội thánh.
Bí tích Hôn Phối làm tăng số con cái trong Hội thánh, bí tích Truyền Chức tuyển chọn các tác viên phục vụ Hội thánh. Chính ơn gọi làm linh mục được gieo mầm từ trong gia đình, cho nên gia đình được gọi là “Chủng viện sơ khai” (ĐTLM 2).
Không những anh chị quan tâm nâng đỡ các ơn gọi linh mục và tu sĩ, Hội thánh còn ước mong rằng chính anh chị sẽ tha thiết muốn dâng con cái mình làm việc tông đồ phụng sự Chúa. Do đó công đồng Va-ti-ca-nô II khuyên: “Cha mẹ hãy thận trọng giúp đỡ con cái lựa chọn ơn gọi. Nếu thấy chúng có ơn thiên triệu, họ hãy thận trọng nuôi dưỡng ơn thiên triệu đó” (TĐ 11)
Cha mẹ có trách nhiệm thánh hoá con cái và đáp lại, chính con cái cũng góp phần thánh hoá cha mẹ. Cũng vậy, không riêng các chủ chăn có trách nhiệm thánh hoá giáo dân, chính giáo dân cũng góp phần thánh hoá các chủ chăn (Ga 17,19). Ta có thể thực hiện công việc này bằng cách:
- Tích cực cộng tác trong việc xây dựng Hội thánh, cách riêng trong các sáng kiến truyền giáo.
- Cảm thông những giới hạn và yếu đuối
- Cầu nguyện
- Nâng đỡ về tinh thần và vật chất
- Khiêm tốn góp ý xây dựng trong tình bác ái và liên đới trách nhiệm.

VI.  HÔN PHỐI VÀ xỨC DẦU BỆNH NHÂN

Trong ngày cưới, đôi bạn hứa chung thủy với nhau cho đến chết. Cái chết niêm ấn lòng trung tín trọn vẹn của họ. Ở biên giới sự sống và sự chết, phép Xức Dầu giúp người tín hữu kết thúc đoạn đường lữ hành và sẵn sàng bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Thánh Thể lúc ấy là của ăn đàng giúp người tín hữu đủ sức đi tới Bàn Tiệc muôn đời của giao ước tình yêu, giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh khải hoàn. Trên giường hấp hối, đôi bạn thấu triệt được ý nghĩa cao đẹp cuộc sống chung đầy ý nghĩa của mình. Đó là cuộc đồng hành với Chúa Ki-tô, là thời gian thử  thách và tinh luyện tình yêu, là đoạn đường dẫn tới cuộc sống mai sau vĩnh cửu đầy hạnh phúc.
Hãy liệu cho bệnh nhân lãnh nhận bí tích Xức Dầu lúc còn tỉnh táo. Những người thân yêu nên có mặt giờ phút ấy để cầu nguyện cho bệnh nhân; cũng là để hỗ trợ tâm lý cho bệnh nhân, vì lúc ấy bệnh nhân thường rất sợ cô độc.
Bí tích Xức Dầu cũng nhắc ta nhớ đến sự hiện diện của những người cao niên trong gia đình. Đừng coi sự hiện diện của họ như một gánh nặng, nhưng hãy coi đó là ơn Chúa: người già là hiện thân của kinh nghiệm quá khứ, có thể giúp giới trẻ nhận ra lẽ khôn ngoan trong cuộc sống. Đồng thời người già cũng dễ mang tâm trạng cô đơn, sợ bị bỏ rơi. Do đó, ta cần quan tâm chăm sóc những người già cả trong gia đình mình cũng như trong lối xóm.

 Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Các bí tích, đặc biệt là Bí tích Giải Tội và Thánh Thể có ý nghĩa thế nào đối với đời sống hôn nhân và gia đình?
2. Anh chị suy nghĩ thế nào về bổn phận xây dựng Hội thánh, cụ thể là ngay tại giáo xứ của mình?

 Gợi ý cầu nguyện:
Suy nghĩ và cu nguyn da trên đon Li Chúa 1 Cr 12,12-13. 25-26
Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy.  Thật thế, tất cả chúng ta, là Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được tràn đầy một Thần Khí duy nhất... Như thế, không có sự chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.

