Văn kiện kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục


Văn kiện kết thúc

Thượng Hội Đồng Giám Mục

NGƯỜI TRẺ, ĐỨC TIN

SỰ PHÂN ĐỊNH ƠN GỌI

***

MỤC LỤC

DẪN NHẬP (số 1-3)
LỜI NÓI ĐẦU (số 4)
PHẦN I: “NGƯỜI CÙNG ĐI VỚI HỌ”
Chương I: Một Giáo Hội biết lắng nghe
Nghe và nhìn với lòng thấu cảm (số 6-9)
Những bối cảnh và văn hóa đa dạng (số 10-14)
Một cái nhìn sơ khởi về Giáo Hội ngày nay (số 15-20)
Chương II: Ba khía cạnh quan trọng
Những điều mới lạ trong thế giới kỹ thuật số (số 21-24)
Di dân như mô thức của thời đại chúng ta (số 25-28)
Nhìn nhận và chống lại mọi loại lạm dụng (số 29-31)
Chương III: Căn tính và các mối quan hệ
Gia đình và tương quan giữa các thế hệ (số 32-36)
Thân xác và đời sống tình cảm (số 37-39)
Những tình trạng bấp bênh (số 40-44)
Chương IV: Là người trẻ hôm nay
Những đặc điểm của văn hóa giới trẻ hôm nay (số 45-47)
Đời sống tâm linh và đời sống tôn giáo (số 48-51)
Tham gia và vai trò chính (số 52-57)
PHẦN II: “MẮt hỌ mỞ ra”
Một lễ Ngũ tuần mới (số 59-62)
Chương I: Hồng ân tuổi trẻ
Đức Giêsu trẻ ở giữa người trẻ (số 63-67)
Trở nên trưởng thành (số 68-72)
Được kêu gọi sống tự do (số 73-76)
Chương II: Mầu nhiệm ơn gọi
Tìm hiểu ơn gọi (số 77-80)
Ơn gọi bước theo Chúa Giêsu (số 81-83)
Ơn gọi và các ơn gọi (số 84-90)
Chương III: Sứ vụ đồng hành
Giáo Hội đồng hành (số 91-94)
Đồng hành với cộng đoàn, nhóm và cá nhân (số 95-100)
Người đồng hành giỏi (số 101-103)
Chương IV: Nghệ thuật phân định
Giáo Hội, môi trường để phân định (số 104-105)
Lương tâm trong phân định (số 106-109)
Thực hành phân định (110-113)
PHẦN III: “HỌ LẬP TỨC LÊN ĐƯỜNG”
Một Giáo Hội tươi trẻ (số 115-118)
Chương I: Sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội trong sứ vụ truyền giáo
Một tác vụ căn bản (số 119-124)
Một phong cách truyền giáo (số 125-127)
Chương II: Cùng sánh bước trong đời sống thường ngày
Từ cơ cấu đến tương quan (số 128-130)
Đời sống cộng đồng (số 131-137)
Mục vụ giới trẻ dưới lăng kính ơn gọi (138-143)
Chương III: Một nhiệt tâm truyền giáo mới (số 144-156)
Chương IV: Huấn luyện toàn diện (số 157-164)
Kết luận (số 165-167)

DẪN NHẬP

Sự kiện Thượng hội đồng mà chúng tôi đã trải qua
1. “Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng” (Cv 2,17; x. Ge 3,1). Đó chính là kinh nghiệm mà chúng tôi đã sống trong Thượng hội đồng này, khi cùng nhau tiến bước và lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Người đã làm chúng tôi ngạc nhiên với những ơn ban dồi dào, Người đã tuôn đổ dũng khí và sức mạnh vào lòng chúng tôi, hầu chúng tôi đem hy vọng cho thế giới.
Chúng tôi cùng nhau bước đi với đấng kế vị thánh Phêrô. Ngài đã củng cố đức tin chúng tôi và làm chúng tôi thêm hăng hái cho công cuộc truyền giáo. Dù đến từ những bối cảnh văn hoá và Giáo Hội rất khác nhau, ngay từ đầu, chúng tôi đã cảm thấy giữa chúng tôi có một trạng thái hoà hợp thiêng liêng, một ước muốn đối thoại và một lòng đồng cảm thực sự. Chúng tôi đã cùng nhau làm việc, góp chung những điều chúng tôi tha thiết nhất, chia sẻ cho nhau những mối ưu tư và không hề che giấu những khó khăn mà chúng tôi gặp phải. Rất nhiều bài tham luận đã làm chúng tôi xúc động và gợi lên nơi chúng tôi lòng thương cảm như trong Tin Mừng: chúng tôi cảm thấy chúng tôi chỉ là một thân thể duy nhất, vừa đau khổ vừa vui mừng. Chúng tôi muốn chia sẻ với mọi người kinh nghiệm ân sủng mà chúng tôi đã sống, đồng thời chúng tôi muốn thông truyền niềm vui của Tin Mừng cho tất cả các Giáo Hội chúng ta và cho toàn thế giới.
Sự hiện diện của giới trẻ là một điều mới lạ: nhờ họ mà tiếng nói của cả một thế hệ được vang lên trong Thượng hội đồng. Khi cùng họ hành hương viếng mộ thánh Phêrô, chúng tôi được trải nghiệm thế nào là gần gũi, chính tình cảm này tạo điều kiện để Giáo Hội trở thành nơi đối thoại và nơi làm chứng về tình huynh đệ, một chứng tá vô cùng lôi cuốn. Cảm nghiệm gần gũi ấy mạnh hơn cả cảm giác yếu mệt nơi chúng tôi. Chúa Giêsu tiếp tục nhắc chúng tôi: “Đừng sợ, Thầy ở cùng các con”.
Quá trình chuẩn bị
2. Những đóng góp của các giám mục đoàn và sự góp ý của các mục tử, tu sĩ, giáo dân, chuyên gia, nhà giáo dục và nhiều người khác nữa đã giúp chúng tôi rất nhiều. Ngay từ đầu, giới trẻ đã tham gia tích cực vào tiến trình của Thượng hội đồng: Bảng câu hỏi trực tuyến, nhiều góp ý cá nhân và nhất là Phiên họp tiền Thượng hội đồng là dấu chứng hùng hồn. Phần góp ý của họ là chủ yếu, như trong trình thuật về năm chiếc bánh và hai con cá: Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ là nhờ một cậu bé đã quảng đại sẵn sàng dâng những gì mình có (x. Ga 6,8-11). Tất cả những đóng góp này đã được tóm lược trong tài liệu Instrumentum laboris, tạo thành cơ sở vững chắc để thảo luận trong các tuần lễ Đại hội. Giờ đây, Văn kiện kết thúc tập hợp kết quả của tiến trình ấy để góp phần cho tương lai: tài liệu này nói lên những gì các Nghị phụ đã nhận ra, giải thích và chọn lựa dưới ánh sáng Lời Chúa.
Văn kiện kết thúc của Thượng hội đồng
3. Cần làm rõ mối tương quan giữa tài liệu Instrumentum laborisVăn kiện kết thúc. Tài liệu thứ nhất là khung tham chiếu thống nhất và tổng hợp, được soạn thảo sau hai năm lắng nghe. Tài liệu thứ hai là thành quả của tiến trình phân định, và tài liệu này tập hợp các chủ đề đã được các Nghị phụ miệt mài và hăng say nghiên cứu cách đặc biệt. Do đó, chúng tôi nhìn nhận hai văn bản này vừa khác biệt vừa bổ sung cho nhau.
Văn kiện kết thúc được đệ trình lên Đức Thánh Cha (x. Đức Phanxicô, Episcopalis communio, số 18; Chỉ thị, điều 35 § 5) và toàn thể Giáo Hội như thành quả của Thượng hội đồng. Vì tiến trình làm việc của Thượng hội đồng này chưa kết thúc và dự kiến phải có một giai đoạn để triển khai (x. Episcopalis communio, số 19-21), Văn kiện kết thúc là một phương án định hướng cho các bước tiếp theo mà Giáo Hội được mời gọi thực hiện.
* Trong Văn kiện này, tùy trường hợp, thuật ngữ “Thượng hội đồng” dùng để chỉ toàn bộ tiến trình của Thượng hội đồng đang diễn ra hoặc để chỉ Đại hội đã diễn ra từ ngày 3 đến 28 tháng 10 năm 2018.

LỜI NÓI ĐẦU

Chúa Giêsu đồng hành với hai môn đệ Emmau
4. Trình thuật về hai môn đệ Emmau (x. Lc 24,13-35) là một bản văn điển hình để hiểu về sứ vụ của Giáo Hội đối với các thế hệ trẻ. Trang Tin Mừng này diễn tả rõ những gì chúng tôi đã trải nghiệm tại Thượng hội đồng và những gì chúng tôi mong các Giáo Hội địa phương có thể sống với giới trẻ. Chúa Giêsu cùng đi với hai môn đệ, hai ông không hiểu ý nghĩa của những gì đã xảy ra và đang đi xa khỏi Giêrusalem và cộng đồng. Để bầu bạn với họ, Chúa Giêsu đã cùng đi với họ trên đường. Người hỏi họ và kiên nhẫn nghe cách họ kể lại các sự việc, hầu giúp họ nhận ra những gì họ đang sống. Rồi với giọng đầy yêu thương và quả quyết, Người loan truyền Lời Chúa cho họ, giúp họ hiểu ra dưới ánh sáng Lời Chúa ý nghĩa của các biến cố họ đã trải qua. Người nhận lời mời dừng chân với họ lúc ngày đã tàn: Người bước vào trong đêm tối của họ. Khi lắng nghe Người, họ cảm thấy lòng ấm lên và trí sáng ra; khi Người bẻ bánh, mắt họ mở ra. Chính họ chọn đi trở lại lập tức con đường vừa đi, để về với cộng đồng và chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
Tiếp nối tài liệu Instrumentum laboris, Văn kiện kết thúc này được chia thành ba phần, tương ứng với trình thuật trên. Phần thứ nhất, với tựa đề “Người cùng đi với họ” (Lc 24,15), cố gắng làm sáng tỏ những gì các Nghị phụ đã nhận ra về bối cảnh mà giới trẻ đang sống, đồng thời nêu lên những điểm mạnh và những thách đố trong đó. Phần thứ hai, “Mắt họ mở ra” (Lc 24,31), giải thích ý nghĩa và cung cấp một số chỉ dẫn mấu chốt để giúp đọc chủ đề của Thượng hội đồng. Phần thứ ba, với tựa đề “Họ lập tức lên đường” (Lc 24,33), trình bày các chọn lựa nhằm hoán cải về mặt thiêng liêng, mục vụ và truyền giáo.

PHẦN I

“NGƯỜI CÙNG ĐI VỚI HỌ”

5. “Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ vừa đi vừa trò chuyện với nhau về mọi chuyện vừa xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán với nhau, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ” (Lc 24,13-15).
Trong đoạn văn này, thánh sử ghi lại hình ảnh của hai lữ khách đang cần tìm ý nghĩa cho các biến cố họ vừa trải qua. Thánh sử lưu ý đến thái độ của Chúa Giêsu khi Người tiến đến cùng đi với họ. Đấng Phục Sinh mong muốn cùng đi với mỗi người trẻ để nghe ngóng những gì họ mong đợi, ngay cả những mong đợi không thể thỏa mãn, và những gì họ kỳ vọng, ngay cả những kỳ vọng không chính đáng. Chúa Giêsu tiến bước, lắng nghe, chia sẻ.

Chương I

Một Giáo Hội biết lắng nghe

Nghe và nhìn với lòng thấu cảm
Giá trị của lắng nghe
6. Lắng nghe là gặp gỡ trong tự do, lắng nghe đòi hỏi ta phải khiêm nhường, kiên nhẫn, sẵn sàng thông cảm và cương quyết trả lời cách mới mẻ. Ai lắng nghe sẽ thấy lòng mình biến đổi, nhất là khi người ấy lắng nghe với thái độ nội tâm là muốn hòa điệu và ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần. Vì vậy, lắng nghe không chỉ là thu thập thông tin, cũng không phải là một chiến lược nhằm đạt được mục tiêu, nhưng đó là cách đích thân Thiên Chúa bước vào trong tương quan với dân Người. Thật vậy, Thiên Chúa nhìn thấy tình trạng lầm than và nghe thấy tiếng khóc than của dân Người. Người đã động lòng và xuống giải thoát dân Người (Xh 3,7-8). Vì thế, khi lắng nghe, Giáo Hội bước vào chuyển động của Thiên Chúa, Đấng đến gặp mỗi con người trong Chúa Con.
Giới trẻ mong được lắng nghe
7. Giới trẻ được thường xuyên kêu gọi chọn lựa những định hướng cho cuộc đời mình. Họ bày tỏ mong muốn được lắng nghe, được nhìn nhận, được đồng hành. Rất nhiều người trẻ ý thức rằng tiếng nói của mình không được coi là đáng quan tâm hoặc hữu ích trong các môi trường xã hội và Giáo Hội. Trong một số hoàn cảnh, chẳng có ai mảy may quan tâm đến tiếng kêu của họ, đặc biệt là tiếng kêu của những người nghèo nhất và những người bị bóc lột, và không mấy người lớn tỏ ra sẵn sàng và có khả năng lắng nghe họ.
Lắng nghe trong Giáo Hội
8. Trong Giáo Hội, không thiếu những sáng kiến và kinh nghiệm vững chắc để giúp giới trẻ cảm thấy mình được đón nhận, được lắng nghe và có thể nói lên tiếng nói của mình. Tuy nhiên, Thượng hội đồng nhìn nhận không phải lúc nào cộng đồng Giáo Hội cũng biết bày tỏ thái độ mà Đấng Phục Sinh dành cho các môn đệ Emmau, trước khi soi sáng cho họ bằng Lời Chúa, Người đã hỏi họ: “Dọc đường, các anh bàn luận với nhau về chuyện gì thế ?” (Lc 24,17). Chúng ta thường có khuynh hướng đưa ra những câu trả lời có sẵn và đề nghị những cách thức nghĩ sẵn, mà không để người trẻ đặt ra những câu hỏi mới mẻ, và chúng ta cũng không thấy được các câu hỏi ấy thách thức chúng ta ở điểm nào.
Khi có lòng thấu cảm, lắng nghe có thể dẫn đến trao đổi ơn ban cho nhau. Lắng nghe cho phép người trẻ mang lại điều gì đó cho cộng đồng, vì lắng nghe giúp cộng đồng nhận ra những khuynh hướng mới và biết đặt ra cho mình những câu hỏi mới. Đồng thời, lắng nghe tạo điều kiện để việc loan báo Tin Mừng có thể thực sự chạm đến con tim cách thiết thực và phong phú.
Việc lắng nghe của những mục tử và những giáo dân có khả năng đồng hành
9. Lắng nghe là một thời điểm quan trọng đối với thừa tác vụ mục tử, và nhất là thừa tác vụ giám mục. Tuy nhiên, các vị này thường quá bận việc và khó tìm được thời gian cần thiết để dành cho công việc thiết yếu này. Nhiều vị đã nêu lên vấn đề thiếu người vừa có khả năng vừa có thời gian để đồng hành. Nếu chúng ta tin rằng lắng nghe có giá trị thần học và mục vụ, chúng ta phải xem lại và đổi mới những cách thực thi thừa tác vụ linh mục thường làm, và chúng ta cũng phải nhận định xem đâu là những ưu tiên của thừa tác vụ này. Hơn nữa, Thượng hội đồng nhìn nhận cần phải chuẩn bị cho người thánh hiến và cho cả giáo dân nam nữ để họ có khả năng đồng hành với người trẻ. Đặc sủng lắng nghe mà Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong các cộng đồng cũng có thể được thể chế công nhận cách nào đó như một việc phục vụ  của Giáo hội.
Những bối cảnh và văn hóa đa dạng
Một thế giới đa diện
10. Chính sự tham dự đông đảo của nhiều thành phần tại Thượng hội đồng đã cho thấy ở đây có sự hiện diện và đóng góp của nhiều vùng khác nhau trên thế giới, đồng thời cũng đã làm nổi bật vẻ đẹp của một Giáo Hội phổ quát. Bất chấp bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, các Nghị phụ đã yêu cầu làm rõ những khác biệt đa dạng giữa các bối cảnh và văn hóa, ngay cả trong cùng một quốc gia. Có vô số thế giới người trẻ, đến nỗi ở một số quốc gia người ta có khuynh hướng nói “những giới trẻ” hơn là “giới trẻ”. Hơn nữa, nhóm tuổi được Thượng hội đồng gọi là giới trẻ (16-29 tuổi) không đại diện cho một tổng thể đồng nhất, nhưng bao gồm nhiều nhóm có những hoàn cảnh riêng biệt.
Tất cả những khác biệt này có ảnh hưởng sâu xa trên kinh nghiệm cụ thể mà người trẻ sống; thật vậy, những khác biệt ấy liên quan đến: các giai đoạn của độ tuổi còn đang phát triển, các hình thức tôn giáo trải nghiệm, cơ cấu gia đình cùng tầm quan trọng của gia đình trong việc thông truyền đức tin, các tương quan giữa các thế hệ – như vai trò của người già cùng lòng tôn kính người già – các phương thức tham gia vào đời sống xã hội, thái độ đối với tương lai, vấn đề đại kết và liên tôn. Thượng hội đồng nhìn nhận và coi trọng sự phong phú của các nền văn hóa đa dạng, và bắt tay vào phục vụ cho sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
Những thay đổi đang diễn ra
11. Đặc biệt quan trọng là sự khác biệt về lực lượng giữa các quốc gia có tỷ lệ sinh đẻ cao, nơi số người trẻ chiếm một phần đáng kể và ngày càng tăng, và các quốc gia trong đó lực lượng trẻ đang giảm dần. Một khác biệt nữa xuất phát từ lịch sử: các quốc gia và lục địa có truyền thống Kitô giáo cổ xưa, có nền văn hóa lâu đời cần bảo tồn, thì khác với các quốc gia và lục địa được đặc trưng bởi các truyền thống tôn giáo khác, nơi mà người Kitô hữu là thiểu số và đôi khi chỉ mới hiện diện gần đây thôi. Ngoài ra, trong nhiều lãnh thổ khác, các cộng đồng Kitô hữu và người trẻ thuộc các cộng đồng ấy trở thành mục tiêu bách hại.
Tình trạng bị loại trừ và gạt ra lề
12. Mặt khác, giữa các quốc gia và ngay trong mỗi quốc gia, cũng có những khác biệt đến từ cấu trúc xã hội và sức mạnh kinh tế; những khác biệt này phân cách, đôi khi rất rõ nét, người ngày càng có nhiều cơ hội nhờ vào toàn cầu hóa, với người sống bên lề xã hội hay trong thế giới nông thôn cùng phải gánh chịu nhiều hình thức loại trừ và hắt hủi. Nhiều bài tham luận đã cho thấy Giáo Hội cần phải can đảm đứng về phía những người này và phải góp phần đưa ra những giải pháp thay thế có thể xóa bỏ tình trạng loại trừ và gạt ra lề ấy, bằng cách gia tăng những hành động tiếp đón, đồng hành và giúp hội nhập. Vì thế, chúng ta phải ý thức rằng thái độ dửng dưng hiện đang đặc trưng cho lối sống của rất nhiều Kitô hữu, và chúng ta phải khắc phục bằng cách đào sâu chiều kích xã hội của đức tin.
Người nam và người nữ
13. Chúng ta không được quên tình trạng khác biệt giữa người nam và người nữ, với những ơn ban riêng, những cảm quan đặc thù và những kinh nghiệm khác nhau của họ về thế giới. Từ sự khác biệt này có thể nảy sinh các hình thức thống trị, loại trừ và kỳ thị, mà các xã hội và Giáo Hội cần thoát khỏi.
Kinh Thánh cho thấy người nam và người nữ là những người cộng tác với nhau bình đẳng trước mặt Thiên Chúa (x. St 5,2): mọi sự thống trị và kỳ thị xuất phát từ giới tính đều xúc phạm nhân phẩm. Kinh Thánh cũng trình bày sự khác biệt giữa hai giới như mầu nhiệm nền tảng của con người, mà đã là mầu nhiệm thì không thể bị coi như một lối suy nghĩ rập khuôn. Mối quan hệ giữa người nam và người nữ cũng được hiểu như một ơn gọi để chung sống với nhau, luôn đối thoại và liên đới với nhau, hiệp thông và sinh nhiều hoa trái (x. St 1,27-29; 2,21-25), và mọi người phải sống như thế trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống làm người: đời sống lứa đôi, công việc, giáo dục và những khía cạnh khác. Chính vì Thiên Chúa tin rằng người nam và người nữ sẽ sống kết hợp với nhau nên Người mới giao phó trái đất này cho họ.
Bành trướng văn hóa
14. Nhiều Nghị phụ đến từ những môi trường bên ngoài phương Tây chỉ ra rằng tại quốc gia của các ngài, toàn cầu hóa hàm chứa những hình thức bành trướng văn hóa thực sự. Những hình thức này đánh bật người trẻ ra khỏi những văn hóa và tôn giáo mà họ xuất thân. Giáo Hội cần phải dấn thân để đồng hành với giới trẻ trong bước chuyển này để họ không đánh mất những nét đáng quý nhất trong bản sắc.
Hiện đang có những cách nhìn rất khác nhau về tiến trình tục hóa. Trong khi một số người coi đây là cơ hội quý báu để thanh tẩy mình khỏi một lối sống tôn giáo theo thói quen hoặc dựa trên những căn tính sắc tộc và dân tộc; đối với một số người khác, tục hóa lại là một trở ngại cho việc thông truyền đức tin. Trong các xã hội tục hóa, chúng ta cũng thấy người ta đang khám phá lại Thiên Chúa và đời sống tâm linh. Điều này khiến Giáo Hội phải ý thức lại tầm quan trọng của những tác vụ giúp phát huy đức tin, rao giảng Tin Mừng và đồng hành mục vụ.
Một cái nhìn sơ khởi về Giáo Hội ngày nay
Sự dấn thân của Giáo Hội trong giáo dục
15. Không thiếu những nơi mà giới trẻ cảm nhận được sự hiện diện sống động và lôi cuốn của Giáo Hội; sự hiện diện này cũng có ý nghĩa cả với những người trẻ đồng trang lứa không tín ngưỡng hoặc thuộc một tôn giáo khác. Các cơ sở giáo dục của Giáo Hội tìm cách đón tiếp mọi người trẻ, không phân biệt tôn giáo họ lựa chọn, nguồn gốc văn hóa và hoàn cảnh của họ trên phương diện cá nhân, gia đình hay xã hội. Như thế, đóng góp của Giáo Hội là căn bản trong việc giáo dục toàn diện cho giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới. Đóng góp này được làm thông qua việc giáo dục trong các trường học ở mọi cấp và mọi ngành, qua các trung tâm huấn nghệ, các trường cao đẳng và đại học, cũng như qua các trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên; nỗ lực này cũng được thực hiện thông qua việc đón tiếp người tị nạn cũng như vô số những hoạt động dấn thân khác trong lĩnh vực xã hội. Ở tất cả những nơi này, Giáo Hội kết hợp việc giáo dục và thăng tiến con người với việc làm chứng và loan báo Tin Mừng. Khi dựa trên đối thoại liên văn hóa và liên tôn giáo, hoạt động giáo dục của Giáo Hội cũng được cả những người ngoài Kitô giáo quý trọng, coi đó như là một hình thức đích thực giúp con người thăng tiến.
Các hoạt động mục vụ giới trẻ
16. Tiến trình của Thượng hội đồng đã cho thấy rõ cần phải đưa thêm chiều kích ơn gọi vào mục vụ giới trẻ, vì phải xem mọi người trẻ như là đối tượng của mục vụ ơn gọi. Thượng hội đồng nhấn mạnh phải phát triển những quy trình mục vụ hoàn chỉnh, từ thời thơ ấu cho tới đời sống trưởng thành, để giúp mọi người hòa nhập vào cộng đồng Kitô hữu. Chúng ta đã thấy nhiều nhóm giáo xứ, phong trào và hội đoàn của người trẻ đang thực hiện một tiến trình thiết thực trong việc đồng hành và huấn luyện giới trẻ trong đời sống đức tin.
Ngày giới trẻ thế giới – phát sinh từ một sáng kiến mang tính tiên tri do trực giác mách bảo thánh Gioan Phaolô II, đấng vẫn đang là điểm tham chiếu, ngay cả cho giới trẻ thuộc thiên niên kỷ thứ ba – và những cuộc hội ngộ ở cấp quốc gia và giáo phận, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của nhiều người trẻ, vì những cuộc hội ngộ này mang lại một kinh nghiệm sống động về đức tin và hiệp thông, hầu giúp giới trẻ đối phó với những thử thách lớn lao trong cuộc sống và đảm nhận với tinh thần trách nhiệm vị trí của mình trong xã hội và trong cộng đồng Giáo Hội. Như thế, những cuộc triệu tập này có thể tạo điều kiện để giới trẻ được tiếp tục đồng hành trong bối cảnh mục vụ thường lệ khi trở về cộng đồng, nơi người trẻ có bổn phận đào sâu Tin Mừng đã đón nhận và dựa trên đó để chọn lựa những hướng đi cho cuộc sống.
Gánh nặng của việc quản lý hành chánh
17. Rất nhiều Nghị phụ nhận xét rằng công việc hành chánh rất nặng nề và chiếm quá nhiều thời gian nên đôi khi bóp nghẹt thiện chí của nhiều mục tử và làm cho họ kiệt sức; đó là một trong những lý do khiến việc gặp gỡ và đồng hành với giới trẻ trở nên khó khăn. Để cho thấy rõ hơn ưu tiên dành cho sự dấn thân vào những việc mục vụ và thiêng liêng, các Nghị phụ nhấn mạnh cần phải suy nghĩ lại những phương thức cụ thể để thi hành thừa tác vụ.
Tình trạng các giáo xứ
18. Giáo xứ vẫn là hình thái đầu tiên và chính yếu của Giáo Hội trên một lãnh thổ nhất định. Tuy nhiên, nhiều người đã lên tiếng để chỉ ra rằng giáo xứ khó trở nên nơi để giới trẻ tham chiếu và cần phải suy nghĩ lại về ơn gọi truyền giáo. Chúng ta thực sự cần đổi mới, vì giáo xứ trở nên không đáng kể lắm trong các không gian đô thị, những gì giáo xứ đề nghị ít có sức thuyết phục, lại thêm có những thay đổi trong lối sống của người dân, cả về mặt không gian lẫn thời gian. Dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới, thường đời sống giới trẻ vẫn trôi bên lề của đời sống cộng đồng và hai dòng đời không gặp được nhau.
Khai tâm vào đời sống Kitô giáo
19. Nhiều người lưu ý rằng tiến trình khai tâm Kitô giáo không phải lúc nào cũng có thể giúp trẻ em và thanh thiếu niên thấy được vẻ đẹp của kinh nghiệm đức tin. Khi cộng đồng trở nên một nơi hiệp thông và một gia đình thực sự quy tụ con cái Chúa, cộng đồng biểu lộ một sức mạnh có thể làm nảy sinh và thông truyền đức tin. Ngược lại, khi cộng đồng ngả theo cơ chế ủy nhiệm và cách tổ chức quan liêu, tiến trình khai tâm Kitô giáo sẽ bị hiểu sai và được coi như một khóa dạy kinh bổn, và khóa này thường chấm dứt khi thiếu niên lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Do đó, phải cấp bách xem xét lại kỹ tình hình dạy giáo lý cùng mối liên hệ giữa gia đình và cộng đồng trong việc thông truyền đức tin, và như thế thì phải nhờ cậy đến tiến trình đồng hành cá nhân.
Huấn luyện chủng sinh và người thánh hiến
20. Chủng viện và các cơ sở huấn luyện là những nơi rất quan trọng, tại đây những người trẻ đã được gọi vào chức linh mục và đời sống thánh hiến đào sâu chọn lựa ơn gọi của mình và trưởng thành trong cách thức đi theo Chúa Kitô (sequela Christi). Đôi khi những môi trường sống này không chú trọng đủ đến các kinh nghiệm trước đây của ứng sinh, vì không thấy được hết tầm quan trọng của chúng. Điều này ngăn cản ứng sinh trưởng thành và khiến họ có nguy cơ chỉ thể hiện những hành vi bên ngoài, thay vì giúp họ phát triển những ơn Thiên Chúa ban và hoán cải con tim cách sâu xa.

