Đức Cha Paul Seitz: Vị Thừa Sai Can Trường



ĐỨC CHA PAUL SEITZ (KIM), GIÁM MỤC KONTUM (VIETNAM) 1906-1984
VỊ THỪA SAI CAN TRƯỜNG
**********
Tác giả: Dom Jean-Louis de Robin
Chuyển ngữ: Một nhóm cựu chủng sinh Kontum (CVK)

LỜI TỰA

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm Đức Cha Paul Seitz qua đời, Cha đã muốn biên soạn tác phẩm về cuộc đời của người anh em Hội Thừa Sai Paris đã rời bỏ chúng tôi năm 1984. Cha đã làm công việc này thật tỉ mỉ, như một tu sĩ dòng Biển Đức chính hiệu, vì lòng trung thành và tình bạn đối với người Thượng vùng Cao Nguyên. Xin chân thành cám ơn Cha!

Từ gốc gác vùng Alsace và biển đảo, Đức Cha Seitz duy trì được sở thích tha phương viễn xứ, mạo hiểm và khám phá những cảnh quan khác lạ với quê hương mình. Thời gian đi quân dịch bên Maroc sẽ ghi đậm dấu vết và để lại ấn tượng mạnh nơi cha.

Ngài khám phá ra vẻ đẹp của một nền văn hóa khác, một ngôn ngữ khác, cũng như các cảnh sa mạc xinh đẹp tuyệt vời. Các vùng đất mênh mông tắm mình trong thinh lặng và ánh sáng đã củng cố mạnh mẽ hơn nơi cha tiếng gọi của Thiên Chúa. Ngài là một người say mê sa mạc, giống như cha Charles de Foucauld. Đ

Trong thời gian rối loạn này, tức năm 1940 và những năm kế tiếp người ta chứng kiến cảnh nhục nhã nước Pháp bị quân Đức chiếm đóng, nhưng vùng Đông Dương cũng đã không được tha. Âu lo cho số phận của giới trẻ, cha Seitz đã tổ chức trại thanh thiếu niên Đức Bà Ba Vì, nơi các trẻ em cả Pháp lẫn Việt tụ họp sinh hoạt trong mùa hè để lấy lại sức khỏe thể lý và tinh thần. Ngài cũng đã thành lập “Trung tâm tiếp đón trẻ em bị bỏ rơi, Trại mồ côi Thánh Têrêxa” để kéo các em ra khỏi cuộc sống lang thang trên đường phố và khỏi các hiểm nguy của thành thị lớn, nơi các em bị bỏ rơi không ai chăm sóc, vì hoàn cảnh sống bấp bênh và nghèo túng của gia đình. Năm 1943, chỉ có tất cả 80 em, nhưng chẳng mấy chốc con số lên đến 450 em và các em đã phải dọn nhà nhiều lần vì chiến tranh. Chính sứ mệnh làm nên vị thừa sai, ai cũng biết vậy, và thế là Cha Seitz trở thành “Ông Vinh Sơn” Hà Nội! 

Năm 1952 ghi dấu một khúc rẽ trong cuộc đời truyền giáo của ngài: cha được chỉ định làm Giám Mục Kontum, và thực sự biết tới cảnh quan xa lạ hoàn toàn. Đồng bằng Bắc Bộ không thể so sánh với sự bao la của vùng Tây Nguyên: vùng đại diện tông tòa của ngài bao trùm một diện tích rộng tới 70.000 cây số vuông! Đức Cha nhận xét như sau:

Tại đây các bộ lạc nhỏ gốc mã lai – polynesi sống trong một tình trạng rất sơ khai: đó là những người Mọi hay Thượng. Các phong tục và thổ ngữ của họ giống các phong tục và thổ ngữ của các bộ tộc các đảo Polynésie, Bornéo hay Nouvelles – Hébrides.

Đức Cha khám phá ra một dân tộc, một nền văn hóa và các ngôn ngữ hoàn toàn khác với tiếng Việt. Một cách rất mau chóng, vị Giám quản tông tòa gắn bó với các dân tộc, các chủng tộc thiểu số này, và đo lường các thách đố cần khắc phục: đó là làm tất cả mọi sự để cho các chủng tộc này không bị đè bẹp bởi nền văn hóa thống trị. Chỉ trong vòng vài năm Đức Cha đã tăng số các trường học nơi vùng sâu vùng xa và quy tụ tới 50.000 học sinh! Nhiều cơ sở chào đời: các trường gia chánh, các trường trung học được giao cho các nữ tu dòng Thánh Vincent-de-Paul và Saint-Paul-de-Chartres điều hành; rồi đến các vườn trẻ và cả một ký túc xá đại học cho các sinh viên Thượng ở Sài Gòn! Đức Cha đào tạo các giáo lý viên, các giáo chức và y tá người Thượng. Nhà in của giáo phận ấn hành các sách giáo khoa, sách đạo, sách giáo dục, kinh thánh bằng thổ ngữ vùng Kontum; và hàng tháng phát hành một nguyệt san nhỏ bằng tiếng Bahnar là tờ Hla-bar Tobang!

Các lo lắng của Đức Cha cho giáo phận đem lại hoa trái. Từ 20 chú, con số chủng sinh của tiểu chủng viện đã vượt lên tới 300. Dòng các nữ tu Bahnar chào đời. Tất cả các nỗ lực này của Vị Đại Diện Tông Tòa, các anh em Hội Thừa Sai Paris, các nữ tu, hàng trăm cộng sự viên mà giáo phận đã tiếp nhận và của mọi nhân lực truyền giáo, đã được thực hiện trong bầu khí chiến tranh, đầy bất trắc và nguy hiểm. Vị chủ chăn giáo phận đã nêu gương sáng và giữ vững tinh thần. Năm 1972 ngài tuyên bố: “Có những trường hợp trong đó sự thận trọng là mẹ đẻ của mọi tật xấu”