Gặp Gỡ 17
KINH NGUYỆN GIA ĐÌNH

Công đồng Va-ti-ca-nô II gọi gia đình là Hội thánh nhỏ (GH 11). Việc cầu nguyện trong Hội thánh nhỏ này rất quan trọng, nó giúp ta liên kết với Thiên Chúa và giúp liên kết mọi người trong gia đình với nhau. Nó tạo cho gia đình một bầu khí yêu thương và thánh thiện. Nó cũng giúp chuẩn bị cho việc cử hành phụng vụ ở nhà thờ và kéo dài phụng vụ ấy ngay tại gia đình (GĐ  61b).
Trong sứ điệp ngày Truyền giáo năm 1981, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nhấn mạnh tính cách giáo dục đức tin của giờ kinh gia đình: “Nhờ việc cầu nguyện trong gia đình, trẻ em học được cách nhìn thế giới theo tinh thần Tin Mừng”. Ngài cũng nhắc lại lời của Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô I: “Nhờ việc trung thành cầu nguyện, gia đình là Hội thánh nhỏ trở thành một thực tại hữu hiệu và làm cho thế giới biến đổi”.
Sau đây là vài chỉ dẫn nhằm giúp các gia đình công giáo thực hiện được những lời nhắn nhủ ấy.

1.  GIÁ TRỊ CÁC KINH
Các kinh được dọn ra để giúp ta dễ cầu nguyện. Ý tưởng và tiếng dùng trong kinh thường được chọn lọc kỹ, nên ta theo đó mà cầu nguyện, vừa đọc vừa suy, vừa thưa chuyện với Thiên Chúa tận trong lòng.
Điều quan trọng không phải là đọc nhiều kinh, nhưng là đọc thế nào để ta sống với Thiên Chúa và lòng ta được biến đổi nhiều.

2.  CÁCH XẾP ĐẶT MỘT GIỜ KINH
Mỗi giờ kinh thường gồm các yếu tố: Lời Chúa, lời ca, lời kinh, lời cầu và sự thinh lặng.
Lời Chúa giữ vai trò quan trọng: đó là chuẩn mực hướng dẫn đời sống người tín hữu và là phương tiện thông thường Chúa dùng để giúp tâm hồn ta được biến đổi. Các bài hát, lời kinh thường đã được viết dựa trên Lời Chúa. Tuy nhiên, trong mỗi giờ kinh, ta còn nên đọc ít câu Lời Chúa trích từ  Kinh thánh để suy niệm. Để hiệp thông với Phụng vụ, mỗi tối nên đọc một trong các đoạn Kinh thánh của thánh lễ hôm sau, như được ghi trong lịch công giáo.
Sự thinh lặng để xét mình và suy niệm làm cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Nhờ đó, tự đáy lòng, ta có thể nói lên những lời nguyện tự phát để ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, để bày tỏ tâm tình thống hối mến yêu, hay để cầu xin cho những người ta quen biết và cho những nhu cầu của Hội thánh và loài người.
Nên có một cuốn “Kinh nguyện gia đình”, trước khi cầu nguyện, nên dành một phút xem thử sẽ dùng những kinh nào, đừng để vừa cầu nguyện vừa chọn kinh.

3. Bàn thờ gia đình

Để giúp mọi người nhớ có Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, mỗi nhà nên có một bàn thờ nhỏ. Bàn thờ cần sáng sủa, trình bày đơn giản để diễn tả đức tin thật chính xác. Cách chung, nên dùng một thánh giá khá lớn, một bên để một tượng hay ảnh Đức Mẹ, một bên để cuốn Kinh thánh (mỗi gia đình nên sắm một cuốn Kinh thánh, ít là phần Tân ước). Thay vì cuốn Kinh thánh, cũng có thể treo một hai tấm liễn ghi Lời Chúa (như kiểu người ta thường trình bày câu đối, nhưng các lời Kinh thánh không cần phải đối nhau).
Những ảnh tượng khác có thể chưng ở đầu giường, đầu tủ, trên vách, như những trang trí mỹ thuật hoặc đem tặng bớt cho những gia đình khác. Đừng để cả lên bàn thờ quá rườm rà, làm cho người ngoài không thấy rõ được đâu là đức tin của chúng ta.
Bàn thờ cần giữ  sạch sẽ, tuyệt đối đừng gác cất giấy bút, đồ đạc lặt vặt. Lau bàn thờ mỗi chiều thứ bảy hoặc sáng chúa nhật.
(Bàn thờ tổ tiên có thể đặt ngay dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có sự phân biệt rõ ràng, hoặc có thể để ở gian khác, nên trình bày đơn giản, sáng sủa).

4. BẦU KHÍ GIA ĐÌNH
Điều cần thiết khi cầu nguyện là nhớ rằng Thiên Chúa đang hiện diện. Ta ở đó để nghe Chúa nói và nói với Chúa. Muốn dễ nhớ sự hiện diện của Thiên Chúa, khi cầu nguyện nên ăn mặc nghiêm chỉnh, thu dọn đồ đạc trong phòng và trên bàn cho ngăn nắp. Nếu chỉ cầu nguyện chừng 15 phút, nên đứng. Lâu hơn thì lúc đứng lúc ngồi. Tùy thói quen, có thể cùng đứng hướng về thánh giá, hay quây quần nhìn vào nhau. Có thể vòng tay, chắp tay hoặc giang tay.
Để khỏi rơi vào thói quen đọc kinh máy móc, cần tránh kiểu đọc đều đều. Nên đọc chậm, ngắt câu rành rẽ, nghỉ lâu hơn. Nếu được, nên dùng cung nói thay vì cung đọc.
Buổi tối, cần thu xếp cầu nguyện thật sớm để tiện cho mọi người, nhất là trẻ em có thể tỉnh táo, nếu không được, cần hướng dẫn cho trẻ em cầu nguyện trước.

5. ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN CÁ NHÂN
Cầu nguyện chung và cầu nguyện cá nhân nâng đỡ lẫn nhau. Nhờ cầu nguyện chung ở gia đình, người ta sẽ quen cầu nguyện cá nhân; đồng thời cá nhân càng có tinh thần cầu nguyện, giờ kinh sẽ càng tốt đẹp.
Mỗi người cũng có thể tập sống tinh thần cầu nguyện bằng cách:
- Mỗi sáng vừa thức dậy là nhớ dâng ngày và xin Chúa Thánh Thần dạy cho biết sống cả ngày trong tinh thần cầu nguyện.
- Tập luôn luôn “thấy Chúa đang nhìn ta”, dù ở đâu, làm gì, cũng sống trong cái nhìn của Chúa.
- Tập tạ ơn theo hơi thở: Vừa hít vào vừa thầm nguyện: “Cha đang cho con tất cả”, vừa thở ra vừa thầm nguyện: “Xin Cha nhận lấy con đây”.
- Cũng có thể dùng những lời cầu nguyện tắt lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày, như: “Lạy Chúa Giê-su, xin cứu con”...
- Nên có những giờ phút dành riêng cầu nguyện trong ngày. Khi đã lên giường, sắp sửa ngủ, nên ôn lại những điều đã cảm nhận trong đoạn Lời Chúa vừa đọc trong giờ kinh tối để tiếp tục suy niệm vào sáng hôm sau.

Câu hỏi để anh chị trao đổi:
1. Giờ kinh tối gia đình đem lại những lợi ích nào?
2. Tại sao ngoài việc cầu nguyện chung, ta cũng cần cầu nguyện cá nhân?

 Tâm tình cầu nguyện:
Đọc và suy niệm Mt 7, 7-11:
Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn  biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Ngài sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Ngài.
Để giờ kinh gia đình được sống động, mỗi gia đình nên sắm một quyển Kinh thánh, ít là phần Tân ước và một quyển Kinh nguyện gia đình.

Gặp gỡ 18
NHỮNG DỊP ĐẶC BIỆT TRONG GIA ĐÌNH
Mỗi dịp đặc biệt trong gia đình có sinh hoạt riêng của nó. Tránh những chuyện rườm rà. Nên lưu ý nhiều đến những gì củng cố thêm tình gia đình, giúp mọi người biết nghĩ đến người khác: dọn nhà cửa sạch sẽ, trật tự, nhắc nhở cầu nguyện cho nhau, làm bó hoa thiêng liêng tặng người được mừng lễ...
Đầu năm nên ghi ngay các ngày lễ gia đình vào cuốn lịch công giáo để dễ nhớ.
Dọn mừng 2.000 năm Chúa Cứu Thế giáng sinh, mỗi gia đình tự nguyện đem một gia đình ngoài công giáo về với Chúa. Các ngày lễ gia đình có thể là dịp để ta mời họ đến dự, tạo và tăng tình thân.
Mỗi người và mỗi gia đình nên tìm hiểu kỹ đường lối nên thánh của thánh bổn mạng để noi theo.

1. CÚNG LỄ GIA TIÊN

Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết, các bậc tiền nhân nào đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người công giáo không làm một sự thờ phượng nằm ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.
Người Việt nam có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ. Người tín hữu công giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin ki-tô-giáo.
Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đã có bàn thờ thì nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh. Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái với đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, chỉ cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.
Khi cúng lễ, cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: đức tin công giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi.
               Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt, thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.

Chương trình đơn giản như sau:
1. Thắp hương đèn trên bàn thờ.
2. Dấu thánh giá.
3. Kinh Lạy Cha

4. Tạ ơn Chúa:
Xướng:  Ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã đưa các bậc tổ tiên ta về với Ngài.
Đáp :    Chúa trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
Và nhớ mãi lời xưa giao ước.
Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
Rằng sẽ giải phóng ta khỏi địch thù

5. Cầu cho các tín hữu đã qua đời:
Xướng:   Ta hãy cầu nguyện cho các linh hồn ở luyện ngục
Đáp :         Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ
Cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi
Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen

6. Lời nguyện với tổ tiên (do vị chủ lễ đọc)
Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, cùng các bác, các chú, thím, cô dì, cậu mợ và mọi anh chị em đã qua đời.
Hôm nay nhân ngày... (nhân ngày đầu năm, cuối năm, hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được ơn bình an mạnh khỏe, được hoà thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn.
(Vị chủ lễ vái 4 vái. Những người hiện diện có thể tuần tự tiến lên vái mỗi người 4 vái và cầu nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát một bài tạ ơn để kết thúc).