Chương II

Ba khía cạnh quan trọng

Những điều mới lạ trong thế giới kỹ thuật số
Một thực tế phổ biến khắp nơi
21. Thế giới kỹ thuật số đặc trưng cho thế giới đương thời. Thông thường, có rất nhiều người đang triền miên đắm chìm trong thế giới ấy. Giờ đây, vấn đề không chỉ còn là “sử dụng” các công cụ truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa đã được số hóa rộng rãi. Nền văn hóa ấy tác động sâu xa lên khái niệm không gian và thời gian, lên cách nhận thức về bản thân, về tha nhân và về thế giới, lên cách giao tiếp, cách học hỏi, cách tìm hiểu thông tin và cách tương quan với người khác. Cách tiếp cận thực tế có khuynh hướng chú trọng đến nhìn hơn là nghe và đọc sẽ ảnh hưởng đến cách học hỏi cũng như đến sự phát triển của óc phê phán. Từ đây, rõ ràng “môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hay thuần tuý ảo, mà trở thành một phần của đời sống thực tế hằng ngày của rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ tuổi nhất” (Đức Bênêđictô XVI, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 47).
Mạng lưới cơ hội
22. Internet và các mạng xã hội là nơi giới trẻ dành rất nhiều thời gian và gặp gỡ nhau dễ dàng, mặc dù không phải mọi người đều có thể truy cập cùng một cách như nhau, đặc biệt là ở một số vùng trên thế giới. Dù sao, những trang mạng đang tạo nên một cơ hội đặc biệt để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi với nhau, cũng như để tiếp cận thông tin và tri thức. Hơn nữa, môi trường kỹ thuật số là bối cảnh để tham gia chính trị và xã hội và để thực thi quyền công dân cách tích cực, và môi trường ấy có thể tạo thuận lợi để truyền tải một nguồn thông tin độc lập, có khả năng bảo vệ cách hữu hiệu những người yếu thế nhất bằng cách vạch trần giữa thanh thiên bạch nhật những hành vi xâm phạm các quyền của họ. Tại rất nhiều quốc gia, Internet và các mạng xã hội giờ đây là nơi không thể thiếu để tiếp cận giới trẻ và mời gọi họ tham gia, đặc biệt là vào những sáng kiến và hoạt động mục vụ.
Mặt tối của mạng
23. Thế giới kỹ thuật số cũng là một không gian đầy cô đơn, thao túng, khai thác và bạo lực, cho đến cực điểm là trường hợp các trang web đen (dark web). Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người bị lệ thuộc, cô lập và mất dần sự tiếp xúc với đời sống thực tế cụ thể, và như thế chúng cản trở sự phát triển của các mối quan hệ đích thực giữa người với người. Nhiều hình thức bạo lực mới đang được phổ biến qua các phương tiện truyền thông xã hội (social media), chẳng hạn như việc ma cũ ăn hiếp ma mới bằng cách tra tấn tinh thần trên mạng (cyber bizutage); mạng cũng là một kênh để phổ biến các nội dung khiêu dâm và để khai thác người dùng nhằm mục đích tình dục hoặc bóc lột họ qua các trò chơi may rủi.
24. Cuối cùng, nhiều hoạt động nhằm lợi ích kinh tế khổng lồ đang diễn ra trong thế giới kỹ thuật số. Chúng có khả năng cài đặt những hình thức kiểm soát tinh vi rộng khắp, tạo ra những cơ chế nhằm thao túng lương tâm của nhiều cá nhân và tiến trình dân chủ của nhiều dân tộc. Nếu có nhiều diễn đàn vận hành, cuối cùng khi nào chúng cũng sẽ tạo điều kiện để những người có lối nghĩ giống nhau gặp được nhau, và như thế chúng làm mất đi cơ hội để các khác biệt có thể đối chiếu với nhau. Những vòng khép kín này tạo thuận lợi để phát tán thông tin giả mạo và tin tức sai lệch, đồng thời nuôi dưỡng thành kiến và lòng hận thù. Tình trạng tin giả (fake news) ngày càng sinh sôi nảy nở là biểu hiện của một nền văn hóa đã mất ý thức về sự thật và lèo lái các sự kiện theo những lợi ích riêng tư. Danh dự của nhiều người bị đe doạ qua những cuộc xét xử sơ sài trực tuyến trên mạng (on line). Hiện tượng này cũng liên quan đến Giáo Hội và các mục tử.
Di dân như mô thức của thời đại chúng ta
Một hiện tượng đa diện
25. Trên quy mô toàn cầu, di dân đã trở thành một hiện tượng có tính cơ cấu, chứ không còn là một trường hợp khẩn cấp tạm thời nữa. Các cuộc di dân có thể diễn ra trong cùng một quốc gia hoặc giữa các quốc gia khác nhau. Giáo Hội đặc biệt quan ngại cho những người phải chạy thoát khỏi chiến tranh, bạo lực, các hành vi đàn áp chính trị hay tôn giáo, các thảm họa tự nhiên do biến đổi khí hậu hay do tình trạng nghèo đói cùng cực: nhiều người trong số họ là người trẻ. Nói chung, họ đang đi tìm cơ hội cho bản thân và cho gia đình mình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và mong muốn tạo ra những điều kiện để thực hiện ước mơ đó.
Nhiều Nghị phụ đã lưu ý rằng di dân là một “mô thức” có khả năng soi sáng cho chúng ta hiểu được thời đại này và, đặc biệt, là hiểu được thân phận người trẻ; các di dân nhắc cho chúng ta nhớ lại thân phận của những kẻ tin thuở ban đầu, đó là thân phận “ngoại kiều và lữ khách trên mặt đất” (Dt 11,13).
Bạo lực và tình trạng bấp bênh
26. Có những di dân ra đi vì bị lôi cuốn bởi nền văn hóa phương Tây; đôi khi họ ấp ủ những kỳ vọng không thực tế khiến họ bị thất vọng ê chề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường có dính dáng đến những băng đảng buôn bán ma túy và vũ khí, lợi dụng tâm lý yếu đuối của di dân, là những người, trong suốt cuộc hành trình, đã quá nhiều lần phải đối diện với bạo lực, nạn buôn người, những hành vi lạm dụng tâm lý và thậm chí thể lý, và những nỗi đau khôn tả. Cần vạch ra cho thấy tình trạng bấp bênh đặc biệt của những di dân không có người thân đi cùng và tình trạng của những người buộc phải ở nhiều năm trong trại tị nạn hoặc bị kẹt lại lâu năm ở quốc gia quá cảnh, khiến họ không thể theo đuổi việc học hành hay thi thố tài năng. Ở một số quốc gia mà họ đến, hiện tượng di dân đã gây nên e ngại và lo sợ cho dân chúng, những cảm xúc này thường bị kích động và khai thác nhằm mục đích chính trị. Vì thế đã lan rộng một tâm lý bài ngoại, khép kín và co cụm vào chính mình. Chúng ta cần phản ứng quyết liệt trước tình trạng này.
Những câu chuyện ly tán và gặp gỡ
27. Những người trẻ di cư bị sống tách biệt với môi trường xuất thân và thường cảm thấy mất gốc về mặt văn hóa và tôn giáo. Tình trạng ly tán cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng ở quê nhà vì họ bị mất đi các thành viên rắn rỏi và tháo vát nhất, và tình trạng này cũng ảnh hưởng đến các gia đình, đặc biệt là khi cha hoặc mẹ, hay cả hai, bỏ con cái ở lại quê nhà để di cư. Giáo Hội có vai trò quan trọng là hướng dẫn những người trẻ thuộc các gia đình tan vỡ này. Nhưng chuyện di dân cũng là chuyện gặp gỡ giữa con người và văn hóa: đối với cộng đồng và xã hội tiếp nhận họ, di dân mang đến cơ hội để mọi người được giàu thêm kinh nghiệm và để phát triển con người toàn diện. Theo quan điểm này, những sáng kiến của Giáo Hội nhằm tiếp nhận di dân đóng một vai trò quan trọng và có thể đem lại sức sống mới cho những cộng đồng có khả năng khai triển các sáng kiến ấy.
Vai trò ngôn sứ của Giáo Hội
28. Nhờ có các Nghị phụ đến từ nhiều quốc gia, nên khi bàn luận về vấn đề di dân, Thượng hội đồng đã thu thập được nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là giữa các quốc gia đi và các quốc gia đến. Hơn nữa, chúng ta đã nghe thấy tiếng kêu báo động từ các Giáo Hội có thành viên buộc phải chạy trốn khỏi chiến tranh và sự bách hại, và đối với những người này, những cuộc di dân bó buộc như thế đe dọa chính cuộc sống của họ. Chính vì tập hợp được tất cả những quan điểm khác nhau này, nên, trong lĩnh vực di dân, Giáo Hội có điều kiện để thi hành một vai trò mang tính ngôn sứ đối với xã hội.
Nhìn nhận và chống lại mọi loại lạm dụng
Làm rõ sự thật và xin lỗi
29. Các loại lạm dụng khác nhau do một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân gây ra cho các nạn nhân, trong số đó đặc biệt có rất nhiều người trẻ, gây ra những nỗi đau khổ có thể kéo dài suốt cả đời người mà chẳng có sự ăn năn thống hối nào có thể chữa lành. Hiện tượng này nhan nhản trong xã hội, nhưng cũng liên quan đến Giáo Hội và là một trở ngại nghiêm trọng cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Thượng hội đồng tái khẳng định sẽ cương quyết áp dụng những biện pháp ngăn ngừa nghiêm ngặt nhằm tránh không cho điều này xảy ra nữa, bắt đầu bằng biện pháp tuyển chọn và đào tạo những người sẽ được giao cho nhiệm vụ phụ trách và giáo dục.
Đi xuống tận gốc
30. Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm dụng quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Rõ ràng là phải xóa sạch những hình thức thực thi quyền bính vốn tạo điều kiện cho sự lạm dụng, và phải chống lại tinh thần thiếu trách nhiệm và thiếu minh bạch vốn đã dẫn đến nhiều trường hợp lạm dụng. Khát vọng thống trị, tinh thần thiếu đối thoại và thiếu minh bạch, các hình thức sống hai mặt, tình trạng trống vắng tâm linh, cũng như những tâm lý yếu đuối chính là mảnh đất màu mỡ để thói biến chất sinh sôi nảy nở. Đặc biệt là tinh thần giáo sĩ trị, “phát sinh từ quan niệm cho rằng ơn gọi chỉ dành riêng cho thành phần ưu tú và coi thừa tác vụ mình nhận lãnh như một quyền hành để thực thi chứ không phải như một phận sự phục vụ vô vị lợi và quảng đại để cống hiến. Và điều này khiến người ta tự cho mình thuộc về một nhóm có câu giải đáp cho tất cả mọi sự và không cần phải lắng nghe ai và không cần học hỏi bất cứ điều gì nữa, hoặc chỉ giả vờ lắng nghe mà thôi.” (Đức Phanxicô, Diễn từ trong Buổi họp Chung thứ nhất tại Đại hội XV của Thượng hội đồng, ngày 3 tháng 10 năm 2018).
Thái độ biết ơn và khích lệ
31. Thượng hội đồng nói lên lòng biết ơn đối với những người đã dũng cảm tố cáo sự dữ họ phải hứng chịu: họ giúp Giáo Hội ý thức được những gì đã xảy ra cũng như cần phải phản ứng quyết liệt. Thượng hội đồng cũng coi trọng và khuyến khích những nỗ lực chân thành của vô số nam nữ giáo dân, tu sĩ, linh mục và giám mục, là những người, hằng ngày, tận tụy hy sinh xả thân phục vụ giới trẻ. Công việc của họ như một cánh rừng đang phát triền mà không gây tiếng động. Rất nhiều người trẻ có mặt tại Thượng hội đồng cũng đã bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã đồng hành với họ và đã nhắc lại rằng họ rất cần những tấm gương quy chiếu.
Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ rơi Giáo Hội của Người, sẽ ban cho Giáo Hội sức mạnh và những công cụ cho một con đường mới. Thượng hội đồng xác nhận loạt “hành động và biện pháp chế tài cần thiết” (Đức Phanxicô, Thư gửi Dân Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018, số 2), đã được đề ra đúng lúc, và ý thức rằng lòng thương xót đòi hỏi công lý; Thượng hội đồng cũng công nhận rằng việc đối phó với vấn đề lạm dụng trên mọi phương diện, nhất là với sự giúp đỡ quý báu của giới trẻ, có thể thực sự là cơ hội để làm một cuộc cải cách có tầm vóc lịch sử.

Chương III

Căn tính và các mối quan hệ

Gia đình và tương quan giữa các thế hệ
Gia đình, điểm tham chiếu đầu tiên
32. Gia đình tiếp tục là điểm tham chiếu chính yếu cho giới trẻ. Con cái quý trọng tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ, họ tha thiết với các mối liên hệ gia đình và hy vọng, đến lượt mình, họ cũng lập nên được một gia đình. Không thể phủ nhận rằng tình trạng gia tăng ly thân, ly dị, tái hôn và gia đình cha hoặc mẹ đơn thân, có thể gây ra những đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng căn tính nơi con cái. Đôi khi con cái phải gánh vác những trách nhiệm không tương xứng với tuổi của mình và buộc họ trở thành người lớn trước tuổi. Sự đóng góp của bậc ông bà về mặt tình cảm và trong lĩnh vực giáo dục tôn giáo thường mang tính quyết định: sự khôn ngoan của tuổi tác khiến ông bà là mối dây liên kết chính trong tương quan giữa các thế hệ.
Tầm quan trọng của chức năng làm cha và làm mẹ
33. Người cha và người mẹ có những vai trò khác hẳn nhau, nhưng để làm điểm quy chiếu trong việc giáo dục và thông truyền đức tin cho con cái thì vai trò của họ đều quan trọng như nhau. Khuôn mặt người mẹ tiếp tục chiếm vai trò được giới trẻ coi là chủ yếu cho sự trưởng thành của họ, tuy vai trò ấy không được công nhận đủ trên phương diện văn hóa, chính trị và nghề nghiệp. Nhiều người cha rất tận tâm làm tròn vai trò của mình, nhưng chúng ta không thể che giấu rằng, trong một số bối cảnh, khuôn mặt người cha vẫn vắng bóng hay mờ nhạt, và trong một số bối cảnh khác, khuôn mặt ấy lại hà khắc hay độc tài. Những thái độ mập mờ này cũng thể hiện khi người đàn ông thực thi vai trò làm cha thiêng liêng.
Tương quan giữa các thế hệ
34. Thượng hội đồng nhìn nhận có rất nhiều bậc cha mẹ và nhà giáo dục tận tụy bỏ hết tâm sức truyền đạt lại các giá trị, bất chấp những khó khăn của môi trường văn hóa. Ở nhiều nơi, vai trò của người cao niên và lòng tôn kính tổ tiên trở nên trụ cột vững chắc cho giáo dục, và góp phần rất lớn vào việc hình thành bản sắc cá nhân. Đại gia đình mà trong một số nền văn hóa mới là gia đình theo đúng nghĩa – đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, một số người trẻ cảm thấy bị đè nén bởi các truyền thống gia đình và tìm cách chạy trốn theo tiếng mời gọi của nền văn hóa đã được toàn cầu hóa, và vì thế đôi khi lấy mất đi của họ mọi điểm quy chiếu. Ngược lại, ở một số nơi khác trên thế giới, tuy không có xung đột thế hệ thực sự giữa người trẻ và người lớn, nhưng họ lại không màng đến nhau. Đôi khi người lớn không cố gắng hay không truyền đạt được những giá trị căn bản của cuộc sống, hoặc có lối sống chưa trưởng thành, nên gây ra tình trạng đảo ngược trong tương quan giữa các thế hệ. Như thế, mối quan hệ giữa người trẻ và người lớn có nguy cơ dừng lại trên phương diện tình cảm, mà không bao giờ chạm đến chiều kích giáo dục và văn hóa.
Giới trẻ và cội nguồn văn hóa
35. Giới trẻ vươn mình đến tương lai và đầy nghị lực cùng sức năng động để đối phó với cuộc sống. Tuy nhiên, họ cũng bị cám dỗ lao mình vào hưởng thụ hiện tại và đôi khi họ có khuynh hướng ít để ý đến ký ức của quá khứ mà mình xuất thân, đặc biệt là những điều tốt họ đã lãnh nhận được từ ông bà, cha mẹ, và hành trang văn hóa mà xã hội đã đem lại cho họ. Giúp người trẻ khám phá ra một quá khứ phong phú và sống động, bằng cách nhớ đến quá khứ và dựa trên đó để thực hiện những chọn lựa và để phát triển tiềm năng, đó là một hành vi yêu thương đích thực dành cho họ, tạo điều kiện cho họ trưởng thành và để họ thực hiện những chọn lựa nên làm.
Tình bạn và tương quan giữa người đồng trang lứa
36. Bên cạnh những tương quan giữa các thế hệ, không nên quên những tương quan giữa người trẻ đồng trang lứa, vốn là kinh nghiệm chủ yếu để người trẻ tương tác và để thoát dần ra khỏi bối cảnh gia đình của mình. Tình bạn và sự trao đổi, ngay cả trong những nhóm có cơ cấu ít nhiều, thường đem đến cơ hội để củng cố các kỹ năng xã hội và tương giao, trong bối cảnh mà mình không bị đánh giá hay bị phê phán. Kinh nghiệm nhóm cũng là một thuận lợi rất lớn để chia sẻ đức tin và giúp nhau làm chứng. Người trẻ có khả năng dẫn dắt người trẻ khác và sống một đời tông đồ đích thực giữa những người bạn của mình.
Thân xác và đời sống tình cảm
Những thay đổi đang xảy ra
37. Người trẻ nhận ra rằng thân xác và giới tính có một tầm quan trọng chủ yếu đối với đời sống và tiến trình phát triển căn tính của mình, vì họ coi thân xác và giới tính là thiết yếu để sống tình bạn và tình cảm. Tuy nhiên, trong thế giới đương thời, chúng ta thấy có nhiều hiện tượng đang biến chuyển nhanh chóng trong vấn đề này. Trước hết, những phát triển khoa học và những công nghệ y sinh đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức về thân xác, dẫn đến ý tưởng rằng không còn giới hạn nào có thể ngăn cản việc cải biến thân thể. Khả năng chỉnh sửa DNA, khả năng chèn những yếu tố nhân tạo vào cơ thể (cyborg) và sự phát triển của khoa học thần kinh tạo ra một lợi ích rất lớn, nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều vấn đề về nhân học và đạo đức. Tiếp nhận không phê phán phương pháp dùng kỹ thuật áp đảo để chỉnh sửa cơ thể làm nhiều người không còn ý thức sự sống là ơn ban và tạo vật thì có giới hạn; vả lại, tạo vật có thể sai lầm hoặc có thể bị lợi dụng làm công cụ phục vụ cho những động cơ kinh tế và chính trị (x. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 106).
Hơn nữa, trong một số môi trường, có nhiều người trẻ ngày càng bị lôi cuốn vào những hành vi mạo hiểm, như một cách để khám phá bản thân, để tìm kiếm cảm giác mạnh và để được người khác công nhận. Ngày nay, bên cạnh các hiện tượng đã có từ trước và vẫn còn tồn tại, như quan hệ tình dục sớm, sống chung chạ, du lịch tình dục, tôn sùng quá mức khía cạnh thể lý, chúng ta còn chứng kiến hiện tượng phát tán rộng rãi các nội dung khiêu dâm và phô bày thân thể trên mạng. Các thế hệ mới bị tiếp xúc thường xuyên với những hiện tượng này khiến họ khó có thể thanh thản trưởng thành. Các hiện tượng này biểu hiện những động thái xã hội chưa từng xảy ra, ảnh hưởng đến các kinh nghiệm và chọn lựa cá nhân, tạo nên môi trường thuận lợi để bành trướng ý thức hệ.
 
Tiếp nhận những giáo huấn luân lý của Giáo Hội
38. Chính trong bối cảnh ấy mà các gia đình công giáo và các cộng đồng Giáo Hội nỗ lực giúp giới trẻ khám phá tính dục như một ơn ban lớn lao ẩn chứa Mầu nhiệm, để họ sống các mối quan hệ theo đường lối Tin Mừng. Tuy nhiên, không phải lúc nào gia đình và cộng đồng cũng có khả năng chuyển ước muốn này thành một phương pháp thích hợp để giáo dục người trẻ về mặt tình cảm và tính dục, nghĩa là không chỉ giới hạn ở những can thiệp lẻ tẻ và tùy lúc. Nơi nào đã lựa chọn thực sự hình thức giáo dục này, nơi ấy có nhiều kết quả tốt đẹp, giúp giới trẻ khám phá ra rằng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô có liên hệ mật thiết với cách mình sống đời sống tình cảm cùng các mối quan hệ với người khác. Các kết quả ấy đòi hỏi và khuyến khích Giáo Hội phải đầu tư nhiều công sức hơn vào lĩnh vực này.
Những băn khoăn của giới trẻ
39. Giáo Hội có một truyền thống phong phú như cơ sở để xây dựng và đề nghị giáo huấn của mình về vấn đề này: chẳng hạn Giáo lý Giáo Hội Công giáo, thần học về thân xác do thánh Gioan Phaolô II khai triển, Thông điệp Deus caritas est của Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Amoris laetitia của Đức Thánh Cha Phanxicô. Nhưng người trẻ, ngay cả những người đã biết và sống theo giáo huấn này, vẫn bày tỏ mong muốn nhận được từ Giáo Hội một lời rõ ràng, đầy tình người và lòng thấu cảm. Thật vậy, vấn đề luân lý tính dục thường làm cho Giáo Hội bị hiểu lầm và xa lánh, vì bị xem như nơi để phán xét và lên án. Trước những thay đổi của xã hội và những cách sống khác nhau trong đời sống tình cảm theo những quan điểm đạo đức đa dạng, giới trẻ tỏ ra biết trân quý tính trung thực và lòng tận tụy, nhưng họ thường bị mất phương hướng. Họ đặc biệt bày tỏ mong muốn được đối thoại trên những vấn đề liên quan đến sự khác biệt căn tính và tính hỗ tương giữa người nam và người nữ, cùng vấn đề đồng tính luyến ái.

Những tình trạng bấp bênh
Thế giới lao động
40. Thế giới lao động là nơi mà giới trẻ thể hiện óc sáng tạo và những khả năng đổi mới của mình. Đồng thời, nơi đó họ cũng trải nghiệm tình trạng bị loại trừ và bị gạt ra lề. Đáng nói nhất và nghiêm trọng nhất là tình trạng thất nghiệp nơi giới trẻ; ở một số quốc gia, tỷ lệ này cao đến mức báo động. Thất nghiệp không chỉ khiến người trẻ trở nên nghèo, tình trạng này còn tước đi của họ quyền được mơ ước và hy vọng, đồng thời cũng lấy mất của họ cơ hội góp phần làm cho xã hội phát triển. Trong nhiều quốc gia, nguyên nhân của tình trạng này là do một số thành phần trẻ thiếu khả năng chuyên môn thích hợp, đặc biệt là vì hệ thống giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập. Thường tình trạng bấp bênh về lao động của giới trẻ lại thỏa mãn khát vọng của những nhóm lợi ích kinh tế muốn bóc lột lao động.
Bạo lực và những hình thức bách hại
41. Nhiều người trẻ đang sống trong bối cảnh chiến tranh và phải gánh chịu bạo lực dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, tội phạm có tổ chức, buôn bán người, nô lệ tình dục và khai thác tình dục, hãm hiếp trong chiến tranh, v.v. Nhiều người trẻ khác vì đức tin của mình mà khó tìm được một việc làm trong xã hội và phải gánh chịu nhiều hình thức bách hại có thể đưa đến cái chết. Rất nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hay vì không còn chọn lựa nào khác, đang sống trong tình trạng phạm tội ác và gây bạo lực: binh lính trẻ em, băng đảng tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma tuý, khủng bố, v.v. Tình trạng bạo lực này làm tan nát cuộc đời nhiều người trẻ. Những trường hợp bị lạm dụng và nghiện ngập, cũng như bạo lực và những hành vi lệch lạc, cũng là lý do khiến giới trẻ lâm vào cảnh tù tội, và tình trạng này liên quan đặc biệt đến một số nhóm sắc tộc và xã hội. Tất cả những tình cảnh này làm Giáo Hội băn khoăn và cảm thấy bị thôi thúc phải hành động.
Tình trạng bị gạt ra lề và bất ổn xã hội
42. Xảy ra nhiều hơn nữa trên thế giới là trường hợp của những người trẻ bị gạt ra bên lề và bị loại trừ khỏi xã hội cách này cách khác, vì lý do tôn giáo, sắc tộc hay kinh tế. Chúng ta hãy nhớ đến hoàn cảnh khốn khó của những cô gái, vị thành niên lẫn thành niên, phải mang bầu, đến vết thương lòng của họ sau khi phá thai, đến tầm mức lan rộng của HIV, đến những hình thức nghiện ngập (ma tuý, cờ bạc, nội dung khiêu dâm, v.v.) và cả đến hoàn cảnh của những trẻ em và thanh thiếu niên đường phố, không nhà cửa, không gia đình và không nguồn lợi kinh tế; chúng ta cũng cần quan tâm đặc biệt đến các tù nhân trẻ tuổi. Nhiều bài tham luận đã nhấn mạnh rằng Giáo Hội cần phải chú trọng đến những năng lực của người trẻ bị loại trừ và những đóng góp mà họ có thể đem lại cho cộng đồng. Giáo Hội muốn can đảm đứng về phía họ, đồng hành với họ trong suốt tiến trình lấy lại phẩm giá và lấy lại một vai trò trong việc xây dựng lợi ích chung.
Kinh nghiệm đau khổ
43. Trái ngược với lối suy nghĩ rập khuôn phổ biến, thế giới của người trẻ cũng mang đậm dấu ấn của kinh nghiệm bấp bênh, thiệt thòi, bệnh tật và đau buồn. Trong nhiều quốc gia, ngày càng có nhiều người, nhất là những người trẻ, bị bệnh tâm lý, bệnh trầm cảm, bệnh tâm thần và bệnh rối loạn ăn uống; tình trạng này thường thấy nơi những người có cuộc sống vô cùng bất hạnh hoặc không có khả năng tìm được một chỗ đứng trong xã hội; chúng ta cũng không được quên một hiện tượng thật bi đát là tự tử. Giới trẻ đang phải sống những tình trạng bất ổn này và gia đình họ trông mong được cộng đồng Kitô hữu nâng đỡ, tuy không phải lúc nào các cộng đồng cũng được trang bị đầy đủ để đón nhận họ.
Nguyên nhân gây nên tình trạng bấp bênh
44. Rất nhiều hoàn cảnh trong số này là sản phẩm của “nền văn hóa vứt bỏ”, mà giới trẻ là những nạn nhân đầu tiên. Tuy nhiên, văn hóa này cũng có thể thấm nhập vào giới trẻ, vào các cộng đồng Kitô hữu và những người phụ trách cộng đồng, và như thế, góp phần làm thoái hóa con người, xã hội và môi trường, tác hại đến thế giới. Đối với Giáo Hội, đây là một lời kêu gọi hoán cải, thắt chặt tình liên đới và hành động cách khác trong giáo dục, để có thể hiện diện, đặc biệt là trong những môi trường có nhiều khó khăn ấy. Về phần những người trẻ đang sống trong các hoàn cảnh này, họ cũng có thể chia sẻ với cộng đồng nhiều nguồn lực quý giá, và dạy chúng ta biết đo lường giới hạn của mình, đồng thời giúp chúng ta ngày càng lớn lên trong đời sống nhân bản. Óc sáng tạo là điều không thể thiếu, một cộng đồng có óc sáng tạo và tràn đầy niềm vui Tin Mừng có thể là nơi người trẻ chọn tìm đến khi gặp bất ổn và khó khăn. Như thế, xã hội có thể nghiệm ra rằng tảng đá bị thợ xây loại bỏ có thể trở nên đá tảng góc tường (x. Tv 118, 22; Lc 20,17; Cv 4,11; 1Pr 2,4).