Trở về Pháp sau khi bị trục xuất năm 1975, Đức Cha Seitz vẫn trung thành với ơn gọi linh mục và thừa sai của mình, bằng cách đồng hành với các kitô hữu Thượng tỵ nạn tại đây. Giai đoạn cuối cùng này đã không phải là giai đoạn tươi vui nhất của cuộc đời ngài. Đức Cha thuộc thế hệ đã lớn lên trong một nước Pháp vĩ đại, nhìn xa thấy rộng, một thế hệ ngỡ ngàng trước những thay đổi dồn dập nhằm thiết lập một trật tự quốc tế mới, tuy vẫn còndang dở. Như tướng Jean de Lattre de Tassigny, một người bạn cũ của ngài, Đức Cha là một vĩ nhân của nước Pháp, ngài cũng là một người tôi tớ vĩ đại phục vụ Giáo Hội. Hoa trái đẹp nhất trong công tác tông đồ của ngài là lòng trung thành của các kitô hữu vùng Cao Nguyên với Chúa Kitô, mặc dù họ là đối tượng của các cuộc bách hại tàn khốc. Chúng ta có thể trông thấy lòng trung thành và sức sống này của Giáo Hội ba mươi năm sau khi Thiên Chúa gọi về với Người vị giám mục thừa sai can trường đã từng là Chủ Chăn của họ từ năm 1952 tới năm 1975.

“Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đó với con, để họ chiêm ngắm vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu con trước khi tạo dựng thế giới” (Jn 17,24)
T.R.P Georges Colomb

Bề trên tổng quyền Hội Thừa Sai Paris – MEP 

Download file nghe: Lời tựa
***************************************** 

 
CHƯƠNG I  
NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH
L’Alsace

“Seitz”: cái tên gọi nghe kêu như một cú roi quất!. Xuất xứ từ đâu, nếu không phải là vùng Alsace xưa, và từ thị trấn nhỏ xinh xinh tên Thann, thuộc vùng Haut Rhin.

Thann, cách Mulhouse năm dặm, nằm trên sườn núi Vosges, và dưới chân ngọn núi Ballon d’Alsace, cao 1250m, tạo dấu ấn riêng cho vùng, nơi còn lưu giữ phế tích đồn lũy của những pháo đài đổ nát, các nhà thờ, các nhà ở đặc thù vùng Alsace[1], và đặc biệt với thánh đường học viện Saint-Thiebaut, với cái chóp hình mũi tên bằng đá từ thế kỷ XIII: đây cũng là nơi lưu giữ thánh tích nổi tiếng của vị thánh gốc thành phố nầy từ năm 1161.

Từ thế kỷ thứ XVI, trong ngôi Thánh đường nầy các thế hệ họ Seitz đã được rửa tội. Lùi sâu về Lịch sử, giòng họ Seitz có gốc Đức, gần Ulm, thuộc tỉnh Bade-Wurtemberg, bên kia sông Rhin. Tên giòng họ bắt nguồn từ tên Sigizo, biến thành Siegfried và Seitz.

Thann là một thành phố giao lưu ngã ba đường, đã trải qua thời kỳ vinh quang phồn thịnh, buôn bán sầm uất, từng tổ chức nhiều đêm dạ tiệc vương giả, nhiều ngày lễ nhộn nhịp, nhưng cũng chịu nhiều tàn phá khủng khiếp bởi những cuộc xâm lăng đến từ phương Bắc, phương Tây hoặc phương Đông, huỷ hoại hoa màu, vườn nho và cả nhà cửa của họ; đã có những sự việc độc ác xảy ra, tuy cũng có những hành động can đảm tuyệt vời. Đây là một thành phố mà đức tin đã giúp củng cố, xây dựng nên một cộng đoàn Kito hữu chắc chắn và bền vững. Chẳng phải đây là lò đào luyện nên một nhà truyền giáo tương lai sao?

Năm 1780, quân Phổ đánh bại quân Napoleon III. Hiệp ước Frankfort năm1871 tách rời Alsace và những trái tim của người dân  khỏi nước Pháp. Sự “Tự do lựa chọn cho vận mạng của họ ”  không thể có dưới gót giày quân xâm lược Đức.

Vì lý do đó, và đây là điều làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về cư dân vùng Thann và về gia đình Seitz – những người dân Alsace, sau khi họ đã chiến đấu hết mình để đẩy lùi quân xâm lược, nay họ bị bắt buộc cách này hay cách khác phải lựa chọn, hoặc trở thành người Đức, hoặc di cư sang phía bên kia dãy Vosges. Đó là một thảm kịch của những người công dân mà con tim họ, từ nhiều thế hệ, luôn thuộc về Pháp, nay buộc  phải lựa chọn một trong hai giải pháp: thay đổi quốc tịch hoặc ly hương?!

Thật đau lòng khi phải bỏ lại tất cả sau lưng! Bà con giòng họ, những người cộng tác làm ăn và công nhân trong các xí nghiệp, bạn bè, họ đạo mà chẳng bao lâu nữa phải đối đầu với các nhà thờ tin lành, điều hành bởi các mục sư Luther, đến từ phía Đông. Chưa nói đến cảnh thanh bình, lãng mạn, bao nhiêu sự giàu sang và đất đai phì nhiêu xanh tươi của thị xã Thann, với những vườn nho cho rượu ngon thoai thoải từ triền đồi kéo dài đến tận đồng bằng, rồi đến những hàng thông phủ một màu xanh đen từ chân núi leo tới đỉnh ngọn Vosges.

Với cư dân mang tính tình mạnh mẽ vùng Alsace và Lorraine nầy, không một người nào đã không bị đối diện với tình huống tiến thoái lưỡng nan này, vì đây là một vấn đề về tương lai mỗi cá nhân họ và con cháu họ. Rõ ràng đây là vấn đề về danh dự, về lòng trung thành và về tình yêu

Còn các linh mục thì sao? Nói chung họ được giáo dân quý trọng và thương mến. Vì trách nhiệm mục vụ với các tín hữu ở lại và vì  lo sợ giáo phái Tin lành Luther sẽ chiếm giáo xứ, lấy nhà thờ, nên các ngài quyết định bám trụ ở lại, với bất cứ gía nào. Mục tử không bỏ rơi đàn chiên khốn khổ của mình.