 

2. DỌN TẤT NIÊN

Tết Nguyên đán là dịp sum họp gia đình, kính nhớ tổ tiên và thăm viếng nhau để gia tăng tình thân ái. Cần loại bỏ những chi tiết phong tục quá rườm rà cũng như những gì đi ngược lại với Tin mừng, và phải lưu ý phát huy những gì tốt đẹp. Khởi đầu là việc dọn tất niên.
Từ giữa tháng chạp là thời gian rất thuận tiện để mỗi gia đình tổng kết một năm sinh hoạt. Cả cha mẹ và con cái sẽ cùng nhau:
- Làm xong những việc cần thiết còn đọng lại.
- Tổng kết chi thu, thanh toán nợ nần.
- Tổng kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc một năm qua.
(Việc tổng kết này có thể làm trong 4, 5 buổi kinh tối liên tiếp. Sau kinh Cúi xin Chúa sáng soi, chủ sự gợi ý để mọi người chia sẻ những vui buồn, thành công, thất bại trong một năm qua... Mỗi người xét lại xem còn những gì phải xin lỗi nhau, tha thứ cho nhau, cũng như những điều phải thanh thỏa với cha mẹ, anh chị em bên chồng, bên vợ, bà con lối xóm, các bạn cùng ngành nghề... Và với tinh thần khiêm nhường bé nhỏ, ta giao hoà với Chúa và với anh em để tìm lại sự bình an đích thật. Sau cùng, đọc kinh Phó dâng, kinh Lạy Cha, và chúc lành kết thúc).
- Chọn hướng sống hoặc chủ đề giáo dục gia đình trong năm mới.
- Dọn mình xưng tội cuối năm.
- Cha mẹ đỡ đầu thăm nom nhắc nhở con thiêng liêng (các con thiêng liêng thì chúc tết cha mẹ đỡ đầu dịp cuối năm hoặc đầu năm).
- Cũng nên dành một tuần lễ kết bó hoa thiêng liêng tạ ơn Thiên Chúa và cầu cho nhau (gồm: dâng lễ, rước lễ, đọc Lời Chúa, lần hạt, hy sinh...)
Những việc trên đây sẽ làm xong trước ngày ăn bữa tất niên (vào ngày cuối năm hoặc một ngày nào sớm hơn, tùy tiện). Bữa ăn này được coi như để kết toán mọi chuyện: còn gì phải xin lỗi nhau, hoặc góp ý xây dựng đều nói hết trong dịp này, để rồi ngày đầu năm sẽ không còn phải nhắc gì đến chuyện cũ, chỉ chúc tuổi nhau thật vui vẻ.
Cũng nên nhân bữa ăn này mà trình bày chủ đề sống của năm tới và dự phóng trước việc vui xuân của gia đình, thu xếp sao để trẻ em khỏi lây nhiễm thói xấu cờ bạc ngoài xã hội.
Trước bữa ăn có lễ cúng gia tiên.

 

3. TƯỞNG NHỚ GIA TIÊN DỊP TẾT NGUYÊN ĐÁN

Dịp tết Nguyên đán, trong những gia đình theo đúng tinh thần Việt nam, ẩn dưới những niềm vui rộn rã đầu xuân là cả một thực tại linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: cõi hữu hình và cõi vô hình đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên đã khuất như thể đang có mặt giữa con cháu một cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là nhờ các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự gia đình.
Các nghi lễ này mở đầu với giờ “cúng đón” (đón ông bà về ăn tết với con cháu) vào ngày 29 hoặc 30 tết, và kết thúc với giờ “cúng đưa” (tiễn chân ông bà) vào ngày mùng 3 hay mùng 4 tết (có nhà cúng đưa từ chiều mùng 2). Người công giáo biết rằng các linh hồn đã về với Thiên Chúa vẫn hiệp thông với các tín hữu ở trần gian thường xuyên chứ không riêng mấy ngày tết, cho nên không có chuyện đón ông bà về ăn tết và tiễn ông bà đi. Tuy nhiên thiết tưởng ngày nay cả nơi đại chúng người không có đạo, không mấy ai còn hiểu hai chữ đón đưa này theo nghĩa đen, nhưng hiểu theo một nghĩa tượng trưng sâu sắc, nhằm xác định một thái độ nội tâm và đánh dấu khoảng thời gian họ muốn dành để tưởng nhớ gia tiên một cách thật sâu đậm, khoảng thời gian họ muốn để cho tâm hồn lắng đọng trong niềm cảm mến biết ơn.