Chương IV

Là người trẻ hôm nay

Những đặc điểm của văn hóa giới trẻ hôm nay
Tính độc đáo và tính đặc thù
45. Cách các thế hệ trẻ tiếp cận thực tế có những đặc tính riêng. Giới trẻ đòi phải được đón nhận và tôn trọng trong sự độc đáo của mình. Những yếu tố rõ nét nhất trong văn hóa người trẻ có thể kể ra là: họ ưa thích hình ảnh hơn là những ngôn ngữ giao tiếp khác, họ thường dùng cảm giác và cảm xúc để tiếp cận thực tế, họ ưu tiên những gì là cụ thể và ưu tiên hoạt động hơn là phân tích lý thuyết. Đối với họ, điều vô cùng quan trọng là tương quan bạn bè và cảm thức được thuộc về những nhóm đồng trang lứa, được lập nên đặc biệt là nhờ vào các phương tiện truyền thông xã hội. Nói chung, bản chất tự nhiên của giới trẻ là cởi mở đón nhận sự đa dạng, khiến họ chú ý tới những vấn đề liên quan đến hòa bình, hòa nhập và đối thoại giữa các nền văn hóa cũng như các tôn giáo. Vô số kinh nghiệm từ nhiều nơi trên thế giới cho thấy giới trẻ biết cách trở thành những người tiên phong trong việc gặp gỡ và đối thoại liên văn hóa và liên tôn giáo, trong quan điểm chung sống hòa bình.
Dấn thân và tham gia xã hội
46. Dấn thân xã hội là một nét đặc thù của giới trẻ hôm nay, dù với những cách thức khác so với các thế hệ trước đây. Tuy có một số sống dửng dưng, nhưng vẫn có nhiều người trẻ sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi hoạt động thiện nguyện, trở nên công dân tích cực và sống tình liên đới trong xã hội: điều quan trọng là chúng ta phải đồng hành và khuyến khích người trẻ phát triển tài năng, năng lực và óc sáng tạo và thúc đẩy họ gánh vác trách nhiệm. Dấn thân xã hội và tiếp xúc trực tiếp với người nghèo là một cơ hội quan trọng để người trẻ khám phá hay đào sâu đức tin và để họ phân định ơn gọi của mình. Thái độ quan tâm đến vấn đề sinh thái và phát triển bền vững là tích cực và phổ biến khắp nơi, và chúng ta phải lưu ý đến vai trò xúc tác của thông điệp Laudato si’ trong hành động này. Cũng có người đã ghi nhận thái độ sẵn sàng dấn thân vào lĩnh vực chính trị vì lợi ích chung nơi người trẻ, tuy không phải lúc nào Giáo Hội cũng biết đồng hành với họ trong hành động này, bằng cách tạo cho họ những cơ hội để được huấn luyện và những sân chơi để phân định. Liên quan đến thăng tiến công bình, giới trẻ yêu cầu Giáo Hội phải dấn thân cách rõ rệt và nhất quán, để loại trừ mọi thông đồng với tinh thần thế tục.
Nghệ thuật, âm nhạc và thể thao
47. Giới trẻ chú trọng đến việc diễn tả nghệ thuật dưới mọi hình thức, đây là điều mà Thượng hội đồng nhìn nhận và tán thưởng: trong lĩnh vực này, nhiều người trẻ sử dụng tài năng đã được ban cho để phục vụ chân, thiện, mỹ, ngõ hầu lớn lên trong đời sống nhân bản và trong tương quan với Thiên Chúa. Đối với nhiều người trẻ, diễn tả nghệ thuật cũng là một thiên chức nghề nghiệp đích thực. Chúng ta không thể quên rằng trong nhiều thế kỷ, “con đường thẩm mỹ” là một trong những cách thức được dùng nhiều nhất để diễn tả đức tin và loan báo Tin Mừng.
Tầm quan trọng của âm nhạc vô cùng đặc biệt; âm nhạc là một môi trường thực sự và giới trẻ thường xuyên chìm đắm trong đó, như một loại văn hoá và một loại ngôn ngữ có khả năng khơi dậy cảm xúc và xây dựng căn tính. Ngôn ngữ âm nhạc cũng là một lợi ích cho mục vụ, đặc biệt là cho phụng vụ và canh tân phụng vụ. Việc chạy theo thị hiếu nhằm mục đích thương mại đôi khi có thể không phù hợp với những cách mà truyền thống vẫn dùng để diễn tả âm nhạc và ngay cả để diễn tả phụng vụ.
Việc luyện tập thể thao nơi giới trẻ cũng có tầm quan trọng không kém. Giáo Hội không được đánh giá thấp những tiềm năng của thể thao trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, và phải cương quyết luôn hiện diện trong môi trường này. Thế giới thể thao cần được giúp để khắc phục những thái độ tiêu cực đi kèm, chẳng hạn như sùng bái vô địch, phục vụ lợi ích thương mại và ý muốn phải thành công bằng mọi giá. Theo chiều hướng đó, Thượng hội đồng tái khẳng định cần phải đồng hành và nâng đỡ người khuyết tật trong việc luyện tập thể thao.
Đời sống tâm linh và đời sống tôn giáo
Những bối cảnh tôn giáo khác nhau
48. Kinh nghiệm tôn giáo của giới trẻ bị ảnh hưởng nặng bởi bối cảnh xã hội và văn hoá nơi họ sống. Trong một số quốc gia, niềm tin Kitô giáo là một kinh nghiệm cộng đồng mãnh liệt và sống động mà giới trẻ chia sẻ với nhau trong niềm vui. Ở nhiều nơi có truyền thống Kitô giáo cổ xưa, đa số người công giáo không sống như những thành viên thực sự của Giáo Hội. Tuy nhiên, không thiếu những nhóm thiểu số đầy sáng tạo và có nhiều kinh nghiệm; họ cho thấy người ta bắt đầu quan tâm trở lại đến tôn giáo, như một phản ứng chống lại cách nhìn coi nhẹ và bóp nghẹt tôn giáo. Còn có những nơi mà người công giáo chỉ là thiểu số, cùng với những nhánh Kitô giáo khác; đôi khi họ bị kỳ thị và thậm chí bị bách hại. Cuối cùng, có những nơi mà các giáo phái hay các hình thức thay thế tôn giáo đang gia tăng; những người theo các giáo phái và các hình thức này thường bị thất vọng và quay ra chống đối tất cả những gì liên quan đến tôn giáo. Nếu ở một số nơi, giới trẻ không thể biểu lộ công khai niềm tin của mình hay không được tự do tôn giáo, thì ở một số nơi khác, họ lại cảm thấy phải gánh chịu hậu quả của những chọn lựa trong quá khứ – nhất là những chọn lựa chính trị – khiến họ thấy Giáo Hội không đáng tin nữa. Không thể nói đến đời sống tôn giáo của giới trẻ mà không kể đến tất cả những khác biệt này.
Tìm kiếm tôn giáo
49. Nói chung, giới trẻ tuyên bố họ đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và tỏ ra quan tâm đến đời sống tâm linh. Đôi khi, mối quan tâm này có vẻ như một cuộc tìm kiếm trạng thái sảng khoái tâm lý hơn là để mở lòng ra gặp Mầu nhiệm của Thiên Chúa hằng sống. Đặc biệt trong một số nền văn hóa, nhiều người xem tôn giáo là vấn đề riêng tư và chọn ra từ nhiều truyền thống tâm linh khác nhau những yếu tố phù hợp với các xác tín của riêng mình. Như thế, một chủ nghĩa hòa đồng tôn giáo nào đó đang lan rộng và đang được phát triển dựa trên tiền giả định về thuyết tương đối cho rằng mọi tôn giáo đều như nhau. Không phải ai cũng nghĩ rằng gia nhập vào một cộng đồng đức tin là con đường tốt nhất để tìm được ý nghĩa cuộc sống, và họ còn bổ sung đức tin, hay đôi khi thay thế luôn đức tin, bằng những ý thức hệ hay bằng sự tìm kiếm thành công về mặt nghề nghiệp và kinh tế, nhằm thành đạt về mặt vật chất. Tuy nhiên, một số tập tục được lưu truyền qua truyền thống vẫn còn sống động, chẳng hạn như những cuộc hành hương viếng thánh địa, mà có thể đánh động rất nhiều người trẻ, cũng như những cách thể hiện lòng đạo đức bình dân, mà thường liên quan đến lòng sùng kính Đức Mẹ và các thánh; những tập tục này bảo tồn kinh nghiệm đức tin của một dân tộc.
Gặp gỡ Chúa Giêsu
50. Tương quan của giới trẻ với nhân vật Giêsu cũng rất đa dạng. Nhiều người trẻ xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế và Con Thiên Chúa, và họ thường cảm thấy gần gũi với Người qua Mẹ Maria, mẹ của Người, và họ dấn mình vào con đường đức tin. Một số người khác không có tương quan riêng với Chúa Giêsu, nhưng xem Người là một đấng tốt lành và một đấng để tham chiếu về mặt đạo đức. Cũng có người gặp được Chúa Giêsu nhờ có một kinh nghiệm mãnh liệt với Chúa Thánh Thần. Trái lại, đối với những người khác, Đức Giêsu là một nhân vật của quá khứ, không có một nền tảng hiện sinh nào, hoặc rất xa vời với kinh nghiệm nhân sinh.
Đối với rất nhiều người trẻ, những từ “Thiên Chúa”, “tôn giáo” và “Giáo Hội” dường như không có ý nghĩa gì, nhưng họ lại bị đánh động bởi nhân vật Giêsu, khi họ được nghe giới thiệu cách hấp dẫn và thiết thực về Người. Bằng rất nhiều cách, giới trẻ hôm nay nói với chúng ta: “Chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu” (Ga 12,21), như thế, họ cho thấy niềm thao thức thánh thiện vẫn có nơi con tim mỗi người: “Thao thức cho việc tìm kiếm thiêng liêng, thao thức gặp gỡ Thiên Chúa, thao thức của tình yêu” (Đức Phanxicô, Thánh lễ khai mạc Tổng tu nghị của Dòng Thánh-Âutinh, 28 tháng 8 năm 2013).
Mong muốn một phụng vụ sống động
51. Trong nhiều bối cảnh, giới trẻ công giáo mong muốn có được một đường lối phụng vụ mới mẻ, đích thực và vui tươi, đem đến cho họ những giờ phút cầu nguyện và những buổi cử hành bí tích có thể lay động đời sống thường ngày. Ở nhiều nơi trên thế giới, hành động tham gia phụng vụ là yếu tố chính yếu cho biết căn tính Kitô hữu và được rất nhiều người hưởng ứng với lòng xác tín. Đối với giới trẻ, tham gia phụng vụ là thời điểm đặc biệt để sống kinh nghiệm với Thiên Chúa và với cộng đồng Giáo Hội, và là khởi điểm cho sứ vụ truyền giáo. Trái lại, ở những nơi khác, có hiện tượng xa lánh bí tích và thánh lễ Chúa nhật, vì người ta nhìn thánh lễ như một buổi dạy giới răn luân lý hơn là một buổi gặp gỡ Chúa Phục Sinh và cộng đồng trong niềm vui. Nói chung, chúng ta nhận thấy rằng ngay cả ở những nơi có dạy giáo lý về bí tích, thì cũng thiếu sự đồng hành mang tính giáo dục để giúp người trẻ sống buổi cử hành cách sâu lắng và để giúp họ đi vào trong Mầu nhiệm, cùng với các biểu tượng và các nghi thức rất phong phú của Mầu nhiệm ấy.
Tham gia và vai trò chính
Giới trẻ muốn là tác nhân chính
52. Trước một xã hội đầy mâu thuẫn, rất nhiều người trẻ mong ước cống hiến tài năng, năng lực, sức sáng tạo của mình và sẵn sàng thực thi trách nhiệm. Họ quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề: phát triển bền vững trên phương diện xã hội cũng như môi trường, các hình thức phân biệt đối xử và nạn kỳ thị chủng tộc. Cách tham gia của người trẻ thường đi theo những con đường chưa từng có, họ khai thác đặc biệt tiềm năng của truyền thông kỹ thuật số để huy động lực lượng và tạo áp lực chính trị: báo động rộng rãi về những lối sống và những kiểu tiêu thụ và đầu tư nguy hiểm, liên đới với nhau và quan tâm đến môi trường, dấn thân và tham gia vào xã hội và chính trị với những cách thức mới, bảo đảm về mặt xã hội cho những người yếu thế nhất với những phương thức mới.
Những lý do xa lánh
53. Thượng hội đồng ý thức rằng một số lớn giới trẻ, với nhiều lý do khác nhau, không đòi hỏi gì ở Giáo Hội vì họ cho rằng Giáo Hội chẳng có liên can gì đến cuộc đời họ. Một số còn minh nhiên yêu cầu Giáo Hội để họ yên thân, vì họ cảm thấy khó chịu, nếu không muốn nói là bực bội, khi Giáo Hội hiện diện. Thường thì yêu cầu này không xuất phát từ một thái độ khinh miệt thiếu suy xét và bốc đồng, nhưng bắt nguồn từ những lý do nghiêm trọng và đáng trân trọng: các vụ bê bối tình dục và kinh tế; sự thiếu chuẩn bị nơi những thừa tác viên có chức thánh khiến những người này không nắm bắt được cách cảm nhận của giới trẻ một cách thích đáng; sự thiếu chuẩn bị cho bài giảng lễ và cho việc trình bày lời Chúa; vai trò thụ động dành cho giới trẻ trong cộng đồng Kitô hữu; các khó khăn mà Giáo Hội thường gặp khi phải giải thích cách hợp l ý cho xã hội đương thời về các lập trường tín lý và đạo đức của mình.
Giới trẻ trong Giáo Hội
54. Giới trẻ công giáo không chỉ là những người được nhận việc chăm sóc mục vụ, mà còn là những chi thể sống động trong một thân thể Giáo Hội duy nhất, là những người đã lãnh nhận Phép Rửa và được Thánh Thần của Chúa sống và hành động nơi mình. Họ góp phần làm phong phú thêm những gì Giáo Hội là, chứ không chỉ những gì Giáo Hội làm. Họ là hiện tại chứ không chỉ là tương lai của Giáo Hội. Giới trẻ là những tác nhân chính trong nhiều hoạt động của Giáo Hội, họ phục vụ cách quảng đại, đặc biệt trong việc dạy giáo lý và hướng dẫn các buổi phụng vụ, họ quan tâm chăm sóc những người bé mọn nhất, họ tình nguyện phục vụ người nghèo. Các phong trào, hội đoàn và dòng tu cũng cho giới trẻ cơ hội để dấn thân và cùng gánh vác trách nhiệm. Đôi khi, thái độ sẵn sàng của giới trẻ đụng phải thái độ độc tài và dè chừng của người lớn cũng như của các mục tử; những người này không thấy được hết sức sáng tạo của giới trẻ và ngại chia sẻ trách nhiệm với họ.
Nữ giới trong Giáo Hội
55. Phụ nữ cần được công nhận và coi trọng hơn trong xã hội và Giáo Hội, đây cũng là một yêu cầu của giới trẻ. Nhiều người nữ đóng một vai trò thiết yếu trong cộng đồng Kitô hữu, nhưng ở nhiều nơi, họ khó có tiếng nói trong tiến trình quyết định, ngay cả khi những tiến trình này chẳng đòi hỏi phải có những trách nhiệm thừa tác đặc biệt. Khi bàn luận và vận hành mà thiếu tiếng nói và cái nhìn của người nữ, Giáo Hội bị nghèo đi vì đang loại bỏ một đóng góp quý báu để phân định. Thượng hội đồng khuyến cáo cần làm thế nào để mọi người ý thức rằng phải cấp bách thay đổi một điều không thể không làm, đặc biệt, trước tiên, phải suy tư, về mặt nhân học lẫn thần học, về sự cộng tác hỗ tương giữa người nam và người nữ.
Sứ vụ truyền giáo của giới trẻ đối với người đồng trang lứa
56. Trong nhiều môi trường, có những nhóm trẻ, vốn thường thuộc về các phong trào hay hội đoàn của Giáo Hội, rất hăng hái trong việc loan báo Tin Mừng cho những người đồng trang lứa. Họ làm chứng qua một đời sống trong sáng, họ dùng một ngôn ngữ dễ hiểu và họ có khả năng thiết lập những mối tương quan tình bạn đích thực. Hình thức tông đồ này giúp đem Tin Mừng đến cho những người mà mục vụ giới trẻ thông thường khó có thể tiếp cận được, đồng thời cũng góp phần làm cho đức tin của những người xả thân vào công việc này được trưởng thành. Vì vậy, đây là việc cần phải trân quý, nâng đỡ, đồng hành trong khôn ngoan và không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.
Mong muốn một cộng đồng Giáo Hội chân chính và huynh đệ hơn
57. Giới trẻ yêu cầu Giáo Hội phải chân chính, gương mẫu, có năng lực, biết chia sẻ trách nhiệm và có một văn hóa vững chắc, hầu có thể tỏa sáng. Thỉnh cầu này đôi khi nghe tưởng như một lời chỉ trích, nhưng nó cũng thường mang sắc thái tích cực cho thấy ở đây có một thái độ dấn thân cá nhân để xây dựng một cộng đồng huynh đệ, cởi mở, vui tươi và dấn mình như các ngôn sứ để đấu tranh chống lại bất công xã hội. Nổi bật nhất trong số những mong đợi của giới trẻ là mong muốn Giáo Hội có được một lối đối thoại ít thể hiện tính gia trưởng hơn và thẳng thắn hơn.
 

PHẦN II

“MẮT HỌ MỞ RA”

 
58. “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất trước mắt họ.” (Lc 24,27-31).
Sau khi lắng nghe họ, Chúa nói với hai lữ khách một lời “đanh thép” và quả quyết, một lời đầy uy quyền và biến đổi họ. Như thế, vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ, Chúa vào nhà họ, ở lại với họ và chia sẻ với họ tấm bánh nuôi sống: chính dấu chỉ Thánh Thể đã giúp hai môn đệ rồi cũng mở mắt ra.

Một lễ Ngũ tuần mới

Hoạt động của Chúa Thánh Thần
59. Chúa Thánh Thần soi sáng tâm hồn, mở mắt và thắp lên đức tin của hai lữ khách. Người hoạt động ngay từ thuở tạo thiên lập địa ngõ hầu kế hoạch của Chúa Cha là quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô được hoàn thành. Người hành động mọi nơi mọi lúc, trong những bối cảnh và văn hóa khác nhau. Đồng thời, giữa những khó khăn và đau khổ, Người cũng thúc đẩy con người dấn thân cho công lý, tìm kiếm chân lý, can đảm hy vọng. Chính vì vậy mà thánh Phaolô khẳng định rằng “cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Niềm ao ước sống yêu thương và nỗi khắc khoải tốt lành trong lòng người trẻ nói lên phần nào khát vọng được đạt đến niềm vui viên mãn của mọi loài thụ tạo. Trong mỗi người trẻ, ngay cả trong những người trẻ không biết Chúa Kitô, Thần Khí Sáng tạo hoạt động để dẫn đưa họ đến chân, thiện, mỹ.
Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội nên tươi trẻ
60. Tuổi trẻ là một thời kỳ độc đáo và đầy hứng khởi trong cuộc đời, chính Chúa Giêsu đã trải qua và thánh hóa thời kỳ này. Sứ điệp gửi người trẻ của Công đồng Vatican II (ngày 7 tháng 12 năm 1965) trình bày Giáo Hội như “giới trẻ thực sự của thế giới”, có “khả năng vui mừng vì những gì đang bắt đầu, hiến thân mà không cần đền đáp, làm mới mình và lại ra đi chinh phục thế giới”. Với sự tươi trẻ và đức tin của mình, giới trẻ góp phần vào việc tỏ lộ dung mạo tươi trẻ của Giáo Hội, vốn phản ánh “Đấng Hằng Sống cao vời, Chúa Kitô tươi trẻ muôn thuở”. Vì vậy, vấn đề không phải là tạo ra một Giáo Hội mới cho giới trẻ, mà là cùng với họ khám phá lại nét tươi trẻ của Giáo Hội, bằng cách mở lòng ra đón nhận ân sủng của một lễ Ngũ tuần mới.
Chúa Thánh Thần trong đời sống người tín hữu
61. Ơn gọi của Kitô hữu là đi theo Chúa Kitô bằng cách vượt qua nước của bí tích Rửa tội, lãnh nhận ấn tín của bí tích Thêm Sức và trở nên thân thể của Người trong bí tích Thánh Thể: “Chúa Thánh Thần ngự đến, trước là nước sau là lửa, và anh em trở nên bánh, tức là thân thể của Chúa Kitô” (Thánh Augustinô, Bài giảng 227). Trong hành trình khai tâm Kitô giáo, chính bí tích Thêm Sức trước hết cho phép các tín hữu có kinh nghiệm về ngày lễ Ngũ tuần và một cuộc tuôn đổ Thánh Thần mới, giúp họ lớn lên và thi hành sứ vụ truyền giáo. Điều quan trọng là phải khám phá lại sự phong phú của bí tích này, phải hiểu rõ mối liên hệ của bí tích này với ơn gọi cá nhân của mọi người đã lãnh nhận Phép Rửa và với thần học về đặc sủng; mục vụ phải chăm lo sao cho bí tích này không trở nên một việc làm chiếu lệ và thiếu ý nghĩa. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong mọi hành trình ơn gọi: Người là “thầy dạy nội tâm”, chúng ta phải để cho Người dẫn dắt.
Một kinh ngiệm đích thực về Thiên Chúa
62. Điều kiện đầu tiên để phân định ơn gọi trong Chúa Thánh Thần là phải có một kinh nghiệm đức tin đích thực trong Chúa Kitô đã chết và phục sinh; cần nhớ rằng đức tin “không phải là ánh sáng có thể xua tan mọi bóng tối trong chúng ta, nhưng là ngọn đèn hướng dẫn chúng ta bước đi trong đêm tối, và hành trình của chúng ta chỉ cần có vậy” (Đức Phanxicô, Lumen Fidei, số 57). Trong các cộng đồng Kitô hữu, đôi khi chúng ta có thể vô tình đề nghị một thuyết hữu thần mang tính đạo đức và trị liệu; thuyết này nhằm đáp ứng nhu cầu về an toàn và nhu cầu tìm kiếm an ủi nơi con người, hơn là dẫn đến một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nếu đúng là chỉ có sự sống mới khơi dậy được sự sống, thì rõ ràng người trẻ cần gặp được những cộng đồng Kitô hữu mà đời sống được nuôi dưỡng sâu xa nhờ tình thân với Chúa Kitô, Đấng đang hướng dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.

Chương I

Hồng ân tuổi trẻ

Đức Giêsu trẻ ở giữa người trẻ
Tuổi trẻ của Đức Giêsu
63. Là “người trẻ ở giữa người trẻ để trở nên gương mẫu cho người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa” (Thánh Irênê, Chống Lạc Giáo, II, 22, 4), Chúa Kitô đã thánh hóa tuổi trẻ chính vì Người đã sống tuổi trẻ. Trong Kinh Thánh, chỉ có duy nhất một đoạn kể lại về thời niên thiếu của Chúa Giêsu (x. Lc 2,41-52), Người đã có một cuộc sống âm thầm, giản dị của một người lao động tại Nadarét, đến nỗi người ta chỉ biết Người là “anh thợ mộc” (Mc 6,3) và “con bác thợ mộc” (Mt 13,55).
Khi chiêm ngắm cuộc đời của Người, ta có thể thấy rõ hơn tuổi trẻ quả là một ơn ban lớn lao: Đức Giêsu đã tin tưởng Chúa Cha cách tuyệt đối, Người đã nâng niu tình bạn giữa Người và các môn đệ và ngay cả khi có biến động, Người vẫn trung thành với tình bạn ấy. Người đã biểu lộ một lòng trắc ẩn sâu xa đối với những người yếu kém nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh tật, người tội lỗi và người bị loại trừ. Người đã dũng cảm đương đầu với giới cầm quyền trong tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người đã trải qua kinh nghiệm bị hiểu lầm và bị chối bỏ; Người đã cảm thấy sợ hãi trước đau khổ và đã biết đến sự mong manh của Khổ nạn; Người đã hướng mắt nhìn về tương lai, phó thác trong vòng tay vững chãi của Chúa Cha và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, mọi người trẻ có thể tìm thấy chính mình, với những lo sợ và hy vọng, những hoang mang và mơ ước, và họ có thể phó thác nơi Người. Chiêm ngắm những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người trẻ sẽ là nguồn cảm hứng cho họ.
Với cái nhìn của Chúa
64. Lắng nghe Chúa Kitô và hiệp thông với Người cũng giúp cho các mục tử và các nhà giáo dục có được một cái nhìn khôn ngoan về thời kỳ này của cuộc đời. Thượng hội đồng đã cố gắng nhìn giới trẻ với thái độ của Chúa Giêsu, để phân định trong đời sống họ những dấu chỉ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chúng tôi tin rằng ngay cả hôm nay, Thiên Chúa vẫn đang nói với Giáo Hội và thế giới qua giới trẻ, qua sức sáng tạo và những hành động dấn thân, cũng như qua những đau khổ và những lời yêu cầu giúp đỡ của họ. Với họ, chúng ta có thể nhìn thời đại hiện nay với con mắt tiên tri hơn và nhận ra những dấu chỉ của thời đại; đó là lý do tại sao giới trẻ là một trong những “địa điểm thần học”, nơi mà Chúa cho chúng ta biết một số mong đợi và thách thức của Người để xây dựng ngày mai.
Những đặc tính của tuổi trẻ
65. Tuổi trẻ, thời kỳ phát triển nhân cách, mang dấu ấn của những ước mơ đang dần dần hình thành, nhờ những tương quan ngày càng vững chắc và quân bình hơn, nhờ những nỗ lực và thử nghiệm, nhờ những chọn lựa để từng bước lập kế hoạch cho cuộc đời mình. Vào giai đoạn này trong đời, người trẻ được kêu gọi phóng mình đến tương lai, mà không cắt đứt với nguồn cội của mình, được kêu gọi trở nên tự chủ, nhưng không phải một mình. Bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa không phải lúc nào cũng đem lại những điều kiện thuận lợi. Nhiều vị thánh trẻ đã cho thấy vẻ đẹp rực rỡ của tuổi trẻ và, thời ấy, các ngài là những ngôn sứ đích thực thay đổi đời sống; gương sáng của các ngài cho thấy người trẻ có khả năng làm được những gì khi họ mở lòng ra để gặp gỡ Chúa Kitô.
Cả những người trẻ bị khuyết tật hay đau yếu cũng có thể đem lại những đóng góp quý báu. Thượng hội đồng mời gọi các cộng đồng tạo điều kiện để phát huy những sáng kiến nhằm làm cho họ được nhìn nhận và cho phép họ trở thành tác nhân chính, chẳng hạn như qua việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính, qua việc dạy giáo lý với những chương trình dành riêng cho họ, qua việc cho họ tham gia hội đoàn hay một nghề nghiệp.
Nỗi khắc khoải tốt lành của giới trẻ
66. Giới trẻ có một nỗi khắc khoải mà, trước hết, chúng ta phải lắng nghe, tôn trọng và đồng hành, đồng thời tin chắc vào sự tự do và trách nhiệm của họ. Qua kinh nghiệm, Giáo Hội biết rằng sự đóng góp của họ là thiết yếu để làm mới mình. Trong một số khía cạnh, giới trẻ có thể đi trước các mục tử. Sáng ngày Phục Sinh, người Môn đệ trẻ yêu dấu đã chạy đến ngôi mộ trước thánh Phêrô, bởi vì tuổi tác và sự phản bội đã làm cho thánh Phêrô ra nặng nề (x. Ga 20,1-10); cũng vậy, trong cộng đồng Kitô hữu, sự năng động của giới trẻ là năng lượng có sức đổi mới Giáo Hội, vì nó giúp Giáo Hội thoát ra khỏi những gì là nặng nề và chậm chạp để mở lòng ra đón nhận Đấng Phục Sinh. Đồng thời, thái độ của người Môn đệ yêu dấu cho thấy điều quan trọng là phải luôn học hỏi kinh nghiệm của những bậc lão thành, phải nhận ra vai trò của các mục tử và không đi trước một mình. Có như thế chúng ta mới phối hợp được nhiều tiếng nói, và đó là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
Những người trẻ bị tổn thương
67. Như nơi những người khác, đời sống của người trẻ cũng mang dấu ấn của nhiều thương tích. Đó là những thương tích gây ra bởi những thất bại trong lịch sử của chính mình, bởi những ước muốn không thành, bởi những kỳ thị và những bất công phải chịu, hoặc vì không cảm thấy được yêu thương hay công nhận. Đó là những thương tích thể lý lẫn tâm lý. Chúa Kitô đã chấp nhận trải qua khổ nạn và cái chết, để nhờ Thập giá, Người trở nên gần gũi với tất cả người trẻ đang đau khổ. Có cả những thương tích tinh thần, đó là sức nặng của những lỗi lầm đã phạm, của mặc cảm tội lỗi sau khi phạm sai lầm. Ngày nay hơn bao giờ hết, hòa giải với những thương tích của chính mình là điều kiện cần thiết để có một cuộc sống tốt đẹp. Giáo Hội được kêu gọi để nâng đỡ tất cả những người trẻ đang bị thử thách và để thực thi những hành động mục vụ thích hợp.