Qua bối cảnh nầy, người ta cũng phảng phất thoáng thấy trong đó bóng giáng số phận dân tộc Việt Nam và Giám mục Kontum cũng như các vị Thừa sai phải gánh chịu, đúng một thế kỷ sau.

Hơn 200.000 người Alsace và Lorainne chọn giải pháp giữ Quốc tịch Pháp, trong số đó có Edouard Seitz, sinh ra và rửa tội ở Thann năm 1835, cùng em trai Francois nhỏ hơn mình 1 tuổi. Lòng trung thành, sự dũng cảm, tình yêu tổ quốc chiếm ưu thế hơn là lợi ích vật chất. Thế hệ của gia đình họ Seitz chọn giải pháp bỏ lại hết sau lưng, mà không thèm ngoái nhìn lại: xưởng sản xuất bia, xưởng dệt, những gia tài được thừa hưởng từ cha mẹ, từ ông nội, còn hơn là chịu đựng ách thống trị của nước Đức. Phải là những tâm hồn mạnh mẽ để sống còn và xây dựng lại cuộc sống. Tuổi trẻ giòng dõi Seitz là những người như thế. Nước Pháp thất trận, những kẻ chiến thắng thôn tính thành phố của họ đã giống như ngọn roi quất trên lưng, làm họ phải đứng thẳng lên.

Sau một thế kỷ và sau hai cuộc chiến tranh thế giới, hòa bình và hòa hợp đã trở lại: Liên minh Châu Âu đã công nhận thỏa thuận tình hữu nghị giữa hai nước Pháp và Đức, đem lại tình yêu thương giữa các dân tộc. Cùng một lúc, đầu bên kia thế giới, một người tên Seitz và cả gia đình thiêng liêng của Ngài bị đuổi ra khỏi quê hương thứ hai của họ. Rồi Ngài cũng sẽ biết cách trỗi dậy.

Năm 1871, Francois, sau khi kết hôn với Marie-Louise Beltzer được 5 năm, dọn về cư ngụ ở thị trấn Saint-Dié gần đó (khoảng 76 km phía bắc Thann. ND), rồi di chuyển về vùng Tây Nam nước Pháp và định cư tại Biarritz. 

Còn Edouard, vẫn độc thân, lần mò đến Paris tìm việc làm. Ở đó anh đã gặp cô gái đồng hương, Marie-Anne Nitter, cũng sanh tại Thann năm 1847, người mà ông kết hôn vào ngày 20 tháng 02 năm 1873. Kết quả của tình yêu, vợ ông hạ sanh một Edouard Seitz khác tháng 7 năm 1874, thành viên đầu tiên trong gia đình không được chào đời tại quê cha, đất tổ, nay đã thuộc về Đức. Rồi năm anh chị em nữa tiếp theo sau.

Sau đó không lâu, gia đình đến định cư tại Le Havre. Cuộc sống trôi qua giản dị, mộc mạc, bé trai Edouard, mới 11 tuổi đã theo học nghề hớt tóc, nghề mà em thích. Vài năm sau, với tham vọng tự lập thân và mong tìm kiếm tiếng tăm cho riêng mình, cậu lên Paris tầm sư học nghề nơi những tiệm cắt tóc nổi tiếng. Chính trước cửa căn phòng thuê đơn sơ xoàng xỉnh mà chàng đã gặp mặt cô nàng hàng xóm. Chỉ sau ít câu xã giao và vài nụ cười đồng loã, Lyna Dufau đã tiết lộ ít tâm sự về đời tư của mình. Và tiếng sét ái tình đã đến.

La Guadeloupe

Cô gái trẻ tuổi này, người sẽ trở thành mẹ của Paul Seitz là ai? Cô không phải là một người di dân từ Alsace, mà là một cô gái Créole từ Guadeloupe, một hòn đảo thuộc vùng biển Caribé, phía bên kia Đại Tây Dương. Lạ thay, cũng chính dưới triều đại vua Louis XIV mà Alsace được tái sát nhập vào nước Pháp và cùng thời đó Pháp đổ bộ lên Guadeloupe. Nhưng nếu phải chống chọi với người Đức để lấy lại Alsace thì cũng phải đánh nhau với người Anh để giữ các vùng đã chiếm được bên kia bờ Đại Tây Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đến đây lập nghiệp, trong số đó có gia đình Bouscaren và Bourlet. Họ trở thành điền chủ khai thác vùng Point-à-Pitre, và Gour-Beyre, gần Basse-Terre, thủ đô Guadeloupe.

Lydie Bourlet, sinh năm 1824, kết hôn với Alexandre Dufau, chủ một đồn điền rộng đến hàng 100 hectares, có tên là Grand’Maison, tại Trois-Rivières, không xa Gour-Beyre. Con trai đầu lòng, sinh năm 1850, đang theo học xuất sắc ở Paris, chuẩn bị vô đại học Polytechnique (bách khoa-ND) thì được cha gọi về Guadeloupe  để quản lý đồn điền gia đình, Grand’Maison. Cuộc sống thanh bình trong xứ sở như một cõi thiên đường này, giữa những đồng mía đường màu mỡ giúp sản xuất ra một loại rhum ngon nhất thế giới, những đồn điền café, vani, chuối và vô vàn giống cây ăn trái khác. Mưa thuận, gió hòa, chỉ cần đưa tay ra đón nhận hoa trái Trời ban.    

Cuộc sống nhàn hạ, suốt ngày đi thăm từ nông trại nầy qua đồn điền khác, và sau những lần du ngoạn bằng ngựa, hay những buổi bơi lội, tắm táp về, những người giúp việc da đen phục vụ vô vàn rượu cocktail Punch hoặc những thức uống tươi mát khác. Phải chăng cõi thiên đàng của cha ông chúng ta đã thật sự hiện diện ở vùng Antilles nầy? (Antilles: các quần đảo thuộc biển Caribé-ND).