Trong khoảng thời gian ấy, bàn thờ gia tiên lúc nào cũng dìu dặt khói hương, mỗi ngày người ta cúng hai ba lần vào đúng giờ cả nhà quy định trước. Mỗi gia đình có một người trực ở nhà để giữ cho hương đèn được ấm cúng liên tục, và để lo nấu thức ăn, đúng giờ thì bày lên bàn thờ, thành tâm cầu nguyện. Người trực đóng vai đại diện gia đình, luôn ở trong tâm tình cung kính trước sự hiện diện của anh linh tiên tổ, để bày tỏ niềm biết ơn và tưởng nhớ. Ngày nay, cả người không có đạo cũng không mấy ai còn nghĩ ông bà tổ tiên cần “ăn tết”, nhưng người ta thấy rằng sự túc trực để bày tỏ lòng thành là điều cần thiết. Đó là một tâm tình rất thiêng liêng cao quý mà bầu khí của các lễ nghi gia tiên đã đem lại.

Khi đón nhận các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, người Công giáo nhằm đạt được phần tinh hoa, chứ không vụ vào những hình thức rườm rà. Tuy vậy, trong mức độ vừa phải, hình thức vẫn cần thiết. Để phục hưng và phát huy được bầu khí linh thiêng thuận lợi cho tình cảm và hạnh phúc gia đình, rất cần giữ lấy những hình thức diễn tả tối thiểu và chính yếu.

4. LỄ GIAO THỪA

Tối cuối năm, gia đình đoàn tụ  ăn bánh mứt  kể chuyện vui, giải trí chung với nhau, cùng thức đón giao thừa. Giây phút kết thúc một năm và bắt đầu năm mới là lúc thật ý nghĩa để ca tụng Thiên Chúa, Đấng làm chủ thời gian và lịch sử. Khí xuân mới mẻ cũng gợi cho ta nhớ đến công trình sáng tạo của Thiên Chúa đã bắt đầu từ lúc khởi nguyên. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho một năm mới đang khởi sự. Sau khi cầu nguyện chúc tụng, mọi người chúc tuổi nhau rồi đi ngủ.
Cũng có thể thu xếp đi ngủ sớm, khuya gọi nhau dậy cầu nguyện, mừng năm mới rồi ăn lót lòng, nói chuyện chia sẻ tâm tình.
Lễ giao thừa không phải là lễ gia tiên. Lễ gia tiên đã được thực hiện vào lúc “tiên thừa”, tức là lúc đầu hôm đêm cuối năm. Tuần hương thắp lúc giao thừa là để kính thờ Đấng Tạo Hoá và cầu nguyện với Ngài.
Có thể thức đón giao thừa ở nhà ông bà, nhưng thường thì nên cử hành lễ giao thừa ở gia đình nhỏ.

Lời nguyện giao thừa:
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật. Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm mới dồi dào phúc lộc, và lòng đầy hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh thánh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.

5. LỄ MINH NIÊN

Sự sum họp gia đình buổi sáng đầu năm rất quý giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người về nhà ngay, cùng nhau cử hành lễ gia tiên. Sau lễ gia tiên, các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha mẹ, mọi người mừng tuổi nhau.
Cần lưu ý: Nên tế nhị tôn trọng sự thân mật của các gia đình khác, đừng vội đến nhà người khác ngay sáng sớm mùng một Tết.

6. LỄ BỔN MẠNG MỘT NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH

Trước ngày lễ, người có tên thánh bổn mạng nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Kinh tối, theo chương trình trong tuần (nên hỏi linh mục về lời nguyện ngày lễ, chép sẵn từ trước). Nhớ nhắc con thiêng liêng dọn mừng lễ bổn mạng. Hôm lễ, nên mời các con thiêng liêng dùng cơm.

7. GIÁP NĂM NGÀY RỬA TỘI

Trước ngày lễ, người có lễ kỷ niệm nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Kinh tối, theo chương trình trong tuần, với lời nguyện sau đây.

Kinh giáp năm ngày rửa tội:
Lạy Chúa Giê-su, hôm nay ngày giáp (mấy) năm con được rửa tội. Con cám ơn Chúa đã nhận con vào sống trong tình thân nghĩa với Chúa. Con xin cảm tạ Chúa đã chịu khổ hình, chịu chết và sống lại để cho con được ơn ấy. Con xin cảm tạ Chúa, vì từ đó đến nay, Chúa đã liên lỉ khích lệ con, cũng như Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa đã bảo vệ con.
Hôm nay con lại bắt đầu một năm, một năm mới trong đời ki-tô-hữu của con. Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con trong những ngày tháng sắp tới biết sống trong tình thân mật với Chúa nhiều hơn.
Ước gì mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của con đều được ghi dấu ơn rửa tội, và ước gì con tỏ ra xứng đáng với ơn được làm môn đệ Chúa.
Cách riêng, con cầu xin cho cha mẹ con, vú bõ con, vị linh mục đã rửa tội cho con, cũng như cho tất cả mọi người đã giúp con nhận biết và yêu mến Chúa hơn.
Xin Chúa soi sáng cho tất cả những người mà năm nay Chúa sẽ cho con gặp gỡ, để họ dạy con luôn biết sống trong tình thân mật với Chúa. Amen.