Trở nên trưởng thành

Tuổi chọn lựa
68. Tuổi trẻ là một giai đoạn trong cuộc đời và phải kết thúc để nhường chỗ cho tuổi trưởng thành. Giai đoạn chuyển tiếp này không chỉ là một tiến trình hộ tịch, mà còn bao hàm một tiến trình trưởng thành, nhưng môi trường mà giới trẻ đang sống không phải lúc nào cũng thuận lợi cho tiến trình này. Thật vậy, ở nhiều nơi, đã được phổ biến một văn hóa chủ trương sự tạm bợ và điều này khiến người ta dễ dàng kéo dài vô thời hạn tuổi niên thiếu và trì hoãn các quyết định; nỗi lo sợ trước những gì là dứt khoát và vĩnh viễn đã tạo ra như thế một tình trạng tê liệt khiến họ không thể quyết định. Tuy nhiên, giới trẻ không thể sống lơ lửng lâu được: đây là tuổi phải lựa chọn và chính điều này làm nên sự hấp dẫn và cũng là nhiệm vụ lớn nhất của giới trẻ. Giới trẻ phải lấy quyết định trong các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội, chính trị, nhưng họ cũng phải lấy những quyết định khác, triệt để hơn, những quyết định mà sẽ định đoạt hướng đi dứt khoát cho cuộc đời họ. Khi nói đến các “chọn lựa sống” là người ta muốn nói đến những quyết định này đây: thật vậy, cuộc đời, với tính độc nhất vô nhị của nó, được định hướng vĩnh viễn bởi chính những quyết định này.
Cuộc đời dưới dấu chỉ của sứ mạng
69. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ nhìn cuộc đời mình trong viễn cảnh sứ mạng: “Biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta lãng phí thì giờ để tự hỏi: ‘Mà tôi là ai nhỉ?’ Nhưng bạn có thể tự hỏi mình là ai và mất cả đời để tìm xem mình là ai. Bạn nên tự hỏi như thế này thì hơn: ‘Tôi sống vì ai vậy?’” (Diễn từ trong Đêm canh thức cầu nguyện để chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới, Vương cung thánh đường Đức Bà Cả, ngày 8 tháng 4 năm 2017). Khẳng định này soi sáng cách sâu xa các chọn lựa sống, bởi vì nó mời gọi chúng ta đảm nhận những chọn lựa ấy trong viễn cảnh hiến mình vì người khác, một viễn cảnh làm chúng ta được tự do. Đây là con đường duy nhất để đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu! Thật vậy, “sứ mạng của tôi trong lòng dân tộc chẳng phải là một phần của cuộc sống tôi, cũng chẳng phải là một vật trang sức mà tôi có thể cởi bỏ, cũng chẳng phải là một khúc ruột thừa hay một khoảng thời gian trong cuộc đời. Sứ mạng là điều gì đó mà tôi không thể lấy ra khỏi con người mình mà lại không tự hủy hoại mình. Tôi là một sứ mạng trên trái đất này, và vì vậy tôi có mặt trên thế gian này” (Đức Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 273).
Một phương pháp sư phạm có khả năng chất vấn
70. Sứ mạng là một la bàn đáng tin cậy để theo trên con đường đời, nhưng không phải là một “hoa tiêu” có thể dự đoán để chỉ ra cho ta thấy được toàn bộ hành trình. Tự do luôn có một chiều kích rủi ro mà ta phải can đảm chỉ ra, và từng bước đồng hành với nó trong khôn ngoan. Nhiều trang Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu mời gọi ta dám liều mình, ra khơi, chuyển từ lối sống tuân giữ giới luật sang lối sống hiến mình một cách quảng đại và vô điều kiện, và Người không hề che giấu đòi hỏi phải vác lấy thập giá mình (x. Mt 16,24). Người rất triệt để: “Người cho đi tất cả và đòi hỏi tất cả: Người cho đi một tình yêu trọn vẹn và đòi hỏi một con tim không chia sẻ” (Đức Phanxicô, Bài giảng lễ ngày 14 tháng 10 năm 2018). Trong khi không làm cho giới trẻ bị lầm lạc khi đưa ra những đề nghị tối thiểu hoặc không bóp nghẹt họ khi trình bày hàng loạt quy tắc khiến họ có một hình ảnh thô thiển và nặng tính luân lý về Kitô giáo, chúng ta nên tin vào sự táo bạo của họ, thúc đẩy và dạy họ biết gánh lấy trách nhiệm, đồng thời chúng ta cũng tin chắc rằng sai lầm, thất bại và khủng hoảng là những kinh nghiệm có thể giúp họ lớn lên về mặt nhân bản.
Ý nghĩa thực sự của uy quyền
71. Để thực hiện một tiến trình trưởng thành thực sự, người trẻ cần những người lớn thể hiện uy quyền. Theo nguyên nghĩa, auctoritas (uy quyền) chỉ khả năng làm cho lớn lên; nó không diễn tả ý tưởng về một uy lực nhằm chỉ huy, mà một sức mạnh thực sự có khả năng tác sinh. Khi Chúa Giêsu gặp người trẻ, dù họ đang ở trong tình trạng và điều kiện nào, ngay cả khi họ đã chết, bằng cách này hay cách khác, Người nói với họ: “Hãy đứng dậy! Hãy lớn lên!” Và lời Người đã thực hiện những gì Người nói (x. Mc 5,4; Lc 7,14). Trình thuật chữa lành đứa bé bị động kinh do quỷ ám (x. Mc 9,14-29) gợi lên nhiều hình thức tha hóa của giới trẻ ngày nay; trong trình thuật này, rõ ràng bàn tay của Chúa Giêsu nắm lấy tay đứa bé không nhằm lấy đi sự tự do, mà nhằm đẩy mạnh, giải thoát sự tự do. Chúa Giêsu thi hành trọn vẹn uy quyền của Người: Người không mong gì hơn là đứa bé ấy được lớn lên, mà không hề có ý chiếm hữu, lèo lái hay dụ dỗ nó.
Mối liên kết với gia đình
72. Gia đình là cộng đồng đức tin đầu tiên, bất chấp những giới hạn và bất toàn, nơi cộng đồng ấy, người trẻ kinh nghiệm được tình yêu Thiên Chúa và bắt đầu phân định ơn gọi của mình. Các Thượng hội đồng trước đây, rồi Tông huấn Amoris laetitia, không ngừng nhấn mạnh rằng, là Giáo Hội tại gia, gia đình có bổn phận phải sống niềm vui Tin Mừng trong đời sống hằng ngày và làm cho mọi người trong gia đình dự phần vào niềm vui ấy tùy theo phận sự của mỗi người, bằng cách giúp họ luôn sẵn sàng đón nhận ơn gọi và sứ mạng của mình.
Tuy nhiên, không phải mọi gia đình đều dạy con cái nhìn tương lai trong viễn cảnh ơn gọi. Đôi khi ham muốn chạy theo danh vọng xã hội hay thành công cá nhân, tham vọng của cha mẹ hay khuynh hướng định đoạt những chọn lựa của con cái, chiếm hết chỗ để phân định và ảnh hưởng lên những quyết định. Thượng hội đồng nhìn nhận cần phải giúp các gia đình ý thức rõ hơn để quan niệm đời sống là ơn gọi. Trình thuật Tin Mừng về thời niên thiếu của Chúa Giêsu (x. Lc 2,41-52) cho thấy Người đã vâng phục cha mẹ, nhưng cũng biết tách mình ra khỏi các ngài để lo cho việc của Chúa Cha; trình thuật này có thể cho chúng ta những ánh sáng quý giá để soi dẫn ta xây đắp các mối tương quan gia đình theo chiều hướng Tin Mừng.

Được kêu gọi sống tự do

Tin Mừng về tự do
73. Tự do là điều kiện chủ yếu để có thể thực hiện mọi chọn lựa đích thực cho cuộc sống. Tuy nhiên, tự do dễ bị người ta hiểu sai, nhất là vì nó không được luôn trình bày cách đúng đắn. Chính Giáo Hội rốt cuộc cũng đã bị nhiều người trẻ coi như là một thể chế áp đặt những quy tắc, những cấm đoán và những trói buộc. Nhưng Chúa Kitô đã “giải thoát chúng ta để chúng ta sống tự do” (Gl 5,1), Người giúp chúng ta đi từ chế độ Lề luật sang chế độ của Thánh Thần. Dưới ánh sáng Tin Mừng, ngày nay đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rõ hơn rằng tự do có liên hệ mật thiết với tương quan và phải cho thấy rằng đam mê và cảm xúc là quan trọng vì chúng giúp ta thực sự gặp gỡ người khác. Cách nhìn này cho thấy rõ rằng sự tự do đích thực chỉ có thể hiểu được và đạt được khi được đặt trong tương quan với sự thật (x. Ga 8,31-32) và nhất là với đức ái (1Cr 13,1-13; Ga 5,13): tự do, nghĩa là mình được là chính mình trong lòng ai đó.
Một sự tự do có tính tương tác
74. Qua tình huynh đệ và tình đoàn kết, đặc biệt là với những người bé mọn nhất, giới trẻ khám phá rằng tự do đích thực đến từ việc mình cảm thấy được lắng nghe, và tự do phát triển khi mình biết xóa mình trước người khác. Họ cũng có được kinh nghiệm tương tự, khi họ cố gắng sống tiết độ hoặc tôn trọng môi trường. Họ sẽ khám phá ra trong lòng họ có một lời mời gọi yêu thương âm thầm đến từ Thiên Chúa khi họ biết nhận ra giá trị của nhau và cùng nhau dấn thân. Nhờ đó, chúng ta sẽ dễ nhận ra hơn chiều kích siêu việt vẫn tiềm tàng trong tự do từ nguyên thủy và trỗi dậy trở lại cách hiển nhiên hơn khi tiếp xúc với những kinh nghiệm mãnh liệt nhất trong đời sống: sinh và tử, tình bạn và tình yêu, lỗi lầm và tha thứ. Những kinh nghiệm này giúp chúng ta nhận ra rõ hơn rằng bản chất của tự do là tương tác tận căn.
Tự do và đức tin
75. Hơn 50 năm trước, thánh Phaolô VI đã đưa ra cụm từ “đối thoại cứu độ” và ngài đã hiểu sứ mạng của Chúa Con trên trần gian như để diễn tả một “lời cầu xin tình yêu tuyệt vời”. Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng: ta có “tự do đáp lại hay khước từ” (x. Ecclesiam suam, số 77). Trong lăng kính này, xem ra hành vi đức tin cá nhân mang tính tự do và giải thoát: hành vi ấy sẽ là khởi điểm giúp chúng ta thấm nhuần từ từ nội dung đức tin. Vì thế, đức tin không phải là một yếu tố bên ngoài như được tháp nhập vào tự do, nhưng khi đón nhận chân thiện mỹ cách viên mãn trong Chúa Giêsu, đức tin đáp lại ước muốn của ý thức vốn khao khát chân thiện mỹ. Chứng tá của nhiều vị tử đạo trẻ tuổi của quá khứ và hiện tại đã vang lên mạnh mẽ trong Thượng hội đồng và là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy đức tin làm cho chúng ta được tự do trước các thế lực, các bất công trần thế và ngay cả trước cái chết.
Sự tự do bị tổn thương và được cứu chuộc
76. Tự do con người mang dấu ấn của những thương tích do tội cá nhân và ham muốn của dục vọng gây nên. Nhưng nếu nhờ ơn tha thứ và lòng thương xót, con người ý thức được những trở ngại giam hãm mình, họ sẽ ngày càng trưởng thành hơn và có thể dấn thân cách sáng suốt hơn vào những chọn lựa dứt khoát cho cuộc sống. Nhằm mục đích giáo dục, chúng ta phải giúp người trẻ không nản lòng trước những sai lầm và thất bại, dù chúng có làm cho họ cảm thấy nhục nhã, bởi vì chúng góp phần dẫn đưa họ đến một sự tự do trưởng thành hơn, một sự tự do ý thức được cả sự cao cả lẫn sự yếu đuối của nó.
Tuy nhiên, sự dữ không có tiếng nói cuối cùng: “Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người” (Ga 3,16). Người yêu chúng ta cho đến cùng và vì thế Người đã chuộc lại tự do của chúng ta. Khi chết vì chúng ta trên Thập giá, Người đã tuôn đổ Thánh Thần và “ở đâu có Thánh Thần Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17): một tự do mới, mang tính vượt qua, đạt được qua việc hiến mình hằng ngày.
 

Chương II

Mầu nhiệm ơn gọi

Tìm hiểu ơn gọi
Ơn gọi, hành trình và khám phá
77. Trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ Samuel (1Sm 3,1-21) giúp chúng ta hiểu được những yếu tố căn bản trong phân định: phải lắng nghe và nhận ra sáng kiến của Thiên Chúa; ơn gọi phải là một kinh nghiệm cá nhân; ơn gọi phải được hiểu ra dần dần; người đồng hành ơn gọi phải kiên nhẫn và tôn trọng mầu nhiệm đã và đang hoạt động; ơn gọi phải hướng đến phục vụ cộng đồng. Ngôn sứ Samuel không bị áp đặt ơn gọi như một định mệnh phải chịu, nhưng ngài đón nhận ơn gọi như một đề nghị yêu thương, một cuộc sai đi thi hành sứ mạng trong một lịch sử, dựa trên lòng tin tưởng lẫn nhau hằng ngày.
Như đối với thiếu niên Samuel, đối với mọi người, ơn gọi cần một hành trình dài, tuy cũng có những lúc mãnh liệt và đặc biệt. Lời Chúa cần thời gian để hiểu và để giải thích; sứ mạng mà một người được gọi để thi hành được tỏ lộ từ từ. Người trẻ rất thích mạo hiểm để khám phá mình dần dần. Họ sẵn sàng học hỏi từ các hoạt động mà họ thực hiện, từ các cuộc gặp gỡ và các mối tương quan, qua việc thử thách mình hằng ngày. Nhưng họ cần được giúp đỡ để thống nhất những kinh nghiệm đa dạng này và nhìn chúng trong lăng kính đức tin, để tránh nguy cơ bị phân tán, và để nhận ra các dấu chỉ qua đó Thiên Chúa đang nói với mình. Khi khám phá ơn gọi, không phải mọi sự đều rõ ràng ngay, bởi vì “đức tin chỉ ‘thấy được’ khi ta tiến bước, khi ta bước vào trong không gian do Lời Chúa mở ra cho ta” (Đức Phanxicô, Lumen fidei, 9).
Ơn gọi, ân sủng và tự do
78. Qua dòng thế kỷ, sự hiểu biết mầu nhiệm ơn gọi về mặt thần học đã có những điểm nhấn khác nhau, tùy theo bối cảnh của xã hội và Giáo Hội mà chủ đề này được suy tư. Dù sao, chúng ta phải nhìn nhận từ “ơn gọi” có nhiều nghĩa gần giống nhau và ơn gọi có rất nhiều chiều kích đặc trưng. Điều này có thể giúp cho thấy rõ một số khía cạnh, trong những quan điểm vốn không phải lúc nào cũng bảo toàn được tính phức hợp của tổng thể với cùng một sự cân bằng. Vì vậy, muốn hiểu sâu về mầu nhiệm ơn gọi, một thực tại vốn bắt nguồn từ Thiên Chúa, ta phải tìm lại được sự phong phú và tính cân bằng trong cách thuật lại các câu chuyện trong Kinh Thánh để làm cho lĩnh vực hư cấu và ngôn ngữ tôn giáo được trong sáng hơn. Đặc biệt ta phải gạt qua một bên mọi loại thuyết tất định (déterminisme) và thuyết ngoại tại (extrinsécisme) khi suy tư về mối liên kết chặt chẽ giữa sự chọn lựa của Thiên Chúa và sự tự do của con người. Ơn gọi không phải là một bản nhạc được viết sẵn mà con người chỉ cần hát thuộc lòng, cũng không phải là một màn kịch ngẫu hứng không đầu không đuôi. Bởi vì Thiên Chúa gọi ta làm bạn hữu chứ không phải làm tôi tớ của Người (xem Ga 15,13), cho nên những chọn lựa của ta thực sự giúp khai triển kế hoạch yêu thương của Người trong lịch sử. Hơn nữa, nhiệm cục cứu độ là một Mầu nhiệm ta không tài nào hiểu nổi; vì vậy chỉ nhờ lắng nghe Chúa mà ta biết mình được mời gọi vào vai trò gì. Khi được nhận ra như thế, ơn gọi thực sự xuất hiện như một quà tặng của ân sủng và giao ước, như bí quyết tuyệt vời nhất và quý giá nhất giúp ta tự do.
Tạo dựng và ơn gọi
79. Khi khẳng định rằng mọi sự được tạo thành bởi Chúa Kitô và cho Chúa Kitô (x. Cl 1,16), Kinh Thánh mời gọi chúng ta nhìn mầu nhiệm ơn gọi như một thực tại đặc trưng cho việc tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng bởi Lời của Người, Lời “gọi” vào sự hiện hữu và sự sống cùng “tách biệt” trong tình trạng hỗn độn mà chưa gì được phân biệt, muốn thế Người in trên vũ trụ một trật tự tuyệt diệu và tạo ra muôn vật tuy đa dạng nhưng hài hòa với nhau. Nếu thánh Phaolô VI đã khẳng định rằng “mọi đời sống đều là ơn gọi” (x. Populorum progressio, 15), thì Đức Bênêđictô XVI lại nhấn mạnh rằng con người được tạo dựng như một hữu thể đối thoại: Lời tạo dựng “gọi mỗi người cách riêng, như thế cho thấy rằng dưới mắt Thiên Chúa đời sống chính là ơn gọi” (x. Verbum Domini, 77).
Nhắm đến văn hóa ơn gọi
80. Nói đến cuộc đời con người trên bình diện ơn gọi sẽ làm nổi bật một số yếu tố rất quan trọng giúp người trẻ phát triển: như thế không thể nói rằng cuộc đời đã được vạch sẵn bởi định mệnh hay nó là kết quả của một sự tình cờ, nó cũng chẳng phải là tài sản riêng mà ta có thể tự mình quản lý. Nếu nói cuộc đời đã được vạch sẵn bởi định mệnh, thì trong trường hợp này sẽ không có ơn gọi, vì như thế là không công nhận cuộc đời có một điểm đến xứng hợp với nó, còn nếu nói nó là kết quả của một sự tình cờ thì trong trường hợp này, con người được coi như là “không có những mối liên hệ” nên hóa ra là “không có ơn gọi”. Đó là lý do tại sao nên tạo điều kiện để, khởi đi từ ý thức về bí tích Rửa Tội của mỗi phần tử, tất cả mọi cộng đồng Kitô hữu sẽ phát triển một văn hóa ơn gọi thực sự và dấn thân cầu nguyện liên lỉ cho các ơn gọi.
Ơn gọi bước theo Chúa Giêsu
Sức lôi cuốn của Chúa Giêsu
81. Rất nhiều người trẻ bị lôi cuốn bởi nhân vật Giêsu. Họ thấy đời sống của Chúa Giêsu rất tuyệt vời, vì Chúa sống nghèo khó và giản dị, với những tình bạn chân thành và đậm đà, Chúa quảng đại hiến mình vì anh em, không bao giờ khép lòng lại với bất cứ ai, nhưng luôn sẵn lòng trao ban tất cả. Đời sống của Chúa Giêsu ngày nay vẫn còn vô cùng hấp dẫn và truyền cảm hứng; đối với tất cả người trẻ, đời sống của Chúa là một lời thách đố chất vấn họ. Giáo Hội biết rằng được như vậy là do Chúa Giêsu có một mối liên hệ sâu xa với mỗi con người, bởi vì: “chính khi mạc khải mầu nhiệm về Chúa Cha và tình yêu Người, Chúa Kitô, là Ađam mới, đã tỏ lộ trọn vẹn con người cho chính họ và làm cho họ khám phá ra ơn gọi vô cùng cao cả của họ” (x. Gaudium et spes, số 22).
Đức tin, ơn gọi và địa vị môn đệ
82. Thật ra, Chúa Giêsu không chỉ lôi cuốn người khác bằng đời sống của Người, mà Người còn minh nhiên mời gọi họ đến với đức tin. Chúa Giêsu gặp những người đã nhận ra trong cử chỉ và lời nói của Người cách thích đáng để nói về Thiên Chúa và để tương quan với Người, khi họ đón nhận đức tin đem lại ơn cứu độ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con; con hãy đi bình an” (Lc 8,48). Ngược lại, có những người khác khi gặp Chúa Giêsu thì được Người gọi để trở nên môn đệ và chứng nhân của Người. Với những ai muốn làm môn đệ Người, Người không hề che giấu đòi buộc phải vác thập giá mình mỗi ngày và phải bước theo Người trên con đường vượt qua từ cái chết đến phục sinh. Đức tin của chứng nhân tiếp tục sống trong Giáo Hội, trở nên dấu chỉ và khí cụ cứu độ cho muôn dân. Khi đã thuộc về cộng đồng của Chúa Giêsu, ta luôn có nhiều cách để đi theo Chúa Kitô, dưới nhiều hình thức sequela khác nhau. Phần lớn các môn đệ sống đức tin trong các điều kiện thông thường của đời sống thường ngày; còn những người khác, kể cả nhiều người nữ, đã chia sẻ cuộc đời ngôn sứ rày đây mai đó cùng với Thầy (x. Lc 8,1-3); ngay từ đầu, các Tông Đồ đã có một vai trò đặc biệt trong cộng đồng và đã được Chúa Kitô cho tham dự vào sứ vụ hướng dẫn và rao giảng của Người.
Đức Trinh Nữ Maria
83. Trong tất cả các nhân vật Kinh Thánh minh họa cho mầu nhiệm ơn gọi, Mẹ Maria chiếm một vị trí đặc biệt. Mẹ là một thiếu nữ đã “xin vâng” khiến cho việc Nhập Thể có thể xảy ra, nhờ đó Mẹ đã tạo điều kiện để mọi ơn gọi khác được sinh ra trong Giáo Hội, Mẹ là người môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu và là khuôn mẫu cho mọi lối sống môn đệ. Trong hành trình đức tin của mình, Mẹ Maria đã đi theo Con Mẹ cho đến chân thập giá và sau biến cố Phục Sinh, Mẹ đã đồng hành cùng Giáo Hội đang khai sinh trong biến cố Hiện Xuống. Với tư cách là người mẹ và người thầy đầy lòng nhân hậu, Mẹ tiếp tục đồng hành cùng Giáo Hội và cầu khẩn Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho mọi ơn gọi được sống. Như thế, rõ ràng là “nguyên lý Maria” đóng một vai trò nổi bật và soi sáng toàn bộ đời sống Giáo Hội với những cách thể hiện khác nhau. Bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria, gương mặt thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ, cũng là một khuôn mẫu đáng noi gương trong việc đáp lại ơn gọi.

Ơn gọi và các ơn gọi

Ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội
84. Không thể hiểu trọn vẹn ý nghĩa ơn gọi của bí tích Rửa Tội, nếu không coi ơn gọi này là một lời kêu gọi nên thánh dành cho mọi người, không trừ một ai. Lời kêu gọi này chắc chắn hàm chứa lời mời gọi tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội; sứ mạng ấy có cùng đích trọng yếu là hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau. Thật vậy, các ơn gọi trong Giáo Hội là vô số cách diễn tả qua đó Giáo Hội thực hiện lời kêu gọi trở nên dấu chỉ thực sự của Tin Mừng đã được đón nhận trong một cộng đồng huynh đệ. Những thể thức khác nhau để bước theo Chúa Kitô (sequela Christi) đều diễn tả, theo cách riêng, sứ mạng làm chứng về biến cố Chúa Giêsu, Đấng đem lại ơn cứu độ cho mọi người.
Sự đa dạng của các đặc sủng
85. Trong các thư của ngài, thánh Phaolô đã nhắc lại nhiều lần chủ đề này, ngài gợi lên hình ảnh của Giáo Hội như một thân thể được hình thành bởi nhiều chi thể khác nhau và ngài còn nhấn mạnh rằng mọi chi thể đều cần thiết và, đồng thời, luôn được gắn liền với toàn thể, vì chỉ khi tất cả các chi thể hợp nhất với nhau thì thân thể mới sinh động và hòa hợp. Tông đồ Phaolô cho rằng sự hiệp thông này bắt nguồn từ chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: “Chắc chắn rằng có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.” (1Cr 12,4-6). Công đồng Vaticanô II và sau đó là Huấn quyền đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu để xây dựng một nền thần học đúng đắn về các đặc sủng và các thừa tác vụ trong Giáo Hội, hầu có thể đón nhận với lòng biết ơn và đề cao một cách khôn ngoan những ân sủng được ban cho, những ân sủng mà Chúa Thánh Thần không ngừng làm nảy sinh trong Giáo Hội, nhằm làm cho Giáo Hội luôn tươi trẻ.
Nghề nghiệp và ơn gọi
86. Đối với nhiều người trẻ, định hướng nghề nghiệp được sống trong viễn cảnh ơn gọi. Không hiếm trường hợp người trẻ từ chối khi được đề nghị những công việc hấp dẫn nhưng lại không phù hợp với các giá trị Kitô giáo, và khi chọn hành trình đào tạo, họ tự hỏi làm thế nào để đem các tài năng cá nhân phục vụ Nước Thiên Chúa cách hiệu quả. Đối với nhiều người trẻ, công việc là một cơ hội để nhận ra và phát huy những ơn ban đã lãnh nhận: bằng cách đó, con người tích cực tham gia vào mầu nhiệm tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Gia đình
87. Hai Đại hội mới đây của Thượng hội đồng giám mục về gia đình, và sau đó là Tông huấn “Niềm vui của Tình yêu” (Amoris Laetitia), đã mang lại rất nhiều đóng góp về ơn gọi gia đình trong Giáo Hội, và cho thấy sự đóng góp không thể thay thế của gia đình, vì gia đình được kêu gọi để làm chứng cho Tin Mừng qua tình yêu dành cho nhau, qua việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúng tôi khuyến khích tìm đọc các văn kiện phong phú gần đây, đồng thời, chúng tôi cũng muốn nhắc nhở nên dùng sứ điệp trong các văn kiện ấy để giúp người trẻ khám phá lại vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân và làm cho ơn gọi ấy trở nên dễ hiểu hơn đối với họ.
Đời sống thánh hiến
88. Ơn ban đời sống thánh hiến mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong Giáo Hội, dưới hình thức hoạt động lẫn chiêm niệm, có một giá trị ngôn sứ đặc biệt khi được sống cách vui tươi để làm chứng cho tình yêu vô vị lợi. Khi thực sự sống tình huynh đệ, các cộng đoàn tu trì và các hội đoàn mới thành lập sẽ trở thành trường dạy về tình hiệp thông, trở thành trung tâm cầu nguyện và chiêm niệm, trở thành nơi làm chứng cho sự đối thoại liên thế hệ và liên văn hóa cũng như nơi loan báo Tin Mừng và thực thi bác ái. Nhiều người thánh hiến, nam cũng như nữ, đang chăm sóc những người bé mọn nhất ở các ngoại vi trên thế giới; sứ vụ của họ cho thấy một cách cụ thể sự hy sinh tận tụy của một “Giáo Hội đang đi ra”. Nếu ở một số nơi, số lượng có giảm sút và có tình trạng mệt mỏi vì lão hóa, đời sống thánh hiến vẫn tiếp tục sinh hoa trái và đầy sức sáng tạo nhờ có giáo dân cùng gánh vác trách nhiệm, họ chia sẻ tinh thần và sứ vụ của các đặc sủng khác nhau. Giáo Hội và thế giới cần ơn ban về ơn gọi giáo dân này, vì đây là một nguồn lực lớn lao cho thời đại chúng ta.
Thừa tác vụ có chức thánh
89. Giáo Hội luôn đặc biệt quan tâm đến thừa tác vụ có chức thánh, vì ý thức rằng thừa tác vụ này là yếu tố làm nên căn tính của mình và cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Vì vậy, Giáo Hội luôn chú trọng đặc biệt đến việc huấn luyện và đồng hành cùng ứng sinh chức linh mục. Nhiều Giáo Hội ưu tư về tình trạng suy giảm số lượng linh mục khiến chúng ta phải suy nghĩ lại về ơn gọi cho thừa tác vụ có chức thánh và về mục vụ ơn gọi, để giúp giới trẻ được con người Giêsu lôi cuốn thực sự và chấp nhận lời Người kêu gọi trở nên mục tử của đoàn chiên Người. Ơn gọi phó tế vĩnh viễn cũng cần được chú trọng nhiều hơn vì đây là một nguồn lực chưa được phát triển hết tiềm năng.
Sống tình trạng “độc thân”
90. Thượng hội đồng đã suy tư về tình trạng của người sống “độc thân”, và nhìn nhận từ này có thể nói về nhiều hoàn cảnh sống rất khác nhau. Hoàn cảnh này có thể phụ thuộc vào nhiều lý do, tự nguyện hay không, và vào những nhân tố văn hóa, tôn giáo và xã hội. Do đó, hoàn cảnh này có thể diễn tả hàng loạt hành trình khác nhau. Giáo Hội nhìn nhận rằng, nếu được sống trong tinh thần đức tin và được hiểu như một ơn ban, tình trạng này có thể trở nên một trong nhiều con đường cho phép ân sủng của bí tích Rửa Tội trở nên cụ thể và dẫn đến sự thánh thiện mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi.
 