Mối nguy hiểm duy nhất có thể đến từ một ngọn núi lửa sừng sững cao1484m, điểm cao nhất Guadeloupe, và cũng đã trở nên khét tiếng: đó là ngọn núi Soufriere. Nhưng lúc nầy thì nó vẫn nằm yên và bọn trẻ hay dọa nhau bằng cách chỉ tay lên núi.

Không gì hạnh phúc bằng Leo, lúc 22 tuổi, gặp lại người em họ, Maria Conchita, 18 tuổi, ở đồn điền bên cạnh gần Gourbeyere. Dưới tiết trời nhiệt đới, ngọn lửa tình yêu nhanh chóng bùng phát, và hôn lễ giữa Leo Dufau và Maria Conchita được tổ chức vui vẻ vào năm 1875.

Kết quả sự kết hôn nầy là bảy cô con gái ra đời, trong đó Lina, bà Edouard Seitz tương lai, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1878, là người thứ ba. Mấy chị em có một tuổi thơ vô tư, hạnh phúc tại nông trại Grand’Maison, dưới mái nhà trệt bằng gỗ rộng lớn mộc mạc dân dã, được bao quanh bởi một hành lang rộng, giúp che ánh nắng mặt trời chói chang và tránh mưa hắt lúc giông về.

Vào tuổi thiếu niên, ba cô gái đầu của “thuộc địa” được gởi qua Pháp hoàn thiện kiến thức về học vấn nơi mẫu quốc; rồi các nàng trở về, với “mảnh bằng trung học”, tắm nắng mặt trời đảo Emeraude, đọc sách, may vá, chơi nhạc, cỡi ngựa, tham gia những buổi chiêu đãi nơi quan tổng đốc, hoặc nơi các “thân hào nhân sĩ” của thủ phủ bên cạnh. Rồi đến lượt các em kế của họ lại trở về mẫu quốc.

Than ôi! Tất cả người em kế nầy không bao giờ thấy lại hòn đảo, nơi chôn nhau cắt rốn một lần nữa! Vì cuối năm 1898, đúng là một thảm họa! Một cơn bão dữ dội càn quét các hòn đảo vùng Antilles, tàn phá mọi thứ trên đường đi. Gió, bão nhổ sạch các đồn điền,làm nhà cửa, cây cối bay tứ tung; những dòng suối tràn bùn lấp kín đồng ruộng, chôn vùi mọi hoa màu. Một thảm họa chưa từng thấy trong đời. Điều may mắn là trong gia đình không ai bị thiệt mạng, nhưng khi Léo Dufu và các con ông thoát ra từ nơi lánh nạn, họ suy sụp chứng kiến cảnh tượng trước mắt. Thành quả lao động cực nhọc của nhiều thế hệ thuộc địa chẳng còn lại gì. Hoàn toàn mất trắng.

Thời kỳ đó không có bảo hiểm thiên tai, không một đồng bảo trợ để phục hồi một đơn vị sản xuất. Và rồi tất cả tá điền, đa phần là da đen hoặc dân lai, đều phải nghỉ việc, vì không còn khả năng trả lương: họ có nổi loạn không, như người ta đã chứng kiến những lần trước kia, nơi cha ông họ? Ông bà Léo Dufau quyết định gởi 3 con gái lớn về mẫu quốc để lánh nạn và làm lại cuộc đời. Ở lại Guadeloupe chẳng có việc gì làm, vì đã bị phá sạch, cũng chẳng lấy được chồng, do không còn gì để làm của hồi môn. Chính ông bà cũng phải đến Gourbeyre, ở nhờ nhà bà ngoại Bourlet, được biết đến với cái tên “Maman-Bonne”.

Thật là một thử thách, cho cả những người ở lại cũng như kẻ ra đi! Chị cả Lydie, chỉ mới 22 tuổi, quađời ở tuổi 25, sau khi bị cảm thương hàn; Marthe 21 tuổi; Lyna 20. Đây là thời kỳ “vàng son” ở Pháp, nhưng gia đình Dufau chỉ gặp toàn đau buồn, tang chế liên tục và nhiều gian nan phải vượt qua.

Đỉnh điểm gian nan là khi ngọn núi lửa La Soufiere thức dậy dữ dội năm 1902, phun dung nham, tràn xuống sườn núi, tàn phá Guadeloupe, đốt cháy nhà cửa, giết chết súc vật và con người, trong khi hòn đảo bên cạnh là Martinique bốc cháy dưới “đám mây lửa” từ ngọn núi Montagne Pelée, xóa sổ hoàn toàn đế đô thuộc địa Saint-Pierre; trong chốc lát, 30 ngàn cư dân bị chôn vùi dưới đống tro tàn. Đó là ngày 8 tháng 5, ngày Lễ Thăng Thiên.

Dầu vậy, tính tình lạc quan vui vẻ của Lina sẽ giúp cô vượt qua nhiều khó khăn. Về sau, Annette, con gái bà, nói về mẹ như sau: mẹ “đầy tinh thần minh mẫn sáng suốt, bà có một lòng tin tưởng sâu xa vào quyền năng siêu nhiên của Thiên Chúa”. Mẹ cũng say mê âm nhạc, thơ ca, thích tham gia các lễ hội, chia sẻ cuộc vui”. Điều này giúp cô vượt qua những tàn phá của thiên nhiên làm hại gia đình mình, và cũng giúp được các chị em khác, trong đó 3 đứa em còn theo học tại Bezons, vùng Oise. Cô tìm được việc làm là thư ký, kế toán, đứng bán trong cửa hàng trang phục đồ lót phụ nữ: không hẳn là một việc làm thoả mãn và thích thú, nhưng nó giúp cô có cuộc sống độc lập, và đủ khả năng thuê một phòng trọ nhỏ ở đường Turbigo, thuộc quận II.

Đấng Quan Phòng thấu hiểu việc cô làm, vì vậy cho nên cô gái trẻ đẹp Créole nầy, sinh ra ở Trois-Croivières, cách đây hàng ngàn cây sổ, là hậu duệ gia đình hoàn toàn gốc Guadeloupe, gặp người hàng xóm gần phòng, chàng trẻ tuổi Edouard Seitz, rặc gốc Alsacien.