8. THÔI NÔI HOẶC SINH NHẬT

Giờ kinh tối, theo chương trình trong tuần, với lời nguyện sau đây:

Lời nguyện dịp thôi nôi:
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã âu yếm đón nhận các trẻ em và chúc lành cho chúng. Hôm nay là ngày đầy tuổi của cháu T... Chúng con xin dâng cháu cho Chúa. Xin hãy chúc lành cho cháu và gìn giữ cháu trong tình thương của Chúa, để cháu mau khôn chóng lớn, đem lại niềm vui cho mọi người. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời nguyện dịp sinh nhật:
Lạy Chúa Giê-su, xưa ở Na-da-rét, Chúa càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức. Xin cho chúng con biết cố gắng để không ngừng lớn lên trong ơn thánh và biết dùng cả cuộc đời để phục vụ vinh danh Chúa Cha. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

9. NGHI THỨC LỄ CƯỚI Ở GIA ĐÌNH

Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau thánh lễ hôn phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức mừng lễ thành hôn. Nghi lễ vu quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi lễ thành hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.

10. Nghi thỨC lễ vu quy

Vị chủ hôn bên nam, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại ngoài cổng. Chú rể vào báo cho  nhà gái ra đón mời vào. Nghi thức diễn tiến như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ gia tiên và cầu nguyện tạ ơn.
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ cô dâu và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6. Cuối giờ, chủ hôn xin nhà trai đón dâu, nhà gái đáp lời.

11. Nghi thỨC LỄ THÀNH HÔN

Đoàn đưa dâu về đến nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ đón con dâu vào phòng nghỉ một lát rồi ra lễ gia tiên. Nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ gia tiên và cầu nguyện tạ ơn (xin xem ở dưới dây).
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5. Cuối giờ, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.

LỄ GIA TIÊN VÀ CẦU NGUYỆN TẠ ƠN:
Bàn thờ gia tiên đơn giản, trong sáng, có bày hoa quả, thắp sẵn hương và đèn. Cáo gia tiên bên nào thì vị chủ hôn bên đó đưa cô dâu chú rể tới trước bàn thờ. Diễn tiến như sau:

1. Vị chủ hôn nói đại ý:
Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc gia đình anh chị X...) sinh hạ được người con gái (hoặc người con trai) là... và đã giáo dục cháu nên người. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu T... Chúng con xin đưa hai cháu đến  trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ và họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý Thiên Chúa.

2. Cô dâu chú rể niệm hương:
(Một người đốt hương và đưa cho cô dâu, chú rể, cả hai cùng vái 4 vái).

3. Cô dâu chú rể thắp nến
(Có thể dùng hai cây nến nhỏ cùng thắp vào một cây nến lớn).

4. Vị chủ hôn dẫn vào kinh Lạy Cha:
Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới.
       (Xướng kinh): “Lạy Cha chúng con...”

5. Đọc lời Chúa:
Gio-an 2,1-11 hoặc Ê-phê-xô 5,21-33.

6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, cho mỗi người trong gia đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước thành rượu. Ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương nhỏ bé giới hạn của chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi người. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
7. Kết thúc: hát kinh hoà bình hoặc một bài khác.

12. GIÁP NĂM NGÀY CƯỚI

Trước ngày kỷ niệm, vợ chồng nên tĩnh tâm vài giờ, ôn lại tình thương Chúa và kiểm điểm đời sống để tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình. Ngày kỷ niệm, vợ chồng, con cái cùng đi dự lễ. Ở nhà, trong bữa ăn kỷ niệm, nên nhắc đến niềm vui này. Những dịp khác trong năm có thể mang những hình thức đơn giản, nhưng hôm nay phải là đại lễ của gia đình. Nếu có điều kiện, cũng nên rủ vài đôi bạn thân thiết cùng dự bữa ăn và chia sẻ kinh nghiệm. Kinh tối, theo chương trình trong tuần, với lời nguyện sau đây:
Lạy Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, ngay từ thuở ban đầu, Chúa đã dựng nên người nam và người nữ để kết duyên thành bạn trăm năm. Xin rộng ban phúc lành và củng cố đời sống hôn nhân của chúng con là tôi tớ Chúa, để càng ngày chúng con càng trở nên hình ảnh trung thực của sự kết hợp giữa Đức Ki-tô và Hội thánh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.