Chương III

Sứ vụ đồng hành

Giáo Hội đồng hành
Đối diện với những lựa chọn
91. Thế giới hiện nay được đặc trưng bởi tính đa nguyên ngày càng rõ nét và bởi những khả năng lựa chọn ngày càng nhiều; trong một thế giới như thế, chủ đề lựa chọn được đặt ra cách hết sức quyết liệt và ở những mức độ khác nhau, nhất là khi phải đối diện với những mảnh đời ngày càng phức tạp và vô cùng bấp bênh. Thật vậy, người trẻ thường lưỡng lự giữa những hướng đi vừa cực đoan vừa ngây ngô: một số cho rằng mình bị mắc bẫy trong một số phận đã được vạch sẵn và không thể thay đổi được, một số khác lại cảm thấy chới với vì, trong một bối cảnh cạnh tranh man rợ và tàn bạo, mình khó trở nên xuất chúng theo lý tưởng trừu tượng mong muốn.
Vì thế, đồng hành với người trẻ để giúp họ có được những lựa chọn có giá trị, lâu bền và dựa trên những nền tảng vững chắc là một nhu cầu ngày càng trở nên thúc bách. Hiện diện, nâng đỡ và đồng hành trong hành trình hướng về những lựa chọn đích thực là một cách thức để Giáo Hội thi hành chức năng làm mẹ, bằng cách sinh ra những người con cái Chúa để họ đạt đến tự do. Giúp người trẻ như thế cũng chỉ là kéo dài cách mà Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đã cư xử với dân Người: qua sự hiện diện liên lỉ và thân mật, sự gần gũi ân cần và yêu thương và sự dịu dàng vô biên.
Cùng nhau bẻ bánh
92. Như trình thuật về các môn đệ Emmau dạy ta, đồng hành đòi hỏi ta phải sẵn sàng cùng nhau đi một chặng đường dài, và như thế là sẵn sàng thiết lập một tương quan sâu xa. Gốc của từ “đồng hành” [tiếng Ý: accompagnare / tiếng Anh: accompany / tiếng Pháp: accompagner] gợi lên hình ảnh một tấm bánh được bẻ ra và được chia sẻ (cum pane), từ này có một biểu tượng rất phong phú về con người và về bí tích. Vì thế, toàn thể cộng đồng là nơi đầu tiên để đồng hành, bởi vì chính trong cộng đồng mà những tương quan được đan kết và phát triển, các tương quan ấy có thể nâng đỡ một người trên bước đường đời và cung cấp cho người ấy những điểm quy chiếu và những định hướng. Đồng hành với người trẻ trong suốt tiến trình phát triển về mặt nhân bản và Kitô giáo để họ đi đến đời sống trưởng thành là một trong những cách thức để cộng đồng chứng tỏ khả năng đổi mới chính mình và đổi mới thế giới.
Bí tích Thánh Thể là cuộc tưởng niệm sống động biến cố Vượt qua, là nơi tốt nhất để loan báo Tin Mừng và thông truyền đức tin nhằm chuẩn bị cho sứ mạng. Khi cộng đoàn họp nhau cử hành Thánh lễ, chính kinh nghiệm được Chúa Giêsu chạm đến, dạy dỗ và chữa lành cách riêng sẽ đồng hành với mỗi người trong hành trình trưởng thành của bản thân họ.
Môi trường và vai trò
93. Ngoài các phần tử trong gia đình, tất cả những người đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người trẻ ở nhiều môi trường khác nhau, chẳng hạn như thầy cô giáo, người hướng dẫn, huấn luyện viên và những người tham vấn khác, nhất là trong lĩnh vực nghề nghiệp, đều được mời gọi đồng hành với người trẻ. Như những người trẻ có mặt trong Thượng hội đồng đã yêu cầu nhân danh nhiều bạn trẻ khác, các linh mục và tu sĩ nam nữ, tuy không chiếm độc quyền, nhưng có phận sự đặc biệt phải đồng hành với người trẻ, phận sự này bắt nguồn từ ơn gọi của họ và họ cần phải tái khám phá. Kinh nghiệm của một số Giáo Hội cho thấy vai trò của giáo lý viên là quan trọng để đồng hành với các cộng đồng Kitô hữu và với những phần tử trong các cộng đồng ấy.
Đồng hành để giúp hòa nhập xã hội
94. Đồng hành không thể chỉ giới hạn trong tiến trình trưởng thành thiêng liêng và trong việc hành đạo. Đồng hành trong suốt tiến trình người trẻ từng bước đảm nhận trách nhiệm trong xã hội cũng hữu ích không kém, chẳng hạn như trong môi trường nghề nghiệp hoặc trong việc tham gia chính trị và xã hội. Theo chiều hướng đó, Thượng hội đồng khuyến cáo nên chú trọng đến học thuyết xã hội của Giáo Hội. Trong nhiều xã hội và nhiều cộng đồng Giáo Hội ngày càng có tính liên văn hóa và đa tôn giáo, người trẻ cần được đồng hành cách chuyên biệt để sống tốt sự đa dạng, ngõ hầu thể hiện được khả năng đóng góp cho xã hội và sống tình hiệp thông huynh đệ, nhằm chống lại hai cám dỗ là co cụm vào chính mình và coi mọi sự là tương đối.
Đồng hành với cộng đoàn, nhóm và cá nhân
Một áp lực hữu ích
95. Đồng hành riêng và chung trong cộng đoàn bổ túc cho nhau cách chặt chẽ, do đó mọi linh đạo hay trào lưu Giáo Hội đều được kêu gọi kết hợp hai hình thức đồng hành này sao cho thích hợp. Đồng hành riêng đặc biệt hữu ích vào một số thời điểm vô cùng tế nhị, chẳng hạn như khi phải phân định để thực hiện những chọn lựa căn bản hoặc khi phải vượt qua những thời điểm quan trọng. Đồng hành riêng dù sao cũng là quan trọng trong đời sống hằng ngày để giúp đào sâu tương quan với Chúa.
Cũng cần nhấn mạnh đến nhu cầu cấp bách phải đồng hành riêng với chủng sinh và linh mục trẻ, với tu sĩ đang theo huấn luyện, cũng như với những cặp trong giai đoạn chuẩn bị kết hôn và trong thời gian đầu sau khi cử hành bí tích Hôn phối, dựa theo tiến trình giáo lý dự tòng.
Đồng hành với cộng đoàn và với nhóm
96. Chúa Giêsu đã đồng hành với nhóm môn đệ của Người bằng cách chia sẻ với họ cuộc sống thường ngày. Kinh nghiệm sống cộng đoàn cho thấy rõ các đức tính và các giới hạn của mỗi người và giúp họ khiêm tốn nhận ra rằng, nếu họ không chia sẻ những ơn ban đã lãnh nhận để mưu ích cho mọi người, thì họ không thể đi theo Chúa được. Đường lối của Giáo Hội tiếp nối kinh nghiệm này khi người trẻ hòa nhập vào các nhóm, các phong trào và hội đoàn đủ loại, ở đó họ được trải nghiệm một môi trường ấm cúng và niềm nở cùng những tương quan mật thiết mà họ mong muốn. Sau khi người trẻ đã hoàn tất tiến trình dẫn nhập vào Kitô giáo, giúp họ hòa nhập vào những môi trường như thế là điều đặc biệt quan trọng, vì như vậy, người trẻ sẽ có được một nơi thuận lợi để tiếp tục làm cho ơn gọi Kitô giáo của họ được trưởng thành. Phải khuyến khích các mục tử nên hiện diện trong những môi trường này, hầu bảo đảm một sự đồng hành thích hợp.
Trong nhóm, nhà giáo dục và người hướng dẫn đồng hành với tư cách là người tham vấn, trong khi các tương quan bạn bè được phát triển trong nhóm tạo cơ sở để những người cùng trang lứa đồng hành với nhau.
Đồng hành thiêng liêng cá nhân
97. Đồng hành thiêng liêng là một tiến trình giúp một người dần dần hòa nhập vào các chiều kích khác nhau của cuộc sống để đi theo Chúa Giêsu. Tiến trình này gồm ba khía cạnh: lắng nghe cuộc sống, gặp gỡ Chúa Giêsu và lắng nghe sự đối thoại nhiệm mầu giữa tự do của Thiên Chúa và tự do của cá nhân. Người đồng hành phải biết kiên nhẫn đón nhận, nêu ra những câu hỏi thực sự và nhận ra những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần trong câu trả lời của người trẻ.
Trong việc đồng hành thiêng liêng cá nhân, phải học cách nhận ra, giải thích và lựa chọn, dưới ánh sáng đức tin và qua việc lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần gợi ý trong đời sống thường ngày (x. Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, Số 169-173). Đặc sủng đồng hành thiêng liêng, ngay cả trong truyền thống, không nhất thiết phải gắn liền với thừa tác vụ có chức thánh. Chưa bao giờ cần hơn lúc này những vị linh hướng, nam và nữ, có kinh nghiệm sâu xa về đức tin và về nhân bản, chứ không chỉ là những người được huấn luyện về mặt tri thức. Thượng hội đồng mong muốn, cả trong môi trường này, phải tái khám phá nguồn lực lớn lao ấy, vốn sản sinh đời sống thánh hiến, đặc biệt nơi phái nữ, và sản sinh những giáo dân, lớn tuổi và trẻ tuổi, được chuẩn bị kỹ càng.
Đồng hành và Bí tích Hòa Giải
98. Bí tích Hòa giải đóng một vai trò thiết yếu để tiến bước trong đời sống đức tin, vì đời sống ấy không chỉ được đặc trưng bởi giới hạn và yếu đuối, mà còn bởi tội lỗi nữa. Phải phân biệt rõ thừa tác vụ Hòa giải với việc đồng hành thiêng liêng vì mục đích và thể thức của chúng khác nhau. Thật là thích hợp về mặt mục vụ nếu có nhiều nhà giáo dục tham gia giúp cho người trẻ nhìn lại đời sống luân lý, giúp họ có một cảm thức đúng đắn và trưởng thành về tội và nhất là giúp họ mở lòng ra đón nhận niềm vui giải thoát của lòng thương xót để tiến trình sám hối được thực hiện từ từ cách đúng đắn và khôn ngoan.
Một sự đồng hành toàn diện
99. Ngoài ra, Thượng hội đồng nhìn nhận cần phải phát huy một sự đồng hành toàn diện, để các khía cạnh thiêng liêng được hòa nhập với các khía cạnh nhân bản và xã hội. Như Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích, “phân định thiêng liêng không loại trừ những đóng góp từ những kiến thức thuộc các lĩnh vực nhân văn, hiện sinh, tâm lý, xã hội học hay luân lý. Nhưng phân định thiêng liêng vượt lên trên những kiến thức ấy” (Gaudete et exsultate, số 170). Đây là những yếu tố cần khám phá cách năng động và trong sự tôn trọng các nền tu đức và các nền văn hóa khác nhau, mà không loại trừ cũng như không lẫn lộn chúng.
Nếu việc đồng hành tâm lý hoặc đồng hành nhằm tâm lý trị liệu mở ra với chiều kích siêu việt, nó có thể dẫn đến một nhân cách quân bình, vì nó làm cho một số khía cạnh của nhân cách đã bị đóng kín hay bị tắc nghẽn được khai thông để có thể góp phần trở lại làm cho ơn gọi trưởng thành. Người trẻ như một “công trường để mở” với tất cả sự sống phong phú và mong manh. Đồng hành tâm lý không những có thể giúp người trẻ kiên nhẫn nhìn lại lịch sử đời mình, mà còn giúp họ nêu lên những thắc mắc khiến họ đạt được một sự quân bình ổn định hơn về mặt tình cảm.
Đồng hành trong việc huấn luyện thừa tác vụ có chức thánh và huấn luyện đời sống thánh hiến
100. Khi tiếp nhận người trẻ vào cơ sở huấn luyện hay vào chủng viện, nên tìm hiểu xem họ có cắm rễ đủ sâu trong một cộng đồng, họ có những tương quan ổn định với bạn bè, họ có cố gắng học hành hoặc làm việc, họ có quan tâm đến người nghèo khổ không. Trong việc đồng hành thiêng liêng, hướng dẫn lúc ban đầu để họ biết cầu nguyện và trau dồi nội tâm là những việc mang tính quyết định, ngõ hầu họ học được cách phân định trước hết trong đời sống của riêng mình, nhất là qua các hình thức từ bỏ và khổ chế. Phải hiểu việc sống độc thân vì Nước Trời (x. Mt 19,12) là một ơn ban mà chúng ta phải nhận ra và kiểm chứng nơi người trẻ trước khi nhận họ vào dòng tu hay cho họ khấn lần đầu. Họ có ơn ban này khi họ sống tình trạng độc thân một cách tự do, hân hoan, cho không và khiêm nhu. Phải quan niệm tâm lý học như một đóng góp để giúp người trẻ trưởng thành về mặt tình cảm và có đ một nhân cách quân bình, và khi môn học này được đưa vào hành trình huấn luyện thì phải tuân theo đạo đức nghề nghiệp và phải tôn trọng sự tự do về mặt tình cảm của người được huấn luyện. Vai trò của vị giám đốc hay người phụ trách huấn luyện ngày càng trở nên quan trọng để thống nhất tiến trình huấn luyện, để có thể phân định cách thực tế, nhờ tham khảo ý kiến của tất cả những người có liên quan đến huấn luyện, và trong một số trường hợp, để quyết định xem có thể cho một người trẻ ngưng việc huấn luyện và định hướng cho người ấy đi theo con đường ơn gọi khác.
Một khi giai đoạn huấn luyện đã hoàn tất, cần phải bảo đảm thường huấn và đồng hành cho linh mục và người thánh hiến, nam và nữ, đặc biệt là cho những người trẻ nhất, vì những người này thường phải đối diện với những thách đố và những trách nhiệm quá lớn. Nhiệm vụ đồng hành với họ không những chỉ thuộc về một số người được ủy thác, mà còn phải được các giám mục và bề trên đích thân thực hiện.
Người đồng hành giỏi
Được gọi để đồng hành
101. Cách này cách khác, người trẻ yêu cầu chúng tôi chỉ rõ những nét tiêu biểu của người đồng hành. Đồng hành là một sứ vụ đích thực, đòi hỏi người thực hiện phải có tâm thế sẵn sàng của người tông đồ. Như phó tế Philipphê, người đồng hành phải tuân theo tiếng gọi của Chúa Thánh Thần, đi ra và rời bỏ thành lũy Giêrusalem, tượng trưng cho cộng đồng Kitô hữu, để đến một nơi hoang vắng và không thuận lợi, thậm chí có thể nguy hiểm nữa, người ấy phải khó khăn lắm mới đuổi kịp xe ngựa. Sau khi đã đuổi kịp rồi, người ấy phải tìm cách bắt chuyện với người lữ hành xa lạ, để nêu lên một câu hỏi không mấy dễ dàng (x. Cv 8,26-40). Tóm lại, muốn đồng hành, chúng ta phải đặt mình trong tâm thế sẵn sàng đối với Thánh Thần Chúa và người mà mình đồng hành, bằng cách cống hiến mọi giá trị và khả năng của mình, đồng thời có can đảm để khiêm tốn nép mình sang bên.
Chân dung người đồng hành
102. Người đồng hành chân chính là một người quân bình, có khả năng lắng nghe, được thúc đẩy bởi đức tin và cầu nguyện, và là người đã phải đối mặt với những yếu đuối và những sự mỏng giòn của riêng mình. Vì vậy, người ấy có thể ân cần đón tiếp người trẻ mà mình đồng hành, mà không lên mặt dạy đời hay dễ dãi quá đáng. Khi cần, người ấy cũng biết nói lên lời sửa dạy trong tình huynh đệ. Khi ý thức rằng việc đồng hành là một sứ vụ đòi hỏi phải cắm rễ sâu trong đời sống thiêng liêng, người ấy luôn được tự do trong tương quan với người trẻ mà mình đồng hành: người ấy sẽ tôn trọng kết quả cuối cùng của tiến trình mà họ theo, chỉ biết nâng đỡ họ qua cầu nguyện và thưởng thức những hoa trái mà Chúa Thánh Thần làm trổ sinh nơi những người mở lòng ra với mình, mà không tìm cách áp đặt ý muốn hay những sở thích của mình trên họ. Người ấy cũng có khả năng đặt mình vào vị trí phục vụ người khác, thay vì chiếm vị trí trung tâm và có những thái độ chiếm hữu và lèo lái, đó là những thái độ tạo ra sự lệ thuộc và cản trở tự do của người khác. Thái độ tôn trọng thâm sâu này cũng là cách bảo đảm tốt nhất để tránh các nguy cơ lèo lái và lạm dụng dưới mọi hình thức.
Tầm quan trọng của huấn luyện
103. Để có thể chu toàn công tác của mình, người đồng hành cần trau dồi đời sống thiêng liêng, nhờ nuôi dưỡng mối tương quan với Đấng đã trao cho mình sứ vụ này. Đồng thời, người ấy cần cảm thấy được nâng đỡ bởi cộng đồng Giáo Hội mà mình thuộc về. Quan trọng là người ấy phải được huấn luyện cách chuyên biệt cho thừa tác vụ chuyên biệt này và đến phiên mình người ấy cũng phải được hưởng một sự đồng hành mang tính giám sát.
Cuối cùng, phải nhắc lại rằng, vì là Giáo Hội, chúng ta phải có những đặc tính mà người trẻ nhấn mạnh cách tích cực, đó là tâm thế sẵn sàng và khả năng làm việc theo nhóm: như thế, chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn, hữu hiệu hơn và sắc bén hơn trong việc huấn luyện người trẻ. Khả năng làm việc chung này đòi hỏi chúng ta phải chín chắn trong một số đức tính đặc thù về mặt tương giao: kỷ luật lắng nghe và khả năng nhường chỗ cho người khác, khả năng tha thứ nhanh chóng và sẵn sàng dấn thân theo linh đạo hiệp thông đích thực.

Chương IV

Nghệ thuật phân định

Giáo Hội, môi trường để phân định
Một sự hội tụ của nhiều ý nghĩa trong sự đa dạng của nhiều truyền thống thiêng liêng
104. Đồng hành để nhận định ơn gọi là điều căn bản trong tiến trình phân định đối với người đang phải lựa chọn. Từ “phân định” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, tuy có liên quan với nhau. Theo nghĩa chung nhất, phân định chỉ tiến trình dẫn đến việc lấy những quyết định quan trọng; theo nghĩa thứ hai, đặc thù hơn đối với truyền thống Kitô giáo và chúng ta sẽ đặc biệt bàn đến nghĩa này nhiều hơn, phân định là một động thái thiêng liêng nhờ đó một người, một nhóm hoặc một cộng đồng tìm cách nhận ra và đón nhận thánh ý Chúa trong hoàn cảnh cụ thể của mình: “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lại” (1Tx 5,21). Vì phân định là tâm thế sẵn sàng để nhận ra tiếng Chúa Thánh Thần và đón nhận lời Người kêu gọi, nên phân định là điều chủ yếu trong phong cách sống của Chúa Giêsu và là một thái độ thường xuyên hơn là một hành vi nhất thời của Người.
Suốt dòng lịch sử Giáo Hội, nhiều linh đạo đã đề cập đến chủ đề phân định, với những điểm nhấn khác nhau, tùy theo khuynh hướng đoàn sủng và thời đại lịch sử. Trong Thượng hội đồng, mặc dù cách nói có khác nhau, nhưng chúng tôi đã nhận ra một số yếu tố chung nơi một người có ơn gọi: có Thiên Chúa hiện diện trong đời sống và trong lịch sử cá nhân; biết nhận ra hành động của Thiên Chúa; quan tâm cầu nguyện, chăm lo đời sống bí tích và sống khổ chế; thường xuyên bị chất vấn bởi những đòi buộc của Lời Chúa; tự do trước những xác tín đã có; kiểm chứng thường xuyên qua cuộc sống hằng ngày; được một sự đồng hành thích đáng.
Nhất thiết tham chiếu Lời Chúa và Giáo Hội
105. Vì phân định là một “thái độ nội tâm bắt nguồn từ một hành vi đức tin” (Đức Phanxicô, Diễn từ trong Phiên họp Khoáng đại thứ nhất tại Đại hội Thường niên thứ XV của Thượng hội đồng Giám mục, ngày 3 tháng 10 năm 2018), nên phân định nhất thiết phải tham chiếu Giáo Hội, vì Giáo Hội có sứ mạng giúp mọi người gặp gỡ Chúa, Đấng đang hoạt động trong cuộc đời và trong lòng họ.
Bối cảnh cộng đồng Giáo Hội tạo ra một bầu khí tin tưởng và tự do khiến việc tìm hiểu ơn gọi được diễn ra trong một môi trường thuận lợi để hồi tâm và cầu nguyện; bối cảnh ấy đem đến cho mỗi cá nhân những cơ hội thực sự để nhìn lại lịch sử đời mình và khám phá những ơn ban và những điểm yếu của mình dưới ánh sáng Lời Chúa; bối cảnh ấy tạo điều kiện để mình được giao tiếp với những chứng nhân đức tin khác, mỗi người phản ảnh những khả năng lựa chọn khác nhau cho cuộc sống. Việc gặp gỡ người nghèo cũng khiến ta phải đào sâu những gì là thiết yếu trong cuộc sống, còn các bí tích – đặc biệt là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải – thì nuôi dưỡng và nâng đỡ những ai đi tìm thánh ý Thiên Chúa.
Mọi phân định đều phải được làm trong viễn cảnh cộng đồng và không thể chỉ bị giới hạn trong chiều kích cá nhân. Đồng thời, mọi phân định cá nhân đều chất vấn cộng đồng, vì nó thúc đẩy cộng đồng lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần gợi lên qua kinh nghiệm thiêng liêng của các phần tử trong cộng đồng: cũng như mọi tín hữu, Giáo Hội luôn phải phân định.
Lương tâm trong phân định
Thiên Chúa nói với con tim
106. Phân định mời gọi chú ý đến những gì đang xảy ra trong tâm hồn của mỗi người. Trong các bản văn Kinh Thánh, từ “con tim” được dùng để chỉ tâm điểm trong đời sống nội tâm của cá nhân, nơi đó ta lắng nghe Lời mà Thiên Chúa không ngừng nói lên và trở thành tiêu chuẩn để đánh giá đời sống và những chọn lựa của ta (x. Tv 139). Kinh Thánh nói đến khía cạnh riêng, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh đến khía cạnh chung của con tim. Ngay cả “quả tim mới” mà các ngôn sứ vẫn hứa, cũng không phải là một ơn ban cá nhân, nhưng liên quan đến toàn dân Israel; người tín hữu được tháp mình vào trong dòng truyền thống và lịch sử cứu độ của cộng đoàn dân thánh ấy (x. Ed 36,26-27). Các Tin Mừng tiếp tục đi theo đường hướng này: Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đời sống nội tâm và đặt con tim vào trung tâm của đời sống luân lý (xem Mt 15,18-20).
Ý niệm về lương tâm trong Kitô giáo
107. Những gì mà truyền thống Kinh Thánh đã xây dựng chung quanh chủ đề con tim được thêm phong phú với thánh tông đồ Phaolô, vì ngài liên hệ con tim với “lương tâm”, từ mà ngài lấy trong văn hóa thời đại ngài. Chính trong lương tâm mà ta cảm nhận được hoa trái phát sinh từ sự gặp gỡ và hiệp thông với Chúa Kitô: ta được biến đổi vì ơn cứu độ và được đón nhận một tự do mới. Truyền thống Kitô giáo vẫn nhấn mạnh rằng lương tâm là nơi tốt nhất để sống thân mật cách đặc biệt với Thiên Chúa và để gặp gỡ Người, nơi nghe được tiếng nói của Người: “Lương tâm là nơi sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và nghe thấy tiếng nói của Người” (Gaudium et spes, số 16). Hiểu như thế thì lương tâm không thể là một cảm nhận tức thời và hời hợt, cũng không phải là một “ý thức về mình”: lương tâm cho thấy có một sự hiện diện siêu việt mà mỗi người tìm thấy được trong nội tâm mình, nhưng lại không sở hữu được.
Huấn luyện lương tâm
108. Huấn luyện lương tâm là một tiến trình của cả đời người, trong đó ta học trau dồi cảm xúc để có cùng một tâm tình như Chúa Giêsu Kitô, học tuân theo cùng những tiêu chuẩn lựa chọn và những chủ ý hành động của Người (x. Pl 2,5). Để đạt đến chiều kích sâu nhất của lương tâm, theo quan điểm Kitô giáo, ta phải hết sức chú ý đến đời sống nội tâm, bao gồm, trước hết, là những giờ thinh lặng, chiêm niệm và lắng nghe Lời Chúa, được trợ giúp bởi việc thực hành bí tích và giáo huấn của Giáo Hội. Ngoài ra, ta cần phải thực hành làm điều lành hằng ngày và kiểm điểm lại việc thực hành này khi xét mình: việc làm này không chỉ nhằm nhìn ra tội của mình, mà còn nhằm nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong kinh nghiệm đời mình hằng ngày, trong các biến cố lịch sử và những văn hóa mình đang sống, trong chứng tá của biết bao người đi trước ta hoặc đang vận dụng khôn ngoan để đồng hành với ta. Tất cả những điều này giúp ta lớn lên trong nhân đức khôn ngoan, nếu, sau khi ý thức một cách thanh thản về những ơn ban và những giới hạn của mình, ta biết dựa trên những chọn lựa cụ thể để đưa ra một định hướng chung cho đời mình. Chàng thanh niên Salomon đã xin ơn khôn ngoan này hơn mọi sự trên đời (x. 1V 3,9).
Lương tâm của Giáo Hội
109. Lương tâm của mọi tín hữu trong chiều kích riêng tư nhất luôn được gắn liền với lương tâm của Giáo Hội. Chỉ qua sự trung gian của Giáo Hội và truyền thống đức tin của Giáo Hội ta mới nhìn thấy được dung nhan đích thực của Thiên Chúa, Đấng mạc khải mình trong Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, phân định thiêng liêng là tự vấn lương tâm cách chân thành, vì muốn biết điều lành nên làm để có thể đưa ra những quyết định có trách nhiệm. Muốn thế, ta phải biết vận dụng cách thích đáng lý trí thực hành, và để cho tương quan cá nhân với Chúa Giêsu soi sáng mình.