Lina Dufau trở thành bà Edouard Seitz vào ngày 12 tháng 1 năm 1903, nhưng đám cưới họ ở Paris không có nhiều thân nhân của hai gia đình tham dự, cũng vì mẹ chú rể mới mất trước đó.

Ai biết trước được sự xa nhà xa xứ  mà cha mẹ cậu phải chịu sẽ ảnh hưởng thầm kín ra sao đến ơn gọi truyền giáo của người con trai tên Paul, người sẽ tình nguyện sang vùng Viễn Đông. 

[1] Nhà Alsace: Nhà vừa gỗ vừa vữa hồ. Sườn nhà bằng gỗ, xen kẽ vách bằng vữa hồ.  

*************************************************

Download file nghe: Chương I
CHƯƠNG II
CON ĐƯỜNG HỌC VẤN ĐẦY GIAN NAN

    Le Havre
    
Lina và Édouard không có gia tài nào khác, ngoài tình yêu thương họ dành cho nhau. Họ biết cách làm thăng hoa tình yêu trong cuộc sống lứa đôi, trước tiên là cùng khích lệ nhau trong công việc làm ăn: Lina bỏ quầy bán áo nịt (cooc xê) phụ nữ để đi lên cao hơn tí và vào làm cho một hiệu buôn bán các loại mũ nón. Édouard vẫn theo đuổi hoàn thiện nghề, loanh quanh trong cùng một vùng như trước kia –nói đúng ra là vùng thân thể — vì anh là thợ cắt tóc.
    
Tình yêu của họ cũng sinh hoa kết trái với viễn tượng một đứa bé sắp chào đời: 11 tháng sau đám cưới, ngày 6 tháng 12 cùng năm, Lina hạ sinh một bé trai kháu khỉnh, đặt tên là Pierre. Thật là một niềm vui sướng trọn vẹn cho gia đình! Tin vui cũng vang đến tận hải đảo xa xôi, mà càng vui hơn nữa, vì từ thời ông ngoại Leo Dufu, sinh năm 1850, đến nay mới chỉ có một cậu con trai duy nhất nầy. Ngày 29 tháng giêng năm 1903, ông viết:
    
“Tôi vui mừng biết bao khi có một cháu ngoại trai! Hy vọng cháu đến sẽ làm chấm dứt những chuỗi ngày đau buồn kéo dài trong đời tôi đã từ lâu năm, và cháu sẽ là điềm lành bé nhỏ của chúng tôi. Thật vậy, đã có đủ con gái trong nhà. Dù chúng có đẹp, cũng không nên nhiều quá!”.
    
Maman-Bonne, 81 tuổi, vẫn sống ở Gourbeyre, cũng cảm thấy được an ủi khi có cháu ngoại trai tóc vàng, mắt xanh. Dù nom có dáng gốc Alsace hơn là Guadeloupe.
    
Ngay sau đó, gia đình trẻ quyết định đổi đời, rời thủ đô Paris và, gom góp vốn liếng còm cõi của mình, mướn mặt bằng mở tiệm cắt tóc ở Le Havre, nơi ông Édouard đang sống đời góa bụa.
    
Ông chủ trẻ khai trương thành công mỹ mãn tiệm hớt tóc, được quảng cáo không một chút khiêm tốn như “tiệm hớt tóc lớn nhất vùng”. Thật vậy, cách trang trí nhìn rất lôi cuốn, trên cái sàn bằng gỗ bóng lộn, trước 6 cái ghế trang bị giàn gương kính sáng choang, bên cạnh tủ kính chất đầy đủ thứ loại nước hoa, cộng thêm những chú thợ trẻ tuổi ăn mặc chỉn chu, thân thiện với khách hàng, và đặc biệt ông chủ tiếp khách rất lịch sự với cái giọng miền Đông nghe lạ tai và lôi cuốn.
    
Không gian sinh hoạt gia đình bị thu hẹp lại: họ tạm chấp nhận bố trí căn phòng cuối tiệm phía dưới nhà làm nơi sinh hoạt và bếp núc. Đây là phần cơi nới thêm trong cái sân cũ, mái lợp tôn, khoét 4 ô lấy ánh sáng. Tất nhiên trong căn phòng thiếu sáng đó, Lina phải chuẩn bị bữa ăn không chỉ cho gia đình chồng con mà còn cho đám thợ ăn trưa để tranh thủ thời gian. Không biết Lina có tiếc nhớ ánh nắng mặt trời ở Guadeloupe không? Hay không khí trong lành vùng Grand-Maison? Chỉ biết rằng thỉnh thoáng người ta nghe chị lẩm bẩm, như tự nhủ mình: ”Giờ mới hiểu sao nhiều dân tộc thích nắng mặt trời đến thế …..Tôi mà không có niềm tin, tôi cũng sẽ như họ!”
    
Trên lầu là hai phòng ngủ: một cho ba mẹ, một cho con cái. Trên cùng có cái gác xép nơi Lina mang đồ giặt từ cái ngách sau bếp lên phơi: không chỉ là quần áo gia đình, mà còn chất đống nào là áo choàng, tạp dề, khăn lau sau một ngày làm việc của tiệm.
    
Khách hàng đông, nhờ tiệm nằm ở một vị trí thuận lợi, số 11 cung đường La République, đối diện nhà ga và cũng nhờ vào tiếng đồn râm ran về ông chủ tên Seitz. Lúc đầu tiệm chỉ phục vụ quý ông, rồi phải thêm một ghế thứ bảy nữa, phục vụ cho quý bà. Ông chủ làm việc không ngơi nghỉ từ bảy giờ sáng mãi tới mười giờ đêm, trừ ít phút nghỉ trưa để ăn cơm. Thời đó không biết nghỉ hè là gì, ít ra đối với các nghề tự do, kể cả chủ nhật cũng không. Tuy nhiên, chị Seitz vẫn giữ “ngày của Chúa” để đi tham dự thánh lễ, vì chị có lòng tin và cả mộ đạo nữa, nhưng chồng chị thỉ không – điều làm chị đau lòng.
    
