Tác phẩm ƠN TRỞ VỀ: Những cuộc trở về/Phần I - Trở về mái nhà xưa


TMĐP- Nhờ tin ở mình, tin ở cha, tin ở lòng bao dung, thương xót mà đường về tràn ngập ơn cứu sống. Nhờ mạnh dạn lên đường và được ơn trở về.
Quả thực, ơn cứu sống đã ngập tràn và phủ kín đời anh, khi cha đưa anh vào thinh lặng của tình yêu cứu rỗi. Trong thinh lặng này, anh đã không nói được gì, không kịp thốt lên  những “lời vàng ngọc” mà anh đã chuẩn bị để thưa với cha. Tình yêu vĩ đại của cha đã “mặc cho anh áo đẹp nhất”. Tình thương nhân hậu của cha đã ” xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân anh “.Tình cha thương cảm luôn xót xa khốn quẫn, bất hạnh của con đã “sai gia nhân bắt con bê béo làm thịt để ăn mừng” (Lc 15,22-23). Tình cha luôn chạnh lòng đã “ôm cổ anh mà hôn lấy hôn để” (Lc 15,21). Tình cha đời đời bất diệt đã phục sinh anh, vì “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24).

Người ta có thể trách người cha đã quá nhân hậu đến ngớ ngẩn, ngu ngơ, khi chẳng cứng rắn lên một chút để dậy thằng con hoang đàng một bài học trước khi cho nó vào lại nhà. Dù sao cũng phải cho nó biết: thế nào là hậu qủa của sa đoạ và cái giá phải trả cho đời sống phóng đãng vô độ. Nhưng tình yêu ở người cha xem ra qúa mãnh liệt đã làm mờ mắt ông để  không còn nhận ra đứa con mới trở về đã một thời ngang ngược, phung phá.

Người ta cũng chê ông thiếu công bình khi xả láng với đứa con hoang đàng và keo kiệt với con cả hiếu thảo không rời cha nửa bước, không vắng nhà  một đêm. Thực ra, ông không khó khăn gì với con cả, vì ông nghĩ: “Tất cả những gì của cha là của con” (Lc 15, 31) nên không  quan tâm đến chuyện chia chác, xin- cho. Thế nhưng, con trai lớn của ông đã không hiểu tấm lòng quảng đại và yêu thương vô bờ bến của cha. Chính vì không hiểu, anh  đã cự nự, phân bì, bực tức, trách móc cha mình (x. Lc 15,29-30).

Có nhiều người đặt vấn đề công bằng trong tình yêu khi cho rằng tình yêu phải theo khuôn khổ của công lý và không được phép tự do phá rào, vượt tuyến.Với lý giải này, người ta không đồng ý với cách giải quyết của người cha đối với con thứ hoang đàng, bởi ông đã xí xoá vô điều kiện mọi lỗi lầm, bỏ qua không đền trả mọi bất công, trắng án không lưu trữ một dấu vết tội ác. Ông đã hành sử như người thiếu hiểu biết luật lệ, thiếu kiến thức xã hội, thiếu khả năng phán đoán, thiếu nghị lực quyết định. Và những người  này đến nay vẫn khư khư một lập trường: phê bình thái độ nhu nhược và thiếu công bình của ông.

Nhưng có ai hiểu con ông hơn ông, có ai thương con ông như ông, có ai xót xa bất hạnh của con ông bằng ông, vì ông muốn luôn là số một trong tình yêu đối với con, muốn trở thành người cha yêu thương hơn bất cứ ai trên cõi đời này để con ông được là người con hạnh phúc của người cha vô cùng đại lượng, bao dung, nhân từ, thương xót.

Sau bao năm tháng lưu lạc nay con ông trở về. Ông không nhìn con như tội phạm, kẻ hết thời, đứa vô tích sự, nhưng nôn nao ngóng con,  hân hoan đón con, âu yếm hôn con,  ân cần chăm sóc con, rộn ràng mở tiệc mừng con trở về, vừa tìm thấy, mới sống lại. Ông không cần tiền của, không cần danh dự, cũng chẳng thiết tha gì quyền lực. Điều ông khao khát đi tìm bấy lâu chính là con trai ông đã mất. Thế nên khi tìm được con, ông vui khôn tả và mở tiệc linh đình, hoành tráng mừng  con trở về.