Thực hành phân định

Tương quan mật thiết với Chúa
110. Phân định là gặp gỡ Chúa đang hiện diện trong sâu thẳm của lòng mình, nên phân định có thể được hiểu như một hình thức cầu nguyện đích thực. Vì vậy, phân định đòi hỏi một thời gian thích hợp để hồi tâm, đều đặn trong cuộc sống hằng ngày cũng như vào những thời điểm đặc biệt, như tĩnh tâm, linh thao, hành hương, v.v. Khi phân định cách nghiêm túc, ta sẽ biết tận dụng tất cả những dịp gặp gỡ Chúa và những dịp đào sâu tương quan mật thiết với Chúa qua các thực tại khác nhau mà Chúa hiện diện: các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể và Hòa giải, việc lắng nghe Chúa và suy niệm Lời Chúa, Lectio divina trong cộng đồng, kinh nghiệm sống chung trong tình huynh đệ, việc gặp gỡ người nghèo là những người được Chúa Giêsu tự đồng hoá.
Những tâm hướng cần có
111. Mở lòng để lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần đòi hỏi những tâm hướng nội tâm cụ thể: trước hết là một con tim chăm chú lắng nghe, nhờ biết khổ chế để giữ thinh lặng và làm rỗng mình. Cũng quan trọng không kém là phải có tâm trí sáng suốt, chấp nhận chính mình và ăn năn thống hối, cùng với ý chí muốn sắp xếp cuộc đời mình cho có trật tự, bằng cách từ bỏ những gì có thể gây trở ngại, ngõ hầu lại đạt được tự do nội tâm cần thiết giúp mình chỉ thực hiện những chọn lựa được Chúa Thánh Thần chỉ dẫn. Muốn phân định tốt cũng cần phải chú ý đến những chuyển động của con tim và có khả năng ngày càng nhận ra và xác định được nhanh chóng những chuyển động ấy. Cuối cùng, phân định đòi hỏi phải có lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến thiêng liêng, vì sẽ không thiếu những cám dỗ và trở ngại được Thần Dữ đặt trên bước đường ta đi.
Đối thoại trong đồng hành
112. Các truyền thống thiêng liêng khác nhau đều đồng ý rằng để phân định tốt cần phải trao đổi thường xuyên với một người hướng dẫn thiêng liêng. Những trải nghiệm trong cuộc sống cũng dễ bộc bạch hơn, nếu được nói trong riêng tư không cần che giấu điều gì. Đồng thời, người đồng hành đảm nhận nhiệm vụ chủ yếu là giúp người mình đồng hành có thể so chiếu những nhận định của mình với một người khác làm trung gian đại diện cho Giáo Hội, một Giáo Hội đầy lòng từ mẫu. Đây là một nhiệm vụ tế nhị, đã được nói đến ở chương trước.
Quyết định và xác nhận
113. Vì phân định là một chiều kích trong lối sống của Chúa Giêsu và các môn đệ nên phân định giúp ta có những tiến trình cụ thể nhằm thoát ra khỏi tình trạng thiếu kiên quyết, để chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Các tiến trình phân định không thể kéo dài vô hạn định, cả trong trường hợp cá nhân lẫn trong trường hợp của một cộng đồng hay của một tổ chức. Sau khi đã lấy quyết định, bước kế tiếp quan trọng không kém, đó là thi hành và kiểm chứng quyết định ấy trong cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, không thể thiếu bước tiếp theo là chăm chú lắng nghe những cảm nhận nội tâm, để nhận ra được tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Muốn thế, so chiếu với các thực tại cụ thể là điều vô cùng quan trọng. Đặc biệt, nhiều truyền thống thiêng liêng cho thấy tầm quan trọng của đời sống huynh đệ và việc phục vụ người nghèo trong thời gian thử nghiệm các quyết định vì chính qua đó mà cá nhân tỏ lộ trọn vẹn chính mình.

PHẦN III

“HỌ LẬP TỨC LÊN ĐƯỜNG”

 
114. “Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.” (Lc 24,32-35)
Lắng nghe Lời Chúa dẫn đến niềm vui gặp gỡ, một niềm vui lấp đầy con tim, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và thổi vào một động lực mới. Gương mặt trở nên ngời sáng và con đường có ý nghĩa trở lại: đó là ánh sáng và sức mạnh của việc đáp lại ơn gọi, một hành động mà sẽ chuyển thành sứ vụ truyền giáo cho cộng đồng và toàn thế giới. Không chần chừ và không sợ hãi, hai môn đệ quay trở lại để tìm gặp anh em và làm chứng về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu phục sinh.
Một Giáo Hội tươi trẻ
Một hình ảnh phục sinh
115. Tiếp nối tinh thần phục sinh trong trình thuật Emmau, hình ảnh Maria Mađalêna (x. Ga 20, 1-8) soi sáng con đường mà Giáo Hội muốn đi cùng giới trẻ và cho giới trẻ, như là hoa trái của Thượng hội đồng lần này: con đường phục sinh dẫn đến loan báo và truyền giáo. Ấp ủ trong lòng niềm khao khát thâm sâu về Chúa, bất chấp bóng đêm dày đặc, Maria Mađalêna chạy đi tìm Phêrô và người môn đệ kia; bước chân của cô kéo theo bước chân của hai tông đồ, nhiệt tâm của người nữ khiến cô đi trước và dẫn đường cho các ông. Sáng sớm tinh mơ hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, xảy ra một cuộc gặp gỡ bất ngờ: Maria đã đi tìm Chúa vì yêu mến Chúa, nhưng giờ đây cô tìm thấy Chúa vì được Chúa yêu mến. Đấng Phục Sinh làm cho cô nhận ra Người bằng cách gọi tên cô và bảo cô không được giữ Người lại, vì Thân thể phục sinh của Người không phải là một kho báu để giữ kín, mà là một Mầu nhiệm để chia sẻ. Vì thế, cô trở nên người môn đệ truyền giáo đầu tiên, tông đồ của các tông đồ. Được chữa lành khỏi các thương tích (x. Lc 8,2) và là chứng nhân của sự Phục sinh, cô là hình ảnh của Giáo Hội tươi trẻ mà chúng ta mơ ước.
Sánh bước cùng giới trẻ
116. Rất nhiều người trẻ, những phần tử sống động của Giáo Hội, cũng hăng say đi tìm chân lý, biết ngỡ ngàng trước sự tuyệt mỹ của Chúa, có khả năng chia sẻ và tràn đầy niềm vui loan báo Tin Mừng. Vì vậy, vấn đề không phải là chúng ta làm gì đó “cho họ”, mà là sống hiệp thông “với họ”, bằng cách cùng tiến bước với họ để tìm hiểu Tin Mừng và tìm ra những hình thức thích hợp nhất để sống và làm chứng cho Tin Mừng. Khi tham gia vào đời sống Giáo Hội với tinh thần trách nhiệm, giới trẻ không thi hành một điều tùy chọn mà là một đòi buộc của đời sống Kitô hữu, cũng như là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của mọi cộng đồng. Hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh của giới trẻ giúp chúng ta sống tốt hơn, băn khoăn của họ thách thức chúng ta, hoài nghi của họ khiến chúng ta phải xét lại phẩm chất đức tin của mình. Lời phê bình của họ cũng cần thiết cho chúng ta, vì rất nhiều lần, chính nhờ đó mà chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi chúng ta hoán cải con tim và đổi mới cơ cấu.
Mong muốn đến với mọi người trẻ
117. Tại Thượng hội đồng, chúng ta đã nêu lên những câu hỏi về giới trẻ, chúng ta không chỉ nhớ đến những người thuộc về Giáo Hội và đang hoạt động tích cực trong Giáo Hội, mà còn nhớ đến tất cả những người quan niệm cuộc sống cách khác, những người tuyên xưng một niềm tin khác hoặc những người tuyên bố xa lạ với đời sống tôn giáo. Tất cả người trẻ, không trừ một ai, đều ở trong trái tim Thiên Chúa và do đó cũng ở trong trái tim Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng chúng ta quả quyết trên môi miệng, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng thể hiện thực sự điều này trong hành động mục vụ: thường chúng ta vẫn khép kín trong những môi trường của chúng ta, nơi tiếng nói của người trẻ không vang lên thấu; hoặc chúng ta tập trung vào những hoạt động dễ dãi và thú vị hơn, và như thế chúng ta bóp nghẹt niềm thao thức mục vụ tốt lành đang thôi thúc chúng ta phải bước ra khỏi những gì chúng ta cho là an toàn, trong khi Tin Mừng lại yêu cầu chúng ta phải mạnh dạn. Giờ đây, chúng ta muốn trở nên mạnh dạn mà không tự mãn, cũng chẳng có ý lôi kéo ai theo đạo, nhưng chúng ta chỉ làm chứng cho tình yêu Chúa và đưa tay ra cho tất cả người trẻ trên thế giới để họ nắm lấy.
Hoán cải tâm linh, mục vụ và truyền giáo
118. Đức Thánh Cha Phanxicô thường nhắc nhở rằng nếu chúng ta không thực sự bước vào con đường hoán cải, chúng ta sẽ không thể mạnh dạn. Chúng ta ý thức rằng vấn đề không chỉ là tạo ra những hoạt động mới, và chúng ta cũng không muốn lập nên “những kế hoạch tông đồ gây ấn tượng, được soạn thảo tỉ mỉ và rõ ràng, theo kiểu của tướng bại trận” (Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, số 96). Chúng ta biết rằng, để trở nên đáng tin cậy, chúng ta phải thực hiện cải tổ trong Giáo Hội, điều này đòi hỏi chúng ta phải thanh tẩy con tim và thay đổi phong cách. Giáo Hội phải thực sự để cho bí tích Thánh Thể uốn nắn mình, một bí tích được cử hành như là tột đỉnh và nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, vì Giáo Hội như tấm bánh được làm nên từ vô số hạt lúa mì và được bẻ ra để nuôi sống thế giới. Hoa trái của Thượng hội đồng lần này, chọn lựa mà Chúa Thánh Thần gợi lên sau khi chúng ta đã lắng nghe và phân định, đó là đi đến với tất cả người trẻ và sánh bước cùng họ để làm chứng cho tình yêu Chúa. Chúng ta có thể diễn tả tiến trình này như là tính công nghị của sứ vụ truyền giáo hay một tính công nghị mang tính truyền giáo: “Thiết lập một Giáo Hội mang tính công nghị là tiền đề thiết yếu để tạo đà tiến mới cho sứ vụ truyền giáo dành cho toàn thể Dân Chúa”. Đây là điều Công đồng Vatican II đã tiên báo, nhưng chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu hết ý nghĩa sâu xa, cũng như chưa bao giờ khai triển những gì có thể rút ra từ đó cho đời sống thường ngày, và Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý đến điều này khi khẳng định rằng: “Con đường của công nghị là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ ba” (Đức Phanxicô, Diễn từ mừng Ngày kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Chúng ta tin chắc rằng con đường này, con đường mà chúng ta đã chọn sau khi cầu nguyện và trao đổi với nhau, nhờ ơn Chúa, sẽ làm cho Giáo Hội trở nên và hiện ra rõ hơn như “giới trẻ của thế giới”.

Chương I

Giáo hội truyền giáo mang tính công nghị
Một năng động nội tại
Giới trẻ yêu cầu chúng ta sánh bước cùng họ
119. Giáo Hội nói chung, khi chọn chăm sóc giới trẻ trong Thượng hội đồng lần này, đã chọn đi theo một đường hướng thật rõ rệt: Giáo Hội xem sứ vụ này là một ưu tiên mục vụ trong thời đại chúng ta, mà Giáo Hội phải đầu tư thời gian, công sức và nguồn lực. Ngay từ bước đầu chuẩn bị, giới trẻ đã bày tỏ mong muốn được tham gia, được coi trọng và được cảm thấy mình cũng là tác nhân cùng xây dựng đời sống Giáo Hội và cùng thi hành sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Trong Thượng hội đồng, chúng ta đã cảm nghiệm rằng được chia sẻ trách nhiệm với giới trẻ công giáo là một nguồn vui sâu xa cho các giám mục. Giờ đây, chúng ta nhận ra kinh nghiệm này là hoa trái của Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới Giáo Hội không ngừng và mời gọi Giáo Hội thi hành sự hiệp thông giữa toàn thể Giáo Hội như lối sống và hành động của mình, đồng thời chúng ta khuyến khích sự tham gia của mọi Kitô hữu và mọi người thiện tâm, mỗi người một cách, tùy theo tuổi tác, bậc sống và ơn gọi của mình. Trong Thượng hội đồng, chúng ta cũng đã nhận thấy rằng tính hiệp đoàn (collégialité), vốn liên kết các giám mục cum Petro et sub Petro (cùng Phêrô và dưới Phêrô) để chăm sóc Dân Chúa, cần phải được thể hiện và phong phú hoá qua việc thực thi tinh thần công nghị ở mọi cấp độ.
Tiến trình của Thượng hội đồng vẫn tiếp tục
120. Tuy các phiên làm việc của Thượng hội đồng đã chấm dứt và dẫn đến những thành quả được tổng kết trong tài liệu này, nhưng không có nghĩa là tiến trình của Thượng hội đồng đã kết thúc, tất cả những công việc trước chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của Thượng hội đồng. Tuy giới trẻ cùng chia sẻ một niềm tin duy nhất, nhưng vì các điều kiện cụ thể, các khả năng thực sự và các nhu cầu cấp bách của họ ở mỗi quốc gia và mỗi lục địa đều khác nhau, nên chúng tôi mời gọi các Hội đồng giám mục và các Giáo Hội địa phương tiếp tục theo đuổi tiến trình này, và cũng như Thượng hội đồng lần này đã làm, chúng ta nên thực hiện những tiến trình phân định chung, bao gồm cả những thành phần ngoài giám mục đoàn khi bàn thảo. Phong cách của các tiến trình này nên bao gồm cả thái độ lắng nghe trong tình huynh đệ và sự đối thoại giữa các thế hệ, nhằm đưa ra những định hướng mục vụ chú trọng đặc biệt đến người trẻ bị gạt ra lề và người ít hoặc không có dịp tiếp xúc với các cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi mong có sự tham gia của gia đình, dòng tu, hội đoàn, phong trào và của chính giới trẻ vào trong các tiến trình này, hầu cho “nhiệt khí” của những gì chúng ta đã trải nghiệm trong những ngày qua được lan tỏa.
Một Giáo hội mang hình thức công nghị
121. Kinh nghiệm vừa qua tại Thượng hội đồng khiến những người tham dự ý thức rằng Gíáo Hội cần mặc lấy hình thức công nghị để loan báo và thông truyền đức tin. Chính sự tham gia của giới trẻ đã góp phần “đánh thức” tính công nghị, vốn là một chiều kích làm thành Giáo Hội. […] Như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói, ‘Giáo Hội và Công nghị đồng nghĩa với nhau’ – vì Giáo Hội không gì khác hơn là đoàn chiên Thiên Chúa ‘cùng đi với nhau’ trên các nẻo đường của lịch sử để đến gặp Chúa Kitô” (Đức Phanxicô, Diễn từ mừng Ngày kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Tinh thần công nghị đặc trưng cho cả đời sống lẫn sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, vì Giáo Hội là Dân Chúa gồm cả người già và người trẻ, người nam và người nữ thuộc mọi văn hóa và mọi nơi chốn, và là Thân thể của Chúa Kitô, trong đó chúng ta là chi thể của nhau, những chi thể đặc biệt gắn liền với người bị gạt ra lề và người bị chà đạp. Trong những cuộc trao đổi và qua những chứng tá, Thượng hội đồng đã cho thấy rõ nhiều nét chính yếu của một phong cách công nghị, phong cách mà chúng ta đang được kêu gọi chuyển bước đi theo.
122. Chính trong các mối tương quan – với Đức Kitô, với tha nhân, trong cộng đồng – mà đức tin được thông truyền. Ngày nay, nhằm sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội cần chú trọng đến khía cạnh tương giao và đặt trọng tâm vào việc lắng nghe, đón nhận, đối thoại, phân định chung, trong một tiến trình có khả năng biến đổi đời sống của những người tham gia. “Một Giáo Hội mang tính công nghị là một Giáo Hội biết lắng nghe, vì ý thức rằng lắng nghe ‘thì hơn là nghe thấy’. Đây là một thái độ lắng nghe lẫn nhau, để mỗi người đều có thể học hỏi từ người khác. Đoàn dân tín hữu, Đoàn giám mục, Giám mục Rôma, mỗi người đều lắng nghe người khác, và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, là ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14,7) để biết ‘điều Thần Khí nói với các Giáo Hội’ (Kh 2,7) (Đức Phanxicô, Diễn từ mừng Ngày kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Như thế, Giáo Hội sẽ được xem như “nhà tạm”, nơi lưu giữ hòm bia Giao ước (x. Xh 25): một Giáo Hội năng động và đang tiến bước, sánh vai đồng hành trên đường và được trợ sức bởi nhiều đặc sủng và thừa tác vụ. Đó là cách Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này.
Một Giáo Hội có nhiều tác nhân tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm
123. Một Giáo Hội với phong cách như thế sẽ chú trọng đến các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi thành viên trong Giáo hội theo ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy mọi thành viên tham gia gánh vác trách nhiệm. Để thực hiện được điều này, chúng ta cần hoán cải con tim, cũng như cần có thái độ sẵn sàng lắng nghe nhau, như thế chúng ta mới thực sự cùng nhau nghe thấy. Với tinh thần này, chúng ta sẽ có thể tiến đến một Giáo Hội có nhiều tác nhân tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm, một Giáo Hội có khả năng cho thấy được nét phong phú nhờ tính đa dạng, đồng thời chúng ta cũng đón nhận với lòng biết ơn sự đóng góp của các tín hữu giáo dân, nhất là của giới trẻ và nữ giới, cùng sự chung tay góp sức của các người sống đời thánh hiến nam và nữ, của các nhóm, hội đoàn và phong trào. Chúng ta không được gạt bỏ một ai hoặc làm cho một ai có thể muốn xa lánh chúng ta. Đây cũng là cách để tránh tinh thần giáo sĩ trị, khiến rất nhiều người đã bị loại ra khỏi các tiến trình quyết định, cũng như để tránh nguy cơ giáo sĩ hoá giáo dân, một hành vi vốn giam hãm giáo dân hơn là làm cho họ muốn dấn thân vào sứ vụ truyền giáo trong thế giới.
Thượng hội đồng yêu cầu phải làm cho sự tham gia tích cực của giới trẻ trở nên thiết thực và bình thường trong những nơi họ chia sẻ trách nhiệm tại Giáo Hội địa phương, cũng như trong các cơ quan của Hội đồng Giám mục và của Giáo Hội hoàn vũ. Ngoài ra, Thượng hội đồng cũng yêu cầu phải tăng cường hoạt động của Văn phòng Giới trẻ thuộc Bộ Giáo dân, Gia đình và Đời sống, đặc biệt là lập nên một cơ quan đại diện cho giới trẻ ở cấp quốc tế.
Tiến trình phân định chung
124. Kinh nghiệm “cùng sánh bước” trong tư cách Dân Chúa luôn giúp hiểu sâu hơn ý nghĩa của quyền bính trong lăng kính phục vụ. Mục tử phải có khả năng phát huy tinh thần cộng tác trong việc làm chứng và trong sứ vụ truyền giáo, mục tử cũng phải có khả năng giúp những tiến trình phân định chung để giải thích các dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng đức tin và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, cùng với sự đóng góp của tất cả các thành viên trong cộng đồng, trước tiên là những người đang sống bên lề cộng đồng. Giới hữu trách trong Giáo Hội, vốn đã có những khả năng này, nay cần được huấn luyện thêm về tinh thần công nghị. Theo quan điểm này, xem ra chúng ta sẽ đạt được kết quả hứa hẹn nếu biết tổ chức những tiến trình huấn luyện chung cho giáo dân trẻ, tu sĩ trẻ và chủng sinh, nhất là về những chủ đề như thi hành quyền bính hay làm việc nhóm.
Một phong cách truyền giáo
Tinh thần hiệp thông truyền giáo
125. Đời sống hiệp thông của toàn thể Giáo Hội chủ yếu hướng đến sứ vụ truyền giáo: đời sống này là “dấu chỉ và công cụ cho sự kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa và cho sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Hiến chế Lumen Gentium, số 1) cho đến ngày Thiên Chúa trở nên “mọi sự trong mọi người” (1Cr 15,28). Khi người trẻ mở ra với Chúa Thánh Thần, họ có thể giúp Giáo Hội thực hiện tiến trình vượt qua để ra khỏi “cái ‘tôi’ mang tính cá nhân chủ nghĩa và hướng tới cái ‘chúng ta’ mang tính Giáo Hội, trong đó mỗi cái ‘tôi’, sau khi được mặc lấy Đức Kitô (x. Gl 2,20), sẽ sống và sánh bước cùng anh chị em như chủ thể có trách nhiệm và tích cực trong sứ vụ truyền giáo duy nhất của Dân Chúa” (Uỷ ban Thần học Quốc tế, Tính hiệp thông của Dân Chúa trong đời sống và trong sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, ngày 2 tháng 3 năm 2018, số 107). Dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và sự dẫn dắt của các Mục tử, tiến trình vượt qua này phải diễn ra cho cộng đồng Kitô hữu, những người được kêu gọi ra khỏi tâm lý co rút vào cái “tôi”, vốn muốn bảo vệ mình, để hướng đến xây dựng cái “chúng ta”, vốn bao gồm toàn thể gia đình nhân loại và toàn thể tạo thành.
Truyền giáo trong đối thoại
126. Tinh thần căn bản này có những hệ quả rõ rệt đối với cách chúng ta thi hành sứ vụ cùng với giới trẻ, vì theo họ, cần phải đối thoại với mọi người có thiện chí, một cách thẳng thắn và không thoả hiệp. Như thánh giáo hoàng Phaolô VI đã khẳng định: “Giáo Hội trở nên lời nói, Giáo Hội trở nên thông điệp, Giáo Hội trở nên đối thoại” (Ecclesiam suam, số 67). Trong một thế giới đa dạng về sắc dân và văn hoá, “cùng sánh bước” là điều căn bản để làm cho những sáng kiến về liên đới, hòa nhập, thăng tiến công bình trở nên đáng tin cậy và hữu hiệu, và để cho thấy thế nào là một nền văn hoá gặp gỡ và vô vị lợi.
Chính vì tiếp xúc hằng ngày với những người trẻ đồng trang lứa nhưng khác biệt về hệ phái Kitô giáo, về tôn giáo, niềm tin và văn hoá, nên giới trẻ thúc đẩy cả cộng đồng Kitô hữu phải sống tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tự do, thẳng thắn và mạnh dạn (parresia) để rao giảng, phải khiêm tốn lắng nghe, đồng thời phải sống khổ chế, và đôi khi cả tử đạo nữa, nếu xảy ra hệ lụy.
Hướng về các vùng ngoại vi của thế giới
127. Đường lối đối thoại và tìm kiếm các giải pháp chung là một ưu tiên rõ rệt trong thời đại mà các hệ thống dân chủ đang có mức tham gia thấp và đang chịu ảnh hưởng quá lớn của các nhóm lợi ích, trong khi các nhóm này chỉ chiếm một phần nhỏ dân số và có nguy cơ đi trệch đường vì chủ trương giản lược, kỹ trị và chuyên quyền. Chúng ta phải trung thành với Tin Mừng vì chính Tin Mừng sẽ hướng dẫn chúng ta đối thoại để tìm ra giải đáp cho tiếng kêu của cả người nghèo lẫn của thế giới (x. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 49), là hai đối tượng mà giới trẻ tỏ ra đặc biệt quan tâm. Đồng thời, chúng ta cũng phải đưa vào trong các tiến trình xã hội những nguyên tắc của học thuyết xã hội: tôn trọng nhân phẩm, ý thức của cải được dành cho mọi người, đặc biệt quan tâm đến người nghèo, coi trọng tình liên đới trên hết, chú ý thi hành tinh thần bổ trợ, chăm lo cho ngôi nhà chung. Trong Giáo Hội, không ơn gọi nào có thể tách ra khỏi tinh thần “đi ra” và đối thoại đã được đề nghị chung cho cộng đồng, và vì vậy, mọi nỗ lực đồng hành đều được kêu gọi hướng đến tầm nhìn này, bằng cách dành một sự quan tâm đặc biệt cho người nghèo nhất và yếu kém nhất.