Rồi ngay trong cái phòng trên gác, ngày 5 tháng 8 năm 1905, chị sanh đứa con thứ hai, một bé gái, đặt tên là Anne-Marie, quen gọi là Annette.
    
Và cũng trong phòng trên gác đó, mười sáu tháng sau, ngày 22 tháng 12 năm 1906, đứa trẻ thứ ba chào đời: Paul Léo, giám mục tương lai của giáo phận Kontum, Việt Nam. Cháu được rửa tội vài ngày sau đó trong nhà thờ giáo xứ đã được cung hiến cho thánh Anne. Những đứa trẻ nầy mang lại niềm vui cho cha mẹ, dù họ phải nỗ lực làm việc nhiều hơn, lo lắng nhiều hơn. Rồi họ phải dọn gác lửng nơi dành để phơi đồ cho hai cậu, nhường phòng lầu một cho Anette.
    
Ít ngày sau khi cậu Paul chào đời, chị Seitz trải qua một ca mổ nhiều nguy hiểm cho tính mạng và chấm dứt thai sản. Chị buồn lắm. Nhưng chị vẫn can đảm tiếp tục công việc và giúp đỡ các em gái chị. Lại thêm một chuyện buồn: hai em chị chết yểu không lâu sau đó.
    
Trong những năm đầu, cậu Paul được dì Denise dạy tập đọc, tập viết. Dì là người thứ sáu trong bảy chị em và là giáo viên trường tư ở Le Havre. Sau đó, cậu theo đuổi việc học nơi ngôi trường làng mà anh Pierre mỗi sáng dẫn cậu đi, tuy cậu chẳng thích thú gì việc học hành vì cậu thấy việc học chẳng có ích lợi chi cho lắm. Anh Pierre thì học xuất sắc, luôn luôn là một trong những kẻ đầu lớp, còn cậu Paul, tuy thán phục anh, nhưng lại không thèm bắt chước.
    
Rồi chiến tranh 1914 bùng nổ: lại những đảo lộn, lại những khổ đau, lại thêm tang tóc cho bao gia đình. Đức thua trận, với Alsace và Lorraine trở về lại với nước Pháp là niềm an ủi lớn cho những kẻ đã phải ly hương, nhưng gia đình họ Seitz đã an cư lạc nghiệp ở Le Havre và không nghĩ đến việc hồi hương nữa.
    
Lúc nầy, phong trào hướng đạo hồi sinh hồi phục, cậu Paul lao vào hoạt động phong trào nầy, hăng say hơn đi học chữ; cậu tuyên hứa nghiêm túc năm 1919 :” Trong danh dự, và với ơn Chúa, tôi cam kết phục vụ Chúa, phục vụ Giáo hội, phục vụ tổ quốc; giúp đỡ tha nhân trong mọi tình huống, và tuân thủ luật hướng đạo”.
    
Cậu sẽ trung thành suốt đời với lời thề đó, và cũng giống như nhiều người khác được rèn luyện theo kỷ cương và lý tưởng này, cậu cũng thấy đó như một nguồn gốc gián tiếp cho ơn gọi của cậu. Còn lúc này thì cậu chỉ thích thú với những chuyến đi về vùng quê, những buổi cắm trại trong kỳ nghỉ hè dài ngày đưa  đội của mình đến các vùng lân cận. Cậu khá táo bạo, gan dạ, thường là đầu tàu trong những trò chơi đối đầu giữa các đội. Cậu thích ngắm bầu trời đầy sao, chiêm ngưỡng các tinh tú và học tên các chòm sao. Cậu từng mua ba cuốn sách Thiên văn phổ thông (L’Astronomie populaire) của François Arago, mà cậu cẩn thận cất trong hóc tủ trên gác.  
    
Pierre nhảy từ thành công nầy đến thành công khác: sau khi có chứng chỉ và bằng tốt nghiệp trung học, cậu tuyên bố phải lấy cho được bằng tú tài và học hàm thụ trên gác để đỡ tốn tiền cha mẹ. Và điều thật ngạc nhiên cho cha mẹ cậu là cậu lấy được bằng năm 18 tuổi, trong khi đó cậu Paul “không làm nên trò trống gì cả”, theo lời kể của chị cậu! Cậu thực sự thi rớt bằng tiểu học năm 15 tuổi. Tay lười biếng, mộng mơ và lãng tử nầy sẽ làm gì ra hồn?
    
Nhưng cậu ta mơ ước điều gì? Dường như cậu bị lôi cuốn bởi một lý tưởng khác hơn là toán học và văn chương? Người ta phát hiện cậu đã âm thầm làm, nơi góc căn gác chung với anh trai, một cái nhà tạm (vì không đủ chỗ đặt bàn thờ) và tuy thường rất lười dậy buổi sáng, cậu đã mỗi ngày trong tuần đi giúp lễ cho ông cha già  dòng Phanxico ở tu viện bên cạnh.
    
Cậu tâm sự là thích học ngành nông nghiệp: chắc là do ảnh hưởng dòng máu Guadeloupe và tổ tiên thiên nghề nông bên ngoại chăng? Tháng 9 năm 1923, cậu vào học trường Nông nghiệp Yvelot, khoảng 50 km về phía đông bắc Le Havre, và sau khi học ở đó vài tháng đã đi thực tập tại nhà một nông dân tên Paillette. Sung sướng và vô tư, cậu làm nghề nông trong vòng 3 năm, trong khi Pierre xuất sắc vượt qua các môn thi của trường H.E.C (Cao đẳng Thương mại), sau khi dọn thi cũng trong căn gác ở đường La République. Còn Anette theo học ngành y tá —- nghề mà cô theo đuổi tận tình và vô vụ lợi trong suốt cuộc đời độc thân của mình. Chính nhờ cô mà chúng ta có được nhiều kỷ niệm quý giá, được ghi chép lại cho các cháu chắt cô.
    