Khi mở tiệc khoản đãi dân làng, người cha không chỉ muốn mọi người cùng chung với ông niềm vui “con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32), mà còn tỏ cho thân tộc, xóm diềng biết: con tôi vẫn mãi là con tôi và đời đời tôi vẫn một lòng yêu thương nó. Bởi có nhiều  tiếng xầm xì về cậu, nhiều lời dèm pha, thĩa bãi, không chỉ hôm nay khi cậu về, mà ngay từ lúc cậu bỏ nhà đi hoang. Có người bắn tiếng nhắc ông “nên từ cậu con phung phá, điếm đàng, bởi giữ làm gì cái hạng trác táng, biếng lười, vô tích sự ấy!”. Cũng có kẻ thối mồm tung tin: “thằng út trở về vì tiêu xài sạch túi, để rồi xem, chỉ vài hôm nữa lại tếch đi với vali đầy bạc. Thật không ai dại hơn ông già này. Thương quá hoá đần đến sợ!”.

Thực ra, ông không đần, không lú lẫn, cũng chẳng bất công với ai. Ông chỉ thương bằng tình thương bao la, vô bờ bến, nên việc ông làm đã vượt xa tầm hiểu biết bình thường, có giới hạn, có quy định của người thường trong đời thường. Chẳng thế mà tình yêu con trong ông trở thành tình bất tử, tình bất diệt, tình không biên giới, tình thần thánh. Với ông, hạnh phúc của con là ưu tiên một, nên ông khao khát và tận lực làm tất cả những gì mang lại hạnh phúc cho con ông, dù đó là những việc  bị người đời coi là lố bịch, lập dị, phi lý, bất công, gàn dở, kỳ cục. Trong tình thương con, xem ra ông bất chấp tất cả. Bằng cớ là ông tự quyết định, không bàn soạn, không tham khảo, không tư vấn. Ông hành xử hoàn toàn tự do trong tình yêu, vì tình yêu là ông, khi ông muốn con ông được đầy tràn hạnh phúc. Tình cha đã làm hàng loạt phép lạ lớn lao, những phép lạ vĩ đại, cải tử hoàn sinh mà chỉ duy nhất tình yêu mới thực hiện được. Ông đã làm phép lạ cho con ông từ người nô lệ trở thành nghiã tử; làm phép lạ biến cuộc đời rách bươmn, tơi tả  thành đời lành lặn, đáng sống; làm phép lạ xoá tan mặc cảm tội lỗi để thành người diễm phúc; làm phép lạ xua đi  nỗi bất hạnh đói khát, tủi nhục, lưu lạc, bị bạc đãi để nhận lại quyền làm con của “danh gia vọng tộc”; làm phép lạ xua đuổi căm phẫn thân phận, uất ức tha nhân, thù hận cuộc đời để trả lại hạnh phúc được làm người, niềm vui sống với mọi người; đặc biệt tình phụ tử cao vời đã làm phép lạ hoà giải giữa tội nhân và Thiên Chúa, giữa đứa con bất hiếu với cha già thương yêu, giữa em út ăn chơi, bừa bãi và anh hai nghiêm túc, chỉn chu.

Thực vậy, tình yêu có khả năng làm nhiều điều lạ, nhiều phép lạ, vì tình yêu là Thiên Chúa: trong Thiên Chúa tình yêu, con người được đổi mới lạ lùng, được thăng tiến kỳ lạ, được nhiệm lạ cứu rỗi. Vì thế, khi kết án người cha ngu xuẩn, bất công, khờ khạo, ngây thơ, nhẹ dạ khi yêu con mù qúang, thương con không bến bờ, tha thứ tội con vô điều kiện, ban tặng hào sảng cho con ơn phúc, vinh dự, người ta đã tự  nhận trái tim mình bé nhỏ, chật hẹp, cửa lòng mình khép kín, tâm hồn mình co cụm; đồng thời tự nói lên những yếu kém, tầm thường, nghèo nàn  đáng thương của mình trước mênh mông vô hạn, cao vời khôn ví của tình yêu, mà chỉ những trái tim rực lửa yêu, những tâm hồn sôi sục nhiệt tình mới cảm nghiệm được bao la, vĩ đại.

Quả thực, đường về của cậu út hôm nay rực nắng tin yêu, dù bên ngoài bầu trời giăng kín mây mù và sỏi đá sắc cạnh cứa nát đôi bàn chân. Nhờ tin ở mình, tin ở cha, tin ở lòng bao dung, thương xót mà đường về hôm nay tràn ngập ơn cứu sống. Nhờ mạnh dạn lên đường, dù đường dài, vất vả, chàng đã nhận được ơn trở về trên đường về.

Phải rồi, nếu thiếu tự tin, chàng sẽ không tin cha. Nếu không thương mình, chàng sẽ không hiểu được tình cha. Rất may, với chút nắng tin yêu còn sót trong tim, chàng đã tìm về để nhận được ơn tha thứ, ơn hoà giải, ơn trở về khi theo nắng dứng dậy, ra khỏi đêm đen.
Jorathe Nắng Tím (tinmungduongpho.com)