Chương II

Cùng sánh bước trong đời sống thường ngày

Từ cơ cấu đến tương quan
Từ ủy nhiệm đến trực tiếp nhập cuộc
128. Tính công nghị không chỉ liên quan đến Giáo Hội hoàn vũ. Trước tiên, các cộng đồng Giáo Hội ở mọi cấp phải cùng sánh bước để làm chứng về tình huynh đệ qua một đời sống cộng đồng được đổi mới và rõ nét hơn. Vì vậy, tại mỗi địa phương, cần khơi dậy ý thức chúng ta là Dân Chúa, được kêu gọi làm cho Tin Mừng nhập thể vào các môi trường khác nhau và vào tất cả các hoàn cảnh của đời thường. Như thế, chúng ta cần thoát ra khỏi tinh thần ủy nhiệm, vốn đang chi phối quá nhiều hoạt động mục vụ. Chúng ta có thể lấy việc dạy giáo lý để chuẩn bị lãnh nhận các bí tích làm ví dụ, đây là một nhiệm vụ mà nhiều gia đình ủy thác hoàn toàn cho giáo xứ. Nếp suy nghĩ này khiến cho con trẻ có nguy cơ không nhận ra được đức tin là một thực tại soi sáng đời sống thường ngày, và xem đức tin như một mớ khái niệm và quy tắc thuộc về một lĩnh vực tách biệt với cuộc sống. Trái lại, chúng ta phải sánh bước cùng với họ: giáo xứ cần gia đình để giúp giới trẻ cảm nghiệm được đức tin trong đời sống thực tế hằng ngày; và ngược lại, gia đình cần đến thừa tác vụ của giáo lý viên và cơ cấu giáo xứ để giúp cho con trẻ có một cái nhìn thâm sâu hơn về Kitô giáo, để giúp con trẻ hòa nhập cộng đồng và mở ra cho con trẻ những chân trời rộng lớn hơn. Vì vậy, chúng ta chỉ có cơ cấu thôi thì chưa đủ, nếu không biết phát triển ở nơi đó những mối quan hệ đích thực; vì chính phẩm chất của các mối quan hệ ấy mới là yếu tố loan báo Tin Mừng.
Canh tân giáo xứ
129. Giáo xứ cần tiến hành đổi mới để trở nên một cộng đồng sinh nhiều hoa trái hơn, một môi trường từ đó các hoạt động truyền giáo tỏa đi khắp hang cùng ngõ hẻm để đến với những người bé mọn nhất. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt mà chúng ta đang sống, xuất hiện những tín hiệu cho thấy, trong nhiều trường hợp, giáo xứ hiện nay không đáp ứng được nhu cầu thiêng liêng của con người trong thời đại chúng ta, nhất là vì có một số nhân tố đã thay đổi hoàn toàn lối sống của họ. Thật vậy, chúng ta đang sống trong một nền văn hoá “không biên giới”, với một mối quan hệ giữa không gian và thời gian đã đổi khác, nhất là do truyền thông kỹ thuật số, và được đặc trưng bởi một sự thay đổi nhanh chóng liên tục. Trong bối cảnh đó, nếu giáo xứ chỉ đề ra một đường lối hoạt động trong ranh giới lãnh thổ và không có khả năng đưa ra những phương thức đa dạng để huy động giáo dân, đặc biệt là giới trẻ, thì giáo xứ sẽ bị giam hãm trong một lề thói ù lỳ khó chấp nhận và một mục vụ nhàm chán đáng lo ngại. Do đó, chúng ta cần phải nghĩ đến đổi mới giáo xứ về mặt mục vụ, theo tinh thần cùng gánh vác trách nhiệm trong Giáo Hội và với nhiệt tâm truyền giáo, bằng cách khuyến khích, thúc đẩy giáo dân chung sức chung lòng hoạt động trên địa bàn. Chỉ như thế giáo xứ mới trở nên môi trường có ý nghĩa để lôi cuốn đời sống của giới trẻ.
Những cơ cấu mở và khó hiểu
130. Vẫn trong tinh thần cởi mở hơn và chia sẻ hơn, mỗi cộng đồng nên xét lại xem những phong cách sống và cách sử dụng các cơ cấu có thông truyền cho giới trẻ một chứng tá Tin Mừng dễ hiểu không. Chắc chắn là có rất nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giám mục có một đời sống cá nhân giản dị và nhằm phục vụ quần chúng; nhưng hầu như phần lớn quần chúng, nhất là người trẻ, không nhìn thấy. Nhiều người thấy Giáo Hội là một thế giới phức tạp nên họ không hiểu nổi; các vai trò mà chúng ta chu toàn cũng như các suy nghĩ rập khuôn đi kèm khiến họ giữ thái độ xa cách với chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng làm sao cho họ dễ đến với chúng ta hơn trong cuộc sống thường ngày, dưới mọi sắc thái. Nếu chúng ta thực sự gần gũi và chia sẻ với họ nhiều môi trường cũng như nhiều hoạt động, đây sẽ là những điều kiện để chúng ta giao tiếp với họ cách trung thực, thoát khỏi mọi thành kiến. Chính bằng cách này mà Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời, và cũng chính trên con đường này mà ngày nay Thánh Thần Chúa đang thúc đẩy chúng ta đi.
Đời sống cộng đồng
Một bức tranh ghép bởi nhiều gương mặt
131. Một Giáo Hội có tính công nghị và truyền giáo được thể hiện qua việc các cộng đồng địa phương có sự góp mặt của nhiều người. Ngay từ đầu, Giáo Hội đã không mang một hình thức cứng nhắc và đồng nhất, nhưng đã phát triển như một khối đa diện gồm những con người với cảm quan, nguồn gốc và văn hóa khác nhau. Cũng chính như thế mà Giáo Hội cho thấy mình mang trong các bình gốm, là tình trạng mong manh dễ vỡ của con người, một kho tàng vô song, là sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trạng thái hài hòa, một ơn ban của Chúa Thánh Thần, không làm mất đi những khác biệt, mà còn làm cho các khác biệt ấy hòa điệu cùng nhau, tạo nên một bản giao hưởng phong phú. Tình trạng của những con người rất khác nhau nhưng lại gặp nhau trong cùng một niềm tin duy nhất tạo nên những điều kiện căn bản để đổi mới mục vụ trong các cộng đồng của chúng ta. Tình trạng này sẽ ảnh hưởng đến việc loan báo, cử hành và phục vụ, nghĩa là đến các lĩnh vực nền tảng của mục vụ thường ngày. Theo khôn ngoan dân gian, “cần cả làng để giáo dục một trẻ em”: ngày nay, nguyên tắc này có giá trị trong tất cả mọi lĩnh vực mục vụ.
Cộng đồng tại địa phương
132. Nếu có được thực sự một cộng đồng với nhiều gương mặt thì điều này cũng sẽ tạo thuận lợi để Giáo Hội hòa nhập địa phương, mở ra với mạng lưới xã hội và gặp gỡ các thể chế dân sự. Chỉ có một cộng đồng hợp nhất và đa dạng mới biết cởi mở đến với người khác và đem ánh sáng Tin Mừng vào trong các lĩnh vực của đời sống xã hội vốn gây thách đố cho chúng ta hôm nay: vấn đề sinh thái, công ăn việc làm, hỗ trợ gia đình, tình trạng bị gạt ra lề, tiến trình đổi mới chính trị, hiện tượng đa văn hóa và đa tôn giáo, con đường đi đến công lý và hòa bình, thế giới kỹ thuật số. Điều này đã được thực hiện trong các hội đoàn và các phong trào của Giáo Hội. Giới trẻ yêu cầu chúng ta không nên đối phó một mình với các thách đố ấy nhưng phải đối thoại với mọi người, không phải để đạt được một phần quyền lực, nhưng để góp phần vào lợi ích chung.
Kerygma và việc dạy giáo lý
133. Việc loan báo Chúa Giêsu Kitô chết và phục sinh, Đấng đã mạc khải Chúa Cha và đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, là ơn gọi nền tảng của cộng đồng Kitô hữu. Một phần của việc loan báo này là mời gọi giới trẻ nhận ra trong cuộc sống những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và khám phá cộng đồng như một nơi để gặp gỡ Chúa Kitô. Khi giúp giáo lý cho người trẻ, lời mời gọi này là chủ yếu và cần phải được nhắc lại luôn, để giáo lý luôn dựa trên nội dung căn bản như các Tông đồ truyền giảng lúc ban đầu (x. Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, số 164). Chúng ta phải cương quyết cung cấp những chương trình thường xuyên và bài bản phù hợp với giới trẻ. Các chương trình này phải giúp họ hiểu biết Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người cách sống động, giúp họ biết nhìn kinh nghiệm đời mình trong đức tin và thấy được ý nghĩa của các biến cố lịch sử. Các chương trình này cũng nhắm đồng hành với giới trẻ trong cầu nguyện và việc cử hành phụng vụ, giới thiệu cho họ phương pháp Lectio divina và nâng đỡ họ trong việc làm chứng cho đức ái và thăng tiến công bình. Như thế, các chương trình này đề ra một linh đạo đích thực cho giới trẻ.
Các chương trình giáo lý cần cho thấy sự liên quan mật thiết của đức tin với kinh nghiệm thực tế thường ngày, với thế giới tình cảm và thế giới tương quan, với niềm vui và nỗi buồn được trải nghiệm trong học hành và trong công việc. Các chương trình ấy phải bao gồm học thuyết xã hội của Giáo Hội và phải mở ra với ngôn ngữ của thẩm mỹ, của âm nhạc và của các cách diễn tả nghệ thuật khác nhau, và cũng mở ra cả với các hình thức truyền thông kỹ thuật số nữa. Chúng ta phải chú trọng nhiều đến các chiều kích thể lý, cảm tính và giới tính, vì có sự đan kết sâu xa giữa giáo dục đức tin và giáo dục tình yêu. Tóm lại, phải hiểu đức tin như một cách thực hành, nghĩa là một cách sống trên trần gian.
Điều cấp bách phải làm trong việc dạy giáo lý cho giới trẻ là đổi mới ngôn ngữ và phương pháp, nhưng không bao giờ được đánh mất điều cốt lõi, nghĩa là việc gặp gỡ Chúa Kitô, đây là trọng tâm của việc dạy giáo lý. Giới trẻ rất thích YouCatDoCat và những công cụ tương tự, nhưng chúng ta không bỏ qua sách giáo lý do các Hội đồng Giám mục biên soạn. Các giáo lý viên cũng cần phải có một cách dấn thân mới, vì họ thường là những người trẻ phục vụ những người trẻ khác gần bằng tuổi họ. Chúng ta nên cẩn thận lưu ý đến việc huấn luyện giáo lý viên và làm sao để thừa tác vụ của họ được cộng đồng công nhận nhiều hơn.
Phụng vụ là trung tâm
134. Cử hành Thánh Thể làm phát sinh đời sống cộng đồng và tinh thần hiệp thông của toàn thể Giáo Hội. Thánh lễ là nơi thông truyền đức tin và đào luyện cho sứ vụ truyền giáo, là nơi thể hiện rõ ràng rằng cộng đồng sống nhờ ân sủng chứ không nhờ công việc của tay mình. Mượn lời của truyền thống Đông Phương, chúng ta có thể khẳng định rằng phụng vụ là cuộc gặp gỡ với Người Tôi Trung của Thiên Chúa, Đấng băng bó các thương tích của chúng ta cùng chuẩn bị cho chúng ta bữa tiệc phục sinh, và sai chúng ta đi để cũng làm như Người cho anh chị em mình. Do đó, cần phải khẳng định lại rằng nếu chúng ta quyết tâm cử hành Thánh lễ cách đơn sơ nhưng trang trọng và với sự đóng góp của những thừa tác vụ giáo dân khác nhau, thì đây là một điểm chủ yếu trong công cuộc hoán cải truyền giáo của Giáo Hội. Giới trẻ đã cho thấy họ biết cảm nhận giá trị và sống mãnh liệt những buổi cử hành đích thực, có khả năng cho họ cảm nếm được sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa, qua vẻ đẹp của các dấu chỉ bên ngoài, qua bài giảng được chuẩn bị kỹ lưỡng và qua sự tham gia tích cực của cộng đồng. Do đó, chúng ta cần tạo điều kiện để giới trẻ tham gia cách tích cực, tuy họ vẫn không khỏi ngạc nhiên trước Mầu nhiệm; chúng ta phải tìm hiểu những cảm quan âm nhạc và nghệ thuật của họ, nhưng cũng phải giúp họ hiểu rằng phụng vụ không chỉ là một cách để diễn tả chính mình, nhưng còn là một hành động của Chúa Kitô và của Giáo Hội. Cũng cần phải đồng hành với người trẻ để giúp họ khám phá ra giá trị của việc Chầu Thánh Thể như một hình thức nối dài Thánh Lễ và như thời gian để chiêm niệm và cầu nguyện trong thinh lặng.
135. Thực hành bí tích Hòa giải cũng là một điều rất quan trọng trong hành trình đức tin. Giới trẻ cần cảm thấy được yêu mến, được tha thứ, được hòa giải và họ luôn thầm nhớ vòng tay ôm nhân từ của Chúa Cha. Vì vậy, điều thiết yếu là các linh mục phải hết sức sẵn lòng cử hành bí tích này. Những buổi cử hành thống hối cộng đồng giúp người trẻ dễ đi đến với việc xưng tội riêng và làm cho thấy rõ chiều kích Giáo Hội của bí tích này.
136. Ở nhiều nơi, lòng đạo đức bình dân có vai trò quan trọng để đưa người trẻ đến với đời sống đức tin một cách thiết thực, nhanh nhạy và trực tiếp. Khi chú trọng đến việc dùng cơ thể để diễn tả và sự tham gia theo cảm tính, lòng đạo đức bình dân hàm chứa ao ước được tiếp xúc với Thiên Chúa cứu độ, thường là nhờ trung gian của Mẹ Thiên Chúa và các thánh.
Đối với giới trẻ, hành hương là một kinh nghiệm lên đường và là ẩn dụ về cuộc đời và về Giáo Hội: chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vật và của nghệ thuật, sống tình huynh đệ và kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện, những việc này tạo nên những điều kiện tốt nhất để phân định.
Quảng đại phục vụ (diakonia)
137. Giới trẻ có thể góp phần đổi mới phong cách của các cộng đồng giáo xứ và xây dựng một cộng đồng huynh đệ và gần gũi với người nghèo. Sự đổi mới của cộng đồng có thể bắt nguồn từ người nghèo, người trẻ bị loại trừ, người đau khổ nhất. Trong mọi trường hợp, những người này phải được công nhận là đối tượng để loan báo Tin Mừng và họ giúp chúng ta thoát khỏi tinh thần thế tục thiêng liêng. Giới trẻ thường rất nhạy cảm với chiều kích phục vụ (diakonia). Rất nhiều người trẻ tham gia tích cực làm thiện nguyện và tìm thấy trong phục vụ con đường để gặp Chúa. Như thế, sống tận tụy với những người bé mọn nhất thực sự trở nên một cách thực hành đức tin, vì ta được học biết thứ tình yêu “chỉ có thiệt thòi”, thứ tình yêu này là trọng tâm của Tin Mừng và là nền tảng của cả đời sống Kitô hữu. Người nghèo, người bé mọn, người đau ốm, người già cả là xác thịt của Chúa Kitô đang chịu đau khổ: vì vậy, dấn thân phục vụ những con người này, chính là một cách để gặp Chúa, đồng thời cũng là nơi tốt nhất để phân định ơn gọi của bản thân. Trong một số bối cảnh, cần phải mở lòng ra cách đặc biệt để đón nhận người di cư và tị nạn. Với những người này, chúng ta phải làm việc trong tinh thần đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập. Việc đưa người nghèo hòa nhập vào xã hội khiến Giáo Hội được xác định và tỏ lộ như ngôi nhà của đức ái.

Mục vụ giới trẻ dưới lăng kính ơn gọi

Giáo Hội, một ngôi nhà cho giới trẻ

138. Chỉ mục vụ nào có khả năng tự đổi mới bằng cách chú trọng đến các mối quan hệ và phẩm chất của cộng đồng Kitô hữu mới thực sự có ý nghĩa và hấp dẫn đối với giới trẻ. Như thế, Giáo Hội sẽ có thể xuất hiện dưới mắt giới trẻ như một ngôi nhà ân cần chào đón, có bầu khí gia đình tạo nên từ lòng tin và tình thân. Ao ước cháy bỏng sống tình huynh đệ, mà chúng ta đã được nghe người trẻ nói đến nhiều lần tại Thượng hội đồng, đòi Giáo Hội phải trở nên “mẹ của mọi người và nhà cho nhiều người” (Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, số 287): mục vụ có nhiệm vụ giúp Giáo Hội thi hành chức năng làm mẹ của mọi người trong lịch sử, qua những cử chỉ đón tiếp hằng ngày trong niềm vui, những cử chỉ thật cụ thể và mang tính tiên tri, chính những cử chỉ này sẽ làm cho Giáo Hội trở nên một ngôi nhà cho giới trẻ.
Hoạt động mục vụ ơn gọi
139. Ơn gọi là lò luyện con người trong mọi chiều kích. Nguyên tắc này không chỉ liên quan đến từng người tín hữu nói riêng, mà còn cho cả nền mục vụ nói chung. Vì vậy, rất cần làm cho thấy rõ rằng chỉ trong chiều kích ơn gọi mà toàn bộ mục vụ mới tìm được nguyên tắc thống nhất, vì mục vụ vừa bắt nguồn từ ơn gọi vừa được thi hành cho ơn gọi. Do đó, trong các tiến trình hoán cải mục vụ hiện nay, vấn đề không phải là tăng cường mục vụ ơn gọi như một phạm vi tách riêng và độc lập, nhưng là tiến hành toàn bộ mục vụ của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo trình bày cho thấy có vô số ơn gọi khác nhau. Thật ra, mục tiêu của mục vụ là giúp mỗi người, qua con đường phân định, đạt đến “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13).
Một mục vụ ơn gọi cho giới trẻ
140. Ngay từ những bước đầu của Thượng hội đồng, chúng ta đã thấy rõ cần chú trọng đến khía cạnh ơn gọi trong mục vụ giới trẻ. Vì vậy, một mục vụ dành cho các thế hệ trẻ không thể thiếu hai yếu tố sau: mục vụ này phải là một mục vụ “của giới trẻ”, vì những người mà mục vụ này nhắm đến đang ở trong tuổi trẻ của cuộc đời; và mục vụ này phải “hướng về ơn gọi”, vì tuổi trẻ là thời kỳ tốt nhất để thực hiện những chọn lựa cho cuộc sống và để đáp lại tiếng gọi của Chúa. Khi nói “bản chất” mục vụ giới trẻ “phải hướng về ơn gọi”, điều này không có nghĩa là mục vụ giới trẻ chỉ nhắm đến ơn gọi, mà là phải quan tâm đặc biệt đến ơn gọi. Thiên Chúa kêu gọi vào mọi lứa tuổi của cuộc đời từ trong lòng mẹ cho đến tuổi già nhưng tuổi trẻ là thời điểm tốt nhất để lắng nghe, để luôn sẵn sàng và để đón nhận thánh ý Chúa.
Thượng hội đồng đưa ra đề nghị là mỗi Hội đồng giám mục quốc gia nên soạn thảo “Sách hướng dẫn mục vụ giới trẻ” dưới lăng kính ơn gọi, để giúp giới hữu trách trong giáo phận và các tác nhân mục vụ tại địa phương mở rộng tầm hiểu biết và tầm hoạt động của họ cùng với giới trẻ và cho giới trẻ.
Từ phân mảnh sang sáp nhập
141. Tuy nhìn nhận cần phải có chương trình riêng phù hợp với mỗi lĩnh vực mục vụ để tránh phải ứng biến, nhưng nhiều lần, các Nghị phụ cũng tỏ ý khó chịu đối với tình trạng phân mảnh trong mục vụ Giáo Hội. Đặc biệt, các ngài đã chỉ ra có rất nhiều lĩnh vực mục vụ liên quan đến giới trẻ: mục vụ giới trẻ, mục vụ gia đình, mục vụ ơn gọi, mục vụ học đường và đại học, mục vụ xã hội, mục vụ văn hóa, mục vụ từ thiện, mục vụ giúp sử dụng thời gian rảnh rỗi, v.v. Khi tạo ra quá nhiều lĩnh vực rất chuyên biệt nhưng đôi khi lại tách biệt hẳn nhau như thế, chúng ta ngăn cản không cho thấy rõ ý nghĩa của đời sống Kitô giáo. Trong một thế giới phân mảnh tạo ra chia rẽ và khiến các phe nhóm cục bộ gia tăng, giới trẻ cần được giúp để thống nhất đời sống, nhờ thấy được ý nghĩa sâu xa của những gì mình trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày và nhờ biết phân định. Nếu đây là ưu tiên của chúng ta, chúng ta phải gia tăng phối hợp và sáp nhập những lĩnh vực khác nhau, để chuyển từ cách làm việc theo “lĩnh vực” sang cách làm việc theo “dự án”.
Tương quan có lợi giữa các sự kiện và cuộc sống thường ngày
142. Trong suốt diễn trình của Thượng hội đồng, nhiều lần chúng ta được nghe nhắc đến Ngày Giới trẻ Thế giới và nhiều sự kiện khác diễn ra ở cấp châu lục, quốc gia và giáo phận, ngoài những sự kiện được tổ chức bởi các hội đoàn, phong trào, dòng tu, và bởi nhiều tác nhân khác của Giáo Hội. Những thời gian gặp gỡ và chia sẻ ấy được tán thưởng hầu như ở khắp nơi, vì chúng tạo dịp để cùng nhau sánh bước trong tinh thần hành hương, để trải nghiệm tình huynh đệ với mọi người, để cùng nhau sống đức tin trong niềm vui, và để lớn lên trong cảm thức thuộc về Giáo Hội. Đối với rất nhiều người trẻ, trong những dịp ấy họ được trải qua kinh nghiệm biến đổi, sau khi bị đánh động bởi vẻ đẹp tỏa ra từ gương mặt Chúa và họ đã thực hiện những chọn lựa quan trọng cho cuộc đời. Các hoa trái tốt nhất trổ sinh từ những kinh nghiệm này được gặt hái trong cuộc sống thường ngày. Do đó, chúng ta nên dự kiến và thực hiện các cuộc triệu tập này như những bước quan trọng của một tiến trình thăng hoa rộng lớn hơn.
Các trung tâm thanh thiếu niên
143. Có những không gian đặc thù mà cộng đồng Kitô hữu dành cho giới trẻ, như các trung tâm sinh hoạt miễn phí, các trung tâm thanh thiếu niên và nhiều cơ sở khác tương tự; điều này cho thấy nhiệt huyết của Giáo Hội cho sự nghiệp giáo dục. Tuy cách tổ chức khác nhau, nhưng những nơi này vẫn là những môi trường thuận lợi nhất để Giáo Hội trở nên ngôi nhà đón tiếp thanh thiếu niên, giúp họ khám phá các tài năng của mình để đem ra phục vụ. Những nơi ấy lưu truyền một di sản giáo dục rất phong phú, cần được đem ra chia sẻ trên quy mô rộng lớn, để nâng đỡ các gia đình và chính xã hội dân sự.
Tuy nhiên, trong tinh thần của một “Giáo Hội đi ra”, chúng ta cần phải suy nghĩ để đổi mới những môi trường thực tế này một cách sáng tạo và linh động, chúng ta nên chuyển từ quan niệm thiết lập các trung tâm cố định, là nơi giới trẻ có thể đến sinh hoạt, sang quan niệm sai các tác nhân mục vụ di động đi cùng với giới trẻ và đi đến với giới trẻ, để có thể gặp giới trẻ ở những nơi họ sống thường ngày – trường học, môi trường kỹ thuật số, những vùng ngoại vi của cuộc sống, vùng nông thôn, môi trường làm việc, thế giới âm nhạc và nghệ thuật, v.v. – và như thế chúng ta sẽ làm nảy sinh một cách thi hành sứ vụ tông đồ mới, năng động và tích cực hơn.