Trong khi Pierre là đứa con trai giống cha, máu Alsacien, chăm chỉ trong công việc, chắc chắn trong mọi kỹ năng và luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình, cậu Paul có vẻ giống mẹ, gốc Antilles, gần gũi với thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa, không quan tâm đến ngày mai, mang chút tâm hồn thi sĩ, gần gũi và nhiệt tình với bà con, dễ mến và vui vẻ với mọi người, tận tụy và hay bày trò với chúng bạn, trước là với các bạn hướng đạo sinh, rồi với các bạn bè chủng sinh, và với thanh thiếu niên Việt Nam sau nầy.
    
Lúc nầy, cậu mãn nguyện với nghề làm nông và làm tới cùng; cậu khá thờ ơ với gia đình, tuy thỉnh thoảng vẫn về thăm và thấy vui khi họ hạnh phúc: thực vậy, tiệm tóc làm ăn khá ổn, công việc buôn bán nước hoa và những sản phẩm làm đẹp chất đầy trong cửa hàng của bà Seitz phát triển khá, cho phép bà có thời gian thư giãn và chơi lại đàn piano, nhiều lúc cùng với Annette nữa. Một sự kiện vui lại đến: cuối cùng gia đình cũng mua được một mảnh vườn nhỏ ở quê, đặt tên là La Cagna[i], với những luống hoa, cây ăn trái, để làm nơi nghỉ ngơi mỗi Chúa nhật; có cả hai cái chòi lớn giúp tránh mưa, một giàn thể dục gồm xích đu, xà treo và lắc vòng. Thật là một xa xỉ, sau bao nhiêu năm vất vả và khổ đau! Tuy không làm sao so sánh được bằng cảnh thiên đàng của những trang trại Grand’Maison và Gourbeyre xưa kia…..
    
Đúng lúc đó, có tin quan trọng vào tháng 11 năm 1923: Ông bà Léo và Marie-Conchita Dufau không chịu nổi nỗi cô đơn khi xa các con và ước ao được gặp mặt đứa cháu trai  — do ông bà chỉ có con gái thôi. Vì vậy, họ quyết định bán luôn nông trại cuối cùng còn lại, được kế thừa từ bà nội “Maman-Bonne” Bourbet, đã qua đời năm 1914 ở tuổi 92, và toàn bộ bàn ghế tủ giường, rồi dọn về ở với cô con gái Marthe, hiện là bà Charles Martinet, mẹ năm cô gái và một cậu trai ở Saint-Germain-en-Laye.
    
Ngày 22 tháng 4 năm 1924, ông bà đoàn tụ với gia đình, trong niềm vui mừng và cảm động khôn tả. Lina đã không gặp cha mẹ mình kể từ khi rời đảo, năm 1898: đã 26 năm trời! Không biết chị còn nhận ra ông bà khi ở cảng đến không?…… Chị giới thiệu ông chồng Édouard và các con, đang tụ tập đón ông bà ngoại. Trong cuốn nhật ký, chị ghi lại về cha mình như sau:
    
“Tất cả tình thương của con vẫn không an ủi được cha; chừng ấy năm đau khổ quá đủ rồi. Lạy Chúa, Ngài đã chẳng hứa sẽ tha thứ cho những kẻ đã chịu nhiều khổ đau sao? Xin Chúa cho kể từ bây giờ, trong khoảng thời gian cha con còn sống dưới thế nầy, cha luôn được các cháu của cha ủi an”.
    
Những năm 1925-1927, tuy luôn gắn bó với nhau, gia đình phải sống rải rác mỗi người một phương. Tháng 7 năm 1925, Pierre tốt nghiệp H.E.C. Cậu chưa đầy 22 tuổi và tiếp tục theo học luật khoa. Cậu cho cha mẹ hay là muốn cưới cô gái cậu quen trong thời gian cũng khá lâu rồi: cô tên là Suzanne Holley và làm việc trong ngân hàng. Bà Seitz hơi bối rối trước tin này. Bà ghi lại như sau vào nhật ký:
    
“Tôi đã già chưa (ở tuổi 47!) mà giờ thằng con trai không chỉ còn riêng cho mình? Lạy Chúa! Xin vâng theo ý Ngài, và con tự nguyện rút lui, nếu đó là hạnh phúc của con con.”
     
Hôn lễ của Pierre và Suzon được cử hành vào ngày 26 tháng 7 năm 1927 tại Nhà thờ Saint-Denis de Sanvic, ở ngoại ô Le Havre, bởi một người cha bạn của gia đình, cha Émile Blanchet, khi đó ngài là hiệu trưởng trường Saint-Joseph Havre, rồi sẽ trở thành viện trưởng viện Đại học Công giáo Paris, rồi làm giám mục Saint-Dié.
    
Trong buổi lễ gia đình đó, có một người vắng mặt nổi bật: đó là cậu Paul, em trai của  Pierre. Nhưng bây giờ chúng ta sẽ gặp lại cậu, để không còn rời xa cậu nữa.

Le Maroc
    
Vào tháng 11 năm 1926, cậu nông dân tập sự của chúng ta, chưa tròn 20 tuổi, bị buộc phải thi hành nghĩa vụ quân dịch trong vòng 18 tháng. Cậu phải bỏ cày để cầm súng, bỏ vùng đất xanh tươi Normandie đi đến vùng sỏi đá Maroc. Cậu lên đường, không phàn nàn, vì cậu thấy “hoàn toàn bình thường cho một người thanh niên Pháp phải hy sinh một hai năm để phục vụ đất nước mình”. Còn mẹ cậu “khó chấp nhận” hơn: Bà ghi lại trong nhật ký:
    
“Con con đã bỏ con, con con đã đi xa! Hơn một năm không gặp. Đó là ý Ngài, lạy Chúa! Chúa dẫn con con theo số phận của nó, con xin phó dâng nơi Ngài. Phần con con, lạy Chúa! Ngài hãy biến nó thành một con người, một con người đường hoàng! Con muốn can đảm, nhưng con tội nghiệp bé Paul con lắm!”
    
“Ngài dẫn dắt con con đến số phận của nó”. Các bà mẹ thường có những trực giác như thế!—-Ta thấy bà luôn thổ lộ tâm tình sâu xa nhất nơi Chúa và coi đó như lời cầu nguyện.
    