 

13. LỄ AN TÁNG

1. Trong lễ an táng cũng như mọi dịp cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Hội thánh cử hành mầu nhiệm phục sinh, vững tin rằng những người đã tin vào Chúa Ki-tô và đã chịu phép Rửa Tội để nên chi thể Ngài, sẽ được cùng Ngài vượt qua sự chết mà đến sự sống. Vì thế, mọi lời dẫn giải, lời ca, lời kinh trong các dịp ấy phải diễn tả được niềm hy vọng vào đời sống vĩnh cửu. Trong tinh thần đức tin ấy, thân nhân của người mới qua đời cũng cần tỏ ra can đảm, bình an, tránh khóc lóc ai oán.

2. Người công giáo đón nhận tất cả những gì là tốt đẹp trong truyền thống dân tộc về việc tôn kính ông bà tổ tiên cũng như về việc mai táng, nhưng dứt khoát loại bỏ những chi tiết trái nghịch với giáo lý Tin Mừng, như coi ngày giờ, coi hướng, rải giấy vàng bạc, vẽ bùa, đập chén bát khi động quan, vv... (1)

3. Tang phục: Nên có một dấu hiệu nào đó để nói lên tâm tình đau buồn thương tiếc tự nhiên của ta, nhưng không nên để nó che mờ nỗi vui mừng lớn lao đích thực của người con vừa được gọi về nhà Cha và niềm hy vọng mãnh liệt của ta một ngày kia sẽ gặp lại người ấy trong hạnh phúc quê trời. Tránh những tang phục rườm rà gây cảm tưởng mình hoàn toàn mất mát, thất vọng ê chề và những gì không rõ ý nghĩa (áo sổ gấu, vạt trước, vạt sau, mũ rơm, gậy...). Tốt hơn nên dùng những dấu hiệu giản dị như một băng tay đen hoặc trắng, một mẩu vải, một cái nơ hoặc hoa vải đen, tím hay trắng đính trước ngực chẳng hạn.

4. Mọi cách diễn tả trong tang lễ cũng như trong việc thờ kính tổ tiên phải có ý nghĩa rõ ràng chính xác, hợp với đức tin và tình yêu thương. Làm một hành vi, ta phải hiểu ý nghĩa của hành vi đó. Ví dụ, việc rảy nước thánh và vái kính thi hài phải được hiểu đúng:
- Rảy nước thánh trên thi hài là để nhớ rằng nhờ nước rửa tội, người tín hữu đã được ghi tên vào số những người được sống đời đời.
- Thắp nhang đèn, vái kính trước thi hài tín hữu là vì thân xác ấy đáng tôn trọng: lúc còn sống, thân xác ấy đã là đền thờ Chúa Thánh Thần, và giờ đây đang đợi ngày sống lại.

5. Trong việc cầu nguyện cho người quá cố, lúc quan trọng nhất là lúc đọc các bài Lời Chúa. Nên chọn đoạn Kinh thánh cho thích hợp. Có thể dựa vào những đoạn Kinh thánh in sẵn ở cuối Kinh nguyện gia đình để chọn.
6. Người chủ sự các lễ nghi an táng có nhiệm vụ làm phấn khởi lòng trông cậy của thân nhân người quá cố, cũng như hun đúc lòng tin của mọi người đang hiện diện, nhưng phải liệu sao để không làm phật lòng những người đang buồn phiền. Cung giọng của chủ sự cần chậm rãi, rõ ràng, sốt sắng. Nhớ dọn trước để tránh vấp váp.

14. LỄ GIỖ

Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin Chúa sớm giải thoát những người đang phải ở luyện ngục (thường đối với những người mới qua đời, ta hướng tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời rất lâu năm, ta có thể tin vào lòng Chúa nhân từ mà dâng lời cảm tạ). Ngay cả những vị đã chết mà không chịu phép Rửa Tội, ta vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Chúa Ki-tô và nhờ Chúa Ki-tô.
Giờ kinh tối sẽ theo ngày trong tuần, với lời nguyện lễ giỗ dưới đây. Nếu là cầu hồn, thì theo mẫu canh thức cầu nguyện cho tín hữu trưởng thành đã qua đời.
Cũng đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã chết về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn.
Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc, cho nên từ chương trình cho đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong tình hiệp nhất thân mật. Do đó, nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi người trong gia tộc.
Trước bữa ăn, nên cử hành cúng lễ gia tiên. Có thể linh động thêm các lời nguyện sau đây:

Lời nguyện lễ giỗ:
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương nhìn đến những linh hồn đã qua đời, đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.

Lời nguyện báo hiếu:
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.
 