Chương III

Một nhiệt tâm truyền giáo mới

Vài thách đố cấp bách
144. Tinh thần công nghị là phương pháp Giáo Hội dùng để có thể đối phó với những thách đố cũ cũng như mới, vì Giáo Hội tập trung trong tay những ơn Thiên Chúa ban cho tất cả các phần tử, mà trước tiên là người trẻ, và tạo điều kiện để những ơn ban này được chia sẻ cho nhau. Nhờ công việc của Thượng hội đồng, trong phần đầu của Văn kiện kết thúc này, chúng ta đã chỉ ra nhiều môi trường trong đó cần phải cấp bách thúc đẩy hay làm mới lại nhiệt tâm của Giáo Hội để thi hành sứ vụ truyền giáo mà Chúa Kitô đã ủy thác, và giờ đây chúng ta đang cố gắng đảm đương cách cụ thể hơn sứ vụ này.
Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số
145. Môi trường kỹ thuật số là một thách đố cho Giáo Hội ở nhiều mức độ; do đó, chúng ta nhất thiết phải tìm hiểu sâu hơn về các động thái và tầm hoạt động của kỹ thuật số trên phương diện nhân học và đạo đức. Chúng ta không chỉ phải thâm nhập môi trường này và phát huy các tiềm năng truyền thông của nó để loan báo Kitô giáo, mà còn phải làm cho các động thái và văn hóa của nó được thấm đẫm Tin Mừng. Một số hoạt động đang được thực hiện theo chiều hướng này và cần được khuyến khích, đào sâu và chia sẻ. Nhiều người đã coi hình ảnh như phương tiện truyền thông ưu tiên, khiến chúng ta phải đặt lại vấn đề về những phương thức thông truyền đức tin vốn vẫn dựa trên việc lắng nghe Lời Chúa và việc đọc Sách Thánh. Người trẻ công giáo, vốn được sinh ra trong môi trường kỹ thuật số như các người trẻ đồng trang lứa, tìm thấy nơi đây một sứ vụ truyền giáo đích thực, và cũng đã có một số người dấn thân vào môi trường này rồi. Vả lại, chính giới trẻ yêu cầu được đồng hành để biết nhận định đâu là những phương thức nhằm phát triển sự sống trong một môi trường mà ngày nay đã bị chi phối quá nhiều bởi kỹ thuật số, hầu giúp họ nắm bắt được cơ hội nhưng đồng thời cũng tránh được rủi ro.
146. Thượng hội đồng mong sao trong Giáo Hội, ở những cấp thích hợp, được thiết lập những Văn phòng và cơ quan sử dụng kỹ thuật số để phục vụ cho văn hóa và công cuộc loan báo Tin Mừng, và với sự đóng góp không thể thiếu của giới trẻ, những tổ chức ấy thúc đẩy hành động và suy nghĩ của Giáo Hội trong môi trường này. Ngoài chức năng tạo thuận lợi cho việc trao đổi và quảng bá những kinh nghiệm hoạt động có hiệu quả của cá nhân và cộng đồng, và chức năng phát triển những công cụ thích hợp cho việc giáo dục bằng kỹ thuật số và việc loan báo Tin Mừng, các tổ chức này cũng có thể quản lý những hệ thống chứng thực các trang mạng công giáo, nhằm kìm hãm hành vi phát tán tin tức giả (fake news) liên quan đến Giáo Hội, hoặc các tổ chức này có thể tìm cách thuyết phục giới công quyền phát huy những chính sách và những công cụ ngày càng nghiêm khắc hơn để bảo vệ trẻ vị thành niên trên mạng.
Di dân: phá tường và xây cầu
147. Rất nhiều di dân là người trẻ. Vì có mặt khắp nơi trên toàn cầu nên Giáo Hội có được cơ hội lớn lao là làm cho hai cộng đồng nơi đi và nơi đến có thể đối thoại với nhau, và như thế Giáo Hội góp phần giúp vượt qua được sự sợ hãi và ngờ vực cũng như củng cố những mối liên hệ mà việc di cư có nguy cơ phá vỡ. Bốn động từ mà Đức Thánh Cha Phanxicô dùng để tóm lược những đường lối hành động nhằm giúp người di dân: “đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập”, là bốn động từ nói lên tinh thần hiệp thông của toàn thể Giáo Hội. Muốn đem ra thực hành, phải cần đến hành động của Giáo Hội ở mọi cấp và sự chung tay góp sức của mọi phần tử trong các cộng đồng Kitô hữu. Về phần họ, nếu được đồng hành cách thỏa đáng, di dân có thể đem lại những nguồn lực thiêng liêng, mục vụ và truyền giáo cho những cộng đồng đón tiếp họ. Đặc biệt quan trọng là cuộc đấu tranh về văn hóa và chính trị, cần phải nhờ đến những tổ chức thích hợp để chống lại việc quảng bá tinh thần bài ngoại, phân biệt chủng tộc, và từ chối người di dân. Các nguồn lực của Giáo Hội công giáo là một yếu tố then chốt trong cuộc chiến chống nạn buôn người, như sự dấn thân và hoạt động của nhiều nữ tu đã chứng tỏ. Tổ chức Santa Marta Group, một tổ chức hợp tác giữa các nhà hữu trách tôn giáo và các cơ quan thực thi pháp luật, có một vai trò rất quan trọng và một hoạt động rất hiệu quả mà chúng ta có thể noi theo. Chúng ta cũng không được bỏ qua các nỗ lực để bảo đảm quyền được ở lại quê hương mà người không muốn di cư nhưng lại bị ép đi di cư thực sự được hưởng, cũng như việc nâng đỡ các cộng đồng Kitô hữu có nguy cơ bị giảm dân số do làn sóng di cư.
Nữ giới trong Giáo Hội hiệp thông
148. Một Giáo Hội muốn sống theo phong cách công nghị, không thể không suy nghĩ về thân phận và vai trò của nữ giới trong lòng Giáo Hội, và cả trong xã hội nữa. Các thanh niên nam nữ đều mạnh mẽ lên tiếng yêu cầu điều này. Muốn đem ra thực hành những gì đã được suy nghĩ về vấn đề này thì phải có một cuộc hoán cải văn hóa dũng cảm và phải thay đổi lề lối mục vụ thường ngày. Một vấn đề đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực này là sự hiện diện của nữ giới trong các cơ quan của Giáo Hội ở mọi cấp, nhất là trong những chức vụ phụ trách, và sự tham gia của nữ giới vào các tiến trình quyết định của Giáo Hội, trong khi vẫn tôn trọng vai trò của thừa tác vụ có chức thánh. Đó chỉ là một bổn phận công bình, dựa theo cách Chúa Giêsu tương quan với mọi người nam và nữ trong thời đại của Người, cũng như vì thấy vai trò quan trọng của một số gương mặt nữ trong Kinh Thánh, trong lịch sử cứu độ và trong đời sống Giáo Hội.
Giới tính: một lời rõ ràng, tự do, trung thực
149. Trong bối cảnh văn hóa hiện nay, Giáo Hội khó thông truyền được cái nhìn rất đẹp của Kitô giáo về thân xác và giới tính, như được thấy trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền của các giáo hoàng gần đây nhất. Do đó, cần cấp bách tìm kiếm các phương thức thích hợp hơn, cụ thể là xây dựng những con đường mới cho việc huấn luyện. Phải đề nghị cho giới trẻ một nền nhân học về cảm xúc và giới tính, cũng có cả khả năng cho thấy giá trị đích thực của khiết tịnh, nhờ dùng đường lối sư phạm khôn ngoan để chỉ ra ý nghĩa chính xác nhất của đức tính này cho sự trưởng thành của con người trong mọi bậc sống. Vấn đề là phải biết lắng nghe với lòng thấu cảm, biết đồng hành và biết phân định, theo đường lối được Huấn quyền gần đây chỉ ra. Muốn thế, phải hết sức lưu ý đến việc huấn luyện tác nhân mục vụ để họ trở nên những người đáng tin cậy, khởi đi từ sự trưởng thành của chính họ trong các chiều kích cảm xúc và giới tính.
150. Có những vấn đề liên quan đến thân xác, cảm xúc và giới tính cần đến một nền nhân học chuyên sâu hơn, trên phương diện thần học và mục vụ, và phải được xây dựng theo những phương thức phù hợp và ở những cấp độ thích hợp nhất (từ địa phương đến hoàn vũ). Trong số những vấn đề này, có vấn đề về khác biệt và hòa hợp căn tính giữa nam và nữ và vấn đề khuynh hướng giới tính. Về các vấn đề này, Thượng hội đồng tái khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi con người và Giáo Hội cũng thế, nên Giáo Hội cam kết lần nữa quyết tâm chống lại mọi hình thức kỳ thị và bạo lực liên quan đến khuynh hướng giới tính. Giáo Hội cũng tái khẳng định sự khác biệt và tính hỗ tương giữa nam và nữ có một tầm quan trọng quyết định trên phương diện nhân học, và Giáo Hội cho rằng nếu chỉ xác định căn tính của một người dựa vào “khuynh hướng giới tính” là có cái nhìn quá giản lược. (Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục Giáo Hội công giáo về việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính, ngày 01 tháng 10 năm 1986, số 16).
Trong nhiều cộng đồng Kitô hữu, đã có những con đường được vạch ra để đồng hành với người đồng tính trong đức tin: Thượng hội đồng khuyến cáo nên khuyến khích các tiến trình này. Trên những con đường ấy, người đồng tính được giúp để nhìn lại lịch sử đời mình, để sống theo ơn gọi Kitô hữu với tinh thần tự do và trách nhiệm, để nhận ra nơi mình niềm khao khát được thuộc về cộng đồng và góp phần xây dựng đời sống cộng đồng, để nhận định các hình thức tốt nhất hầu thực hiện niềm khao khát ấy. Như thế, chúng ta phải giúp mỗi người trẻ, không trừ một ai, biết hòa nhập chiều kích giới tính vào trong nhân cách của mình mỗi ngày một hơn, để trưởng thành với những mối quan hệ hài hòa và tiến đến sự hiến mình vì người khác.
Kinh tế, chính trị, lao động, ngôi nhà chung
151. Giáo Hội cam kết phát huy đời sống xã hội, kinh tế và chính trị dựa trên công bình, tình liên đới và hòa bình, như giới trẻ cũng đã mạnh mẽ đòi hỏi. Điều này buộc Giáo Hội phải can đảm lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói trước các giới hữu trách trên thế giới để tố cáo tình trạng tham nhũng, chiến tranh, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy và khai thác bữa bãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên, v.v. và để kêu gọi những người gây ra những tội ác này hoán cải. Trong cái nhìn toàn diện, điều này khiến Giáo Hội cũng phải dấn thân giúp người yếu kém nhất hòa nhập vào xã hội, nhờ xây dựng những chương trình giúp họ không chỉ tìm ra giải đáp cho những nhu cầu của họ, mà còn góp phần xây dựng xã hội nữa.
152. Vì ý thức rằng “lao động là một chiều kích căn bản trong đời sống con người trên trái đất” (Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, Laborem exercens, số 4) và tình trạng không có công ăn việc làm khiến cho nhiều người trẻ cảm thấy tủi nhục, nên Thượng hội đồng khuyến cáo các Giáo Hội địa phương tạo điều kiện và giúp người trẻ hòa nhập vào môi trường lao động, nhất là qua việc nâng đỡ người trẻ trong những sáng kiến nghề nghiệp. Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những kinh nghiệm theo chiều hướng này rất phổ biến và cần được tiếp tục nâng đỡ và đẩy mạnh.
153. Muốn thăng tiến công bình cũng phải xem xét lại vấn đề quản lý tài sản của Giáo Hội. Giới trẻ chỉ cảm thấy như ở nhà mình trong một Giáo Hội có sự quản lý kinh tế và tài chính minh bạch và rạch ròi. Cần phải có những chọn lựa dũng cảm theo chiều hướng phát triển bền vững, như thông điệp Laudato si’ chỉ ra, vì chính sự thiếu tôn trọng môi trường dẫn đến những loại nghèo mới, mà giới trẻ là nạn nhân đầu tiên. Cũng có thể thay đổi các hệ thống, nhờ cho thấy rằng sống chiều kích kinh tế và tài chính theo cách khác là điều có thể làm được. Giới trẻ đang thúc đẩy Giáo Hội trở nên ngôn sứ trong lĩnh vực này, bằng cách lên tiếng, nhưng nhất là bằng những chọn lựa cho thấy rằng một nền kinh tế thân thiện với con người và với môi trường là có thể xây dựng được. Cùng với giới trẻ, chúng ta có thể làm được.
154. Liên quan đến những vấn đề sinh thái, chúng ta nên đưa ra những đường lối chỉ đạo về cách áp dụng cụ thể Thông điệp Laudato si’ vào những môi trường thực tế của Giáo Hội. Nhiều tham luận đã lưu ý cần huấn luyện giới trẻ để họ biết dấn thân trong lĩnh vực chính trị và xã hội và để họ hiểu biết về học thuyết xã hội của Giáo Hội, vì đó là một phương tiện tuyệt hảo về vấn đề này. Những người trẻ tham gia chính trị cần được nâng đỡ và khuyến khích để họ hành động nhằm thay đổi thực sự những cơ cấu bất công của xã hội.
Trong bối cảnh đa văn hóa và đa tôn giáo
155. Đa văn hóa và đa tôn giáo là một thực trạng ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội của giới trẻ. Giới trẻ công giáo cho thấy chứng tá tốt đẹp về Tin Mừng khi cách họ sống đức tin biến đổi đời sống và các hoạt động thường ngày của họ. Họ được kêu gọi mở ra với những người trẻ thuộc các truyền thống tôn giáo và tâm linh khác và duy trì những mối tương quan đích thực với những người này, để tạo điều kiện cho hai bên hiểu biết nhau và để xua tan những thành kiến và những suy nghĩ rập khuôn. Như thế, họ cũng trở nên tiên phong cho một hình thức đối thoại liên tôn và liên văn hóa mới, hình thức này góp phần làm cho các xã hội của chúng ta thoát ra khỏi tâm lý loại trừ, chủ nghĩa cực đoan, não trạng duy chính thống, cũng như thái độ lèo lái tôn giáo cho mục tiêu phe phái hay dân túy. Là chứng nhân Tin Mừng, giới trẻ công giáo cùng với người trẻ đồng trang lứa, trở nên những công dân biết xây dựng một xã hội có khả năng dung nạp sự đa dạng, và biết dấn thân vào lĩnh vực tôn giáo với tinh thần trách nhiệm đối với xã hội cùng tinh thần kiến tạo sự liên kết xã hội và hòa bình.
Gần đây, chính là theo đề nghị của giới trẻ, đã có những sáng kiến được khởi xướng để tạo cơ hội cho người không cùng tôn giáo và văn hóa được sống chung với nhau, để khi được sống trong bầu khí thân thiện và tôn trọng tín ngưỡng của nhau, mọi người trở nên những tác nhân chia sẻ với nhau một kinh nghiệm cùng dấn thân trong xã hội.
Giới trẻ ủng hộ đối thoại đại kết
156. Về con đường hòa giải giữa mọi Kitô hữu, Thượng hội đồng rất biết ơn nhiều người trẻ vì họ mong muốn làm cho sự hiệp nhất giữa các cộng đồng Kitô hữu bị chia cách được lan rộng. Rất thường xảy ra là khi dấn thân theo đường hướng này, giới trẻ được đào sâu cội rễ đức tin của mình và mở lòng ra thực sự để đón nhận những gì người khác có thể trao tặng họ. Họ hiểu rằng Chúa Kitô đã hợp nhất chúng ta rồi, tuy vẫn còn một số khác biệt. Như Đức Thánh Cha Phanxicô trong dịp viếng thăm Thượng phụ Bartôlômêô năm 2014 đã khẳng định, chính giới trẻ “yêu cầu chúng ta hôm nay phải tiến đến sự hiệp thông trọn vẹn. Và họ yêu cầu điều này không phải vì họ không biết ý nghĩa của những khác biệt đang còn chia cách chúng ta, nhưng vì họ biết vượt lên để thấy, họ có khả năng đón nhận điều chính yếu đã hợp nhất chúng ta rồi” (Đức Phanxicô, Bài phát biểu nhân dịp cử hành Phụng vụ Giờ kinh tại Nhà thờ thượng phụ thánh Giorgio, Istanbul, ngày 30 tháng 11 năm 2014).

Chương IV

Huấn luyện toàn diện

Tính cụ thể, phức tạp và toàn diện
157. Đặc điểm của thế giới ngày nay là các hiện tượng xã hội và các kinh nghiệm cá nhân ngày càng phức tạp. Trong đời sống thực tế, các thay đổi, đã và đang diễn ra, ảnh hưởng lên nhau, và chúng ta không thể chọn ra những thay đổi nào cần đối phó và những thay đổi nào không. Trong thực tế, mọi sự đều gắn kết với nhau: đời sống gia đình và hoạt động nghề nghiệp, sử dụng công nghệ và cách sống cộng đồng, bảo vệ thai nhi và bảo vệ di dân. Thực tế của cuộc sống cho chúng ta cách nhìn nhân học về con người như tổng thể và cách nhận biết không phải nhờ tách riêng nhưng nhờ hiểu những mối liên hệ, đồng thời nhờ biết học từ kinh nghiệm bằng cách nhìn lại kinh nghiệm ấy dưới ánh sáng Lời Chúa, và cũng nhờ biết noi theo các gương sống cụ thể hơn là các mẫu sống trừu tượng. Điều này đòi hỏi một phương pháp huấn luyện mới, biết kết hợp các tầm nhìn, giúp hiểu được các vấn đề được đan kết với nhau ra sao và biết thống nhất những chiều kích khác nhau của con người. Phương pháp này rất phù hợp với cái nhìn Kitô giáo, vốn vẫn chiêm ngắm trong mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Con sự gặp gỡ không thể phân ly giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
Giáo dục, học đường và đại học
158. Trong suốt diễn trình của Thượng hội đồng, nhiệm vụ quyết định và không thể thay thế của trung tâm dạy nghề, học đường và đại học được chú trọng cách đặc biệt, bởi đó là những nơi mà giới trẻ trải qua thời gian rất dài. Ở một số nơi trên thế giới, giáo dục căn bản là vấn đề đầu tiên và cũng là quan trọng nhất mà giới trẻ xin Giáo Hội giúp. Do đó, cộng đồng công giáo cần mạnh mẽ hiện diện trong các môi trường này nhờ những nhà giáo giỏi, những hoạt động tuyên úy có ý nghĩa, và một thái độ dấn thân thích hợp trong lĩnh vực văn hóa.
Các cơ sở giáo dục công giáo đáng được quan tâm suy nghĩ cách đặc biệt, vì đây là nơi cho thấy Giáo Hội chăm lo đến việc huấn luyện giới trẻ cách toàn diện. Đây cũng là nơi quý báu để Tin Mừng được gặp văn hóa của một dân tộc, đồng thời cũng là nơi để phát triển công cuộc nghiên cứu. Các cơ sở này nên đưa ra một mô hình huấn luyện có khả năng làm cho đức tin đối thoại với các vấn đề của thế giới đương đại, với các chiều kích nhân học khác nhau, với các thách đố của khoa học kỹ thuật, với các thay đổi tập tục trong xã hội và với công cuộc đấu tranh cho công lý.
Trong các môi trường này, chúng ta phải đặc biệt khuyến khích óc sáng tạo của người trẻ trong các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật, thi ca và văn chương, âm nhạc và thể thao, kỹ thuật số và truyền thông, v.v. Như thế, người trẻ có thể khám phá những tài năng của mình và đem ra phục vụ xã hội vì lợi ích của mọi người.
Chuẩn bị những huấn luyện viên mới
159. Tông hiến Veritatis gaudium (Niềm vui Chân lý) mới đây, về các đại học và phân khoa của Giáo Hội, đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn căn bản cho một kế hoạch huấn luyện có khả năng đối phó với những thách đố hiện nay: suy ngẫm về các chiều kích thiêng liêng, tri thức, hiện sinh của nội dung cơ bản của Tin Mừng (kerygma); đối thoại cách rộng rãi và cởi mở tối đa; phối hợp hoạt động liên ngành cách khôn ngoan và sáng tạo; và khẩn thiết “tạo mạng liên kết” (x. Veritatis gaudium, số 4). Tất cả các môi trường giáo dục và đào tạo đều có thể dựa trên những nguyên tắc này; nếu được đem ra áp dụng, những nguyên tắc này sẽ đem lại lợi ích trước tiên cho việc huấn luyện những nhà giáo dục mới, vì giúp họ có được một cái nhìn khôn ngoan, biết kết hợp kinh nghiệm và sự thật. Các Giáo hoàng Học viện và các trung tâm nghiên cứu đóng vai trò nền tảng ở cấp độ thế giới, lục địa và quốc gia. Nếu những cơ sở này tiến hành thanh tra định kỳ, nghiêm khắc trong việc cấp bằng và liên tục đổi mới, thì đó là một sự đầu tư to lớn có tính chiến lược vì lợi ích của giới trẻ và toàn Giáo Hội.
Đào luyện môn đệ truyền giáo
160. Trong diễn trình, Thượng hội đồng đã lưu ý về mong muốn ngày càng mạnh mẽ của giới trẻ được có một vai trò và được nhường chỗ để thực hiện vai trò ấy trong Giáo Hội. Rõ ràng là sứ vụ tông đồ của người trẻ đối với người trẻ khác không phải là việc có thể làm cách tự phát, mà phải là kết quả của một hành trình huấn luyện nghiêm túc và thích hợp: làm sao để đồng hành với giới trẻ trong tiến trình này? Làm sao để cung cấp cho giới trẻ những công cụ tốt nhất để họ trở nên những chứng nhân Tin Mừng chân chính? Những câu hỏi này cũng trùng hợp với mong muốn của rất nhiều người trẻ là được hiểu biết rõ hơn về đức tin của mình: khám phá ra cội nguồn của đức tin trong Kinh Thánh, hiểu được sự phát triển của giáo lý trong lịch sử, hiểu được ý nghĩa của các tín điều và sự phong phú của phụng vụ. Điều này giúp giới trẻ suy nghĩ về những vấn đề vốn thách thức đức tin hiện nay, để biết trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng nơi họ (x. 1Pr 3,15).
Do đó, Thượng hội đồng đề nghị cho thấy rõ giá trị trong những kinh nghiệm truyền giáo của giới trẻ, vì vậy, cần phải lập những trung tâm huấn luyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng, dành cho giới trẻ và những đôi vợ chồng trẻ, để phát triển một kinh nghiệm toàn diện mà sẽ kết thúc bằng việc sai đi truyền giáo. Đã có những sáng kiến như thế ở nhiều nơi, nhưng các Hội đồng giám mục cần nghiên cứu khả năng thiết lập mô hình này trong bối cảnh của Giáo Hội địa phương mình.
Cần một thời gian để đồng hành trong việc phân định
161. Trong Thượng hội đồng, rất nhiều lần giới trẻ đã lên tiếng khẩn thiết xin chúng tôi quảng đại đầu tư thêm về giáo dục, về thời gian và cả về nguồn lực kinh tế. Sau khi đã thu thập những ý kiến đóng góp và những mong muốn được nêu ra trong diễn trình thảo luận của Thượng hội đồng, cũng như lắng nghe những kinh nghiệm rất hay đã được thực hiện, Thượng hội đồng xác tín để đề nghị với tất cả các Giáo Hội địa phương, các dòng tu, các phong trào, các hội đoàn và các tác nhân khác trong Giáo Hội, hãy dành thời gian đồng hành với người trẻ để giúp họ phân định. Kinh nghiệm này – dài hay ngắn tùy bối cảnh và thời cơ – có thể được xem như thời gian dành cho tiến trình trưởng thành của người trẻ trong đời sống Kitô hữu. Có lẽ nên dự kiến cho người trẻ có được một thời gian dài tách xa khỏi những mối quan hệ và những môi trường quen thuộc và kinh nghiệm này nên được xây dựng chung quanh ít nhất là ba trụ cột không thể thiếu: một kinh nghiệm sống đời huynh đệ với các nhà giáo dục trưởng thành cách giản dị, trong sự tôn trọng ngôi nhà chung, và đây phải là điều chính yếu; một đề nghị tông đồ mạnh mẽ và ý nghĩa là cùng nhau chung sống; một lời mời sống đời thiêng liêng bắt nguồn từ cầu nguyện và đời sống bí tích. Như thế, có tất cả các chất liệu cần thiết để Giáo Hội có thể cung ứng một kinh nghiệm sâu xa giúp phân định ơn gọi cho những người trẻ nào muốn.
Đồng hành để chuẩn bị hôn nhân
162. Tuy biết rằng có nhiều cách để tổ chức tiến trình chuẩn bị hôn nhân, chúng tôi xin nhắc lại tầm quan trọng của việc đồng hành với các đôi trẻ trong tiến trình này. Như tông huấn Amoris laetitia (Niềm vui của Tình yêu) khẳng định ở số 207: “Vấn đề không phải là trình bày cho họ toàn bộ Giáo lý, cũng không phải là đưa ra quá nhiều chủ đề khiến họ ngán ngẩm. […] Vấn đề là ‘khai tâm’ cách nào đó vào bí tích Hôn nhân nhằm đem lại cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích này trong những điều kiện tốt nhất và để có thể vững vàng bắt đầu cuộc sống gia đình.” Chúng ta cũng cần tiếp tục đồng hành với các gia đình trẻ, nhất là trong những năm đầu của đời sống hôn nhân, để giúp họ trở nên những phần tử tích cực trong cộng đồng Kitô hữu.
Việc huấn luyện chủng sinh và người thánh hiến
163. Đối với Giáo Hội, nhiệm vụ chuyên biệt nhằm huấn luyện toàn diện ứng sinh cho thừa tác vụ có chức thánh và cho đời sống thánh hiến, nam và nữ, luôn là một thách đố lớn. Cũng phải nhắc lại rằng người sống đời thánh hiến cần được huấn luyện cách vững chắc về văn hóa và thần học. Còn đối với chủng sinh, nhiệm vụ đầu tiên đương nhiên là phải áp dụng và triển khai cụ thể bản Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (Nguyên tắc căn bản về đào tạo linh mục). Trong diễn trình của Thượng hội đồng, đã xuất hiện nhiều khía cạnh quan trọng mà chúng tôi phải nêu lên ở đây. Thứ nhất là việc chọn huấn luyện viên: nếu họ chỉ được huấn luyện kỹ về mặt văn hóa thôi thì chưa đủ, huấn luyện viên còn phải biết sống những mối quan hệ huynh đệ, biết lắng nghe với lòng thấu cảm và có một sự tự do nội tâm sâu xa. Thứ hai, để có thể đồng hành cách thích hợp, huấn luyện viên cần phải làm việc cách nghiêm túc và có chuyên môn, phải được chia ra thành nhiều nhóm giáo dục khác nhau có cả sự tham gia của nữ giới. Trong những nhóm này có sự tương tác của những ơn gọi khác nhau, nên nếu lập được những nhóm huấn luyện như thế, đây sẽ là một hình thức, tuy nhỏ bé nhưng quý báu, để sống tinh thần công nghị và sẽ tác động lên lối suy nghĩ của người trẻ trong giai đoạn đầu huấn luyện. Thứ ba, huấn luyện phải nhắm phát triển nơi mục tử tương lai và người thánh hiến khả năng thi hành vai trò hướng dẫn cách chuyên môn nhưng không chuyên quyền, nhờ biết giáo dục ứng sinh trẻ biết xả thân phục vụ cộng đồng. Cần lưu ý đặc biệt đến một số tiêu chuẩn huấn luyện như: biết vượt lên khuynh hướng giáo sĩ trị, có khả năng làm việc nhóm, quan tâm đến người nghèo, có đời sống trong sáng, sẵn sàng để được đồng hành. Thứ tư, phân định ban đầu phải thật nghiêm túc vì nó mang tính quyết định, bởi vì đã có quá nhiều trường hợp nhận người trẻ vào chủng viện hay cơ sở huấn luyện mà không biết rõ hay không tìm hiểu kỹ lai lịch của họ. Vấn đề trở nên đặc biệt tế nhị trong trường hợp “chủng sinh lang thang”: bất ổn trong tương quan lẫn tình cảm và không được cắm rễ sâu trong Giáo Hội là những dấu hiệu báo nguy. Bỏ qua các chuẩn mực của Giáo Hội liên quan đến vấn đề này là một hành vi thiếu trách nhiệm, có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho cộng đồng Kitô hữu. Điểm thứ năm liên quan đến sĩ số của cộng đồng huấn luyện: trong những cộng đồng quá đông người, huấn luyện viên có nguy cơ không quan tâm đến tiến trình cá nhân và không hiểu cho đúng người trẻ để đồng hành; trong khi những cộng đồng quá ít người lại có nguy cơ bóp nghẹt người trẻ và bị lệ thuộc trong lối suy nghĩ; trong những trường hợp này, giải pháp tốt nhất là lập chủng viện liên giáo phận hay cơ sở huấn luyện chung cho nhiều tỉnh dòng, với những kế hoạch huấn luyện rõ ràng và những trách nhiệm được xác định rành mạch.
164. Thượng hội đồng đưa ra ba đề nghị để tạo thuận lợi cho việc đổi mới
Đề nghị đầu tiên liên quan đến sự huấn luyện chung cho giáo dân, người thánh hiến và linh mục. Các thanh niên nam nữ cần phải được thường xuyên tiếp xúc với đời sống thường ngày của các gia đình và các cộng đồng, chúng ta cần đặc biệt lưu ý để có sự hiện diện của nữ giới và của các cặp vợ chồng công giáo, và làm sao để việc huấn luyện bắt nguồn từ cuộc sống thực tế và chú trọng nhiều đến chiều kích tương quan, hầu có thể tương tác với bối cảnh xã hội và văn hóa.
Đề nghị thứ hai là đưa vào chương trình chuẩn bị cho thừa tác vụ có chức thánh và cho đời sống thánh hiến những yếu tố đặc thù liên quan đến mục vụ giới trẻ, nhờ những khóa huấn luyện có chủ đích rõ rệt và những kinh nghiệm tông đồ và những kinh nghiệm loan báo Tin Mừng đã được sống qua.
Đề nghị thứ ba yêu cầu chúng ta xét xem đánh giá hành trình huấn luyện trên phương diện kinh nghiệm lẫn cộng đồng là việc có thể thực hiện hay không, nếu chúng ta dựa trên việc nhận định kỹ lưỡng về con người và hoàn cảnh theo cách nhìn và tinh thần của Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis. Đặc biệt nên làm điều này cho giai đoạn cuối của hành trình, vì lúc ấy ứng sinh sẽ được đưa dần vào trong trách nhiệm mục vụ. Hội đồng giám mục của mỗi quốc gia có thể chỉ ra các thể thức và phương thức cho việc này thông qua bản Ratio nationalis.

Kết luận

Được mời gọi nên thánh
165. Tất cả các ơn gọi đều quy về một ơn gọi duy nhất và phổ quát là nên thánh. Xét cho cùng, ơn gọi nên thánh không thể là gì khác ngoài việc thực hiện lời gọi sống niềm vui của tình yêu đang vang lên trong lòng mọi người trẻ. Thật vậy, tất cả các hình thức sống chỉ có thể tìm được ý nghĩa trong ơn gọi duy nhất là nên thánh, vì Thiên Chúa “muốn chúng ta nên thánh và Người không mong đợi nhìn thấy chúng ta hài lòng với một cuộc sống tầm thường, mờ nhạt, nghèo nàn” (Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et exultate, số 1). Sự thánh thiện tìm được nguồn mạch bất tận nơi Chúa Cha; nhờ Thánh Thần Người, Chúa Cha đã sai Đức Giêsu, “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) đến ở giữa chúng ta để làm cho chúng ta nên thánh nhờ sống thân tình với Người, và như thế đời sống chúng ta cũng được tràn đầy niềm vui và bình an. Điều kiện căn bản cho mọi tiến trình đổi mới là được tiếp xúc trở lại cách sống động với cuộc sống mỹ mãn của Đức Giêsu trong tất cả mục vụ thường ngày của Giáo Hội.
Thức tỉnh thế giới bằng sự thánh thiện
166. Chúng ta phải nên thánh thì mới mời gọi được giới trẻ nên thánh. Giới trẻ đã tha thiết yêu cầu phải có một Giáo Hội chân chính, tỏa sáng, trong suốt và vui tươi: chỉ có một Giáo Hội gồm các thánh mới đáp ứng được những đòi hỏi này! Rất nhiều người trẻ đã rời bỏ Giáo Hội, vì họ không thấy sự thánh thiện nơi Giáo Hội, mà chỉ thấy những con người tầm thường, tự mãn, chia rẽ và biến chất. Đáng tiếc là thế giới phẫn nộ vì những hành vi lạm dụng của một số người trong Giáo Hội hơn là cảm thấy được hâm nóng bởi sự thánh thiện của nhiều phần tử trong Giáo Hội: chính vì vậy mà toàn thể Giáo Hội phải thay đổi tầm nhìn cách kiên quyết, tức thời và triệt để! Giới trẻ cần những vị thánh để những vị này đào luyện nên những vị thánh khác, nhằm minh chứng rằng “sự thánh thiện là bộ mặt đẹp nhất của Giáo Hội” (Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et exultate, số 9). Có một ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, nơi chốn và văn hóa đều có thể hiểu, vì nó trực tiếp và tỏa sáng, đó là ngôn ngữ của sự thánh thiện.
Được lôi kéo bởi sự thánh thiện của người trẻ
 
167. Ngay từ đầu diễn trình Thượng hội đồng, chúng tôi đã thấy rõ giới trẻ là một phần thiết yếu của Giáo Hội. Vì vậy sự thánh thiện của họ cũng là thiết yếu và, trong những thập niên gần đây, nhân đức này đã đơm hoa kết trái dưới vô số hình thức ở mọi nơi trên thế giới: thật là xúc động khi chúng tôi được chiêm ngắm và suy niệm trong suốt diễn trình Thượng hội đồng về lòng dũng cảm của rất nhiều người trẻ đã từ bỏ cuộc sống mình để luôn trung thành với Tin Mừng. Tâm hồn chúng tôi được tái sinh khi nghe những người trẻ hiện diện trong Thượng hội đồng làm chứng rằng khi bị bách hại tư bề, họ đã chọn chia sẻ sự khổ nạn cùng Chúa Giêsu. Qua sự thánh thiện của giới trẻ, Giáo Hội có thể bắt đầu sống lại nhiệt huyết thiêng liêng và lòng hăng say tông đồ. Hương thơm thánh thiện tỏa ra từ đời sống lành thánh của biết bao người trẻ có thể băng bó các vết thương của Giáo Hội và của thế giới, và đưa chúng trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta đã được kêu gọi từ thuở đời đời: các thánh trẻ thúc đẩy chúng ta trở về với tình yêu ban đầu (x. Kh 2,4).

 

Bản dịch Việt ngữ: Chị Thùy Diệp ©2018
Hiệu đính: ĐGM Luy Nguyễn Anh Tuấn và Nhóm Hiệu đính văn kiện