 
Hôn nhân và gia đình là một ơn gọi thật sự phát xuất từ Thiên Chúa, là một việc tông đồ thật sự: tông đồ giáo dân. Hôn nhân và gia đình là để biến đổi trái đất và canh tân thế giới cũng như canh tân toàn thể nhân loại.
Các gia đình thân mến, hãy luôn sẵn sàng làm chứng về niềm hy vọng đang ấp ủ trong lòng mình (x. 1Pr 3,15)... Đừng sợ những hiểm nguy! Sức mạnh của Thiên Chúa còn lớn hơn những khó khăn ấy rất nhiều.
(Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II,
Thư gửi các gia đình công giáo trên toàn thế giới
nhân dịp năm quốc tế gia đình 1994, số 18)
 

Thưa anh chị,
Trong tông huấn về gia đình, Đức Giáo hoàng viết: “Tương lai của Hội thánh đi ngang qua các gia đình”.Lời ấy muốn nói rằng: “Tương lai của Hội thánh đi ngang qua gia đình anh chị”. Sự thành công hoặc thất bại của gia đình anh chị góp phần quan trọng cho sự thành công hoặc thất bại của chính Hội thánh.
Tập Giáo lý hôn nhân này nhằm giúp cho gia đình anh chị được thành công trong việc xây dựng hạnh phúc cho mình và chiếu toả vẻ đẹp của Hội thánh. Hy vọng tập tài liệu này giúp anh chị xác tín rằng Hôn nhân là một ơn gọi: ơn gọi nên thánh, ơn gọi đem hạnh phúc cho nhau, ơn gọi xây dựng một xã hội chân thật và yêu thương, và cũng là ơn gọi xây dựng Hội thánh. Ơn gọi ấy mở ra như con đường trước mắt. Mến chúc anh chị can đảm lên đường.
Anh chị sẽ không cô đơn. Bởi vì tương lai của Hội thánh gắn liền với tương lai hạnh phúc của gia đình anh chị, cho nên Hội thánh luôn quan tâm đồng hành với gia đình anh chị. Hội thánh ấy trước hết là cha mẹ và họ hàng đôi bên. Hội thánh ấy là cộng đoàn giáo xứ thân thương gần gũi. Hội thánh ấy còn gồm cả những anh chị em và những chủ chăn ở xa, hơn nữa, còn gồm cả những người đã ra đi trước chúng ta, cả Đức Mẹ và các vị thánh khác, và trên hết còn có Đức Ki-tô là Đầu của Nhiệm thể.
Ở đầu Cựu ước, Thiên Chúa đã đồng hành với Hôn nhân và gia đình khi hứa ban Đấng Cứu thế cho đôi bạn đầu tiên. Ở đầu Tân ước, Chúa Ki-tô đã đồng hành với Hôn nhân và gia đình khi bước vào lời giao ước của Giu-se và Ma-ri-a, khi bước vào tiệc cưới Ca-na.  Cùng với thân mình Ngài là Hội thánh, Đức Ki-tô là Đầu luôn muốn được đồng hành với anh chị và dẫn đưa gia đình bé nhỏ của anh chị đến bến bờ hạnh phúc.
Anh  chị hãy can đảm và quảng  đại  tiến bước với Ngài.
Thân mến.
 
PhỤ LỤC

LỜI KINH CỦA ĐÔI BẠN SẮP CƯỚI

Lạy Chúa Giê-su, để dạy chúng con yêu nhau, Chúa đã trở thành một người như chúng con, trong lòng một người nữ đã đính hôn, rất trong sạch, là Đức Mẹ Ma-ri-a. Chúa cũng đã phán: “Chúng con hãy nên một như Cha và Ta là một”. Nay Chúa đã muốn cho T... (tên của bạn mình) và con sống cùng một đời sống trong Chúa, như hai cành của một cây nho, mà Chúa quan phòng đã cho sống gần nhau.
Chớ chi tình yêu giữa chúng con, do Chúa nối kết, sẽ thực hiện sự hiệp nhất hoàn toàn, chẳng những giữa trái tim chúng con, mà còn giữa tâm hồn chúng con nữa. Chớ chi tình yêu đó mỗi ngày một lớn lên, đồng thời tăng thêm sự sống Chúa nơi chúng con.
Xin Chúa giúp T... và con, để chúng con đưa về cho tổ ấm gia đình  nhiều vẻ đẹp, nhiều sức khoẻ, nhiều nghị lực, nhiều ơn thánh, nhiều lý tưởng, để tổ ấm chúng con trở nên hình ảnh của thế giới, mà Chúa muốn chúng con xây dựng nên.
Xin cho gia đình chúng con biết cống hiến cho xã hội những công dân tốt, cho Hội thánh và Chúa những linh mục, tu sĩ, hay những tông đồ giáo dân.
Xin giúp chúng con ý thức rằng: chính qua chúng con, mà Nước Chúa trị đến, dưới đất cũng như trên trời.
Xin Chúa chấp nhận những lời chúng con đã hứa và trong những ngày sắp tới, nhờ Chúa chúc lành, chúng con sẽ dâng hiến cho nhau tất cả và mãi mãi. Amen.
 
 Gp. NT