Paul rời Marseille vào tối ngày 30 tháng 11 trên tàu Fatima, với bốn trăm bảy mươi binh sĩ khác. Lần đầu tiên, chàng trai ly hương này rời nơi chôn nhau cắt rốn, không phải là không cảm động. Tất cả các bạn đồng hành đều ở chung trong khoang tàu, nơi nặng mùi và dễ buồn nôn, lại càng nặng mùi hơn khi những kẻ hay say sóng nôn mửa. Do đó, cậu Paul thích lên trên boong tàu, và ở đó hai ngày hai đêm trong suốt chuyến hải hành. Như thường lệ, đặc biệt là trong mùa này, vịnh Lion (mà Paul gọi là vịnh Lyon, với một chữ “y”, bởi vì lúc đó cậu không khá về địa lý cũng như chính tả) biển động và con tàu nhảy lắc lư trên sóng; nhưng vào  chiều tối ngày 2 tháng 12 biển lặng và người ta nhìn thấy vịnh Oran tuyệt đẹp, với viền núi bao quanh, trong nắng đổ chiều tà. Đó là nơi các binh lính sẽ xuống tàu cặp bến và được đưa đến pháo đài được xây trên một đồi cao để bảo vệ thành phố.
    
Mọi thứ đều mới lạ dưới đôi mắt đầy ngạc nhiên của các cậu. Bầu trời và biển cả là một màu xanh bao la; cây cối, với những vườn cây cọ, vườn cây ô liu, vườn cam, bãi cây xương rồng, thật khác xa so với Normandie.
    
Nhưng đơn vị cậu chỉ tạm lướt qua vùng đất Algérie nầy, khi đó là lãnh thổ của Pháp, và một ngày sau, cậu được đưa đến Oudjda, ở Maroc, nước nầy, lúc đó nằm dưới sự bảo hộ của Pháp. Mười giờ tối, ba lô nặng trĩu trên vai, mọi người đến ga Oran, và từ bốn mươi đến năm mươi cậu được nhét trong các toa chuyên chở súc vật, nửa trong họ ngồi trên ghế, nửa còn lại ngồi dưới sàn. Phải mất hai mươi hai tiếng để di chuyển được 200 km theo đường chim bay. Và chưa hết, vì doanh trại cách nhà ga sáu cây số: lại cuốc bộ, và ba lô luôn luôn trên vai. Kiệt sức, cuối cùng mãi đến 11:30 đêm các cậu mới có thể nằm dài trên đệm rơm. Vậy cũng tốt rồi, vì các cậu đã không thay quần áo bốn ngày nay! Và chuyện tắm rửa vào sáng hôm sau là vô giá….
    
Chàng Paul của chúng ta luôn nhớ về cha mẹ, gợn buồn, tuần này qua tuần khác cậu viết thư về kể lại những hành trình di chuyển, về đời sống quân ngũ, những gặp gỡ của cậu, những kinh nghiệm và những khám phá làm chúng ta không thể không nhớ tới: đó là những kinh nghiệm và khám phá cách đây không lâu và cũng chính tại vùng đất này, của một binh sĩ nổi tiếng khác tên là Charles de Foucauld, người bị sát hại mười năm trước ở Tamanrasset. Theo dấu chân người, chúng ta sẽ có được một ý tưởng độc đáo về vùng Bắc Phi cũng như về những đoàn quân thực dân của chúng ta thời đó.
    
Cậu đăng ký học trường hạ sĩ quan. Tờ khai y tế cho chúng ta biết thể trạng của chàng trai: cao 1 m 77; nặng 64 kg; vòng ngực 92 cm.
Cậu viết: 
“Với một dụng cụ đặc biệt, vị sĩ quan nghe nhịp tim và tiếng thở. Con đã được công nhận có sức khỏe tốt, và con được chích thuốc ngừa thương hàn. Con bị sốt suốt 24 tiếng đồng hồ nhưng bây giờ, mọi chuyện đều tốt đẹp.”
    
Tuy chuyện sống chung chạ trong các phòng làm cậu khó chịu, cậu cho biết: ”Con có quan hệ tốt với mọi người, và đó là điểm quan trọng nhất.”
    
Sau thời gian lưu trú ngắn ngủi tại Oudjda, đơn vị cậu lên xe lửa đi về phía tây nam vào ngày 20 tháng 12: một tuyến đường sắt nhỏ “dạng Decauville” dùng riêng cho quân đội, đường ray chỉ rộng 60cm và tốc độ chỉ được 20 đến 30 km/giờ. Phải mất mười tám tiếng để chạy hết 229 km, khoảng cách từ Oudjda đến Taza, tính ra chỉ khoảng 13 km/giờ. Và, luôn luôn ở trong toa dành chở gia súc.
    
“Thỉnh thoảng tàu dừng, để thợ máy xiết lại các bánh xe của đầu máy hoặc một vài bu-lông khác sắp rơi. Thật buồn cười và tụi con cũng chỉ cười trừ thôi, vì có bực mình thì cũng chẳng ích lợi gì.. Vùng đất đồi núi hiểm trở. Giống như đường sắt nhỏ kiểu Decauville, đường này cũng không có hầm chui, tụi con đi vòng quanh chân núi. Vì vậy, tụi con phải đi đến 30km, trong khi theo đường thẳng thì chỉ  có 10 km thôi. Đất rất khô cằn: đúng là một sa mạc. Từ nơi này đến nơi khác, đất, mà cũng chỉ là cát thôi, bị cào mòn trũng xuống bởi những con suối, nhưng lúc này đã cạn queo. Trong lòng sông, trải đầy những đá cuội và cả hai bờ đều dốc đứng, bị khoét sâu, bị xói mòn, chứng tỏ vào mùa mưa nước chảy rất xiết. Tụi con vượt qua những con suối nầy trên những cây cầu bắc ngang chỉ rộng bằng đường đi. Vượt qua chúng thật là ấn tượng. Nhìn xa khoảng ba mươi hoặc bốn mươi mét, cảm giác thật tuyệt vời. (…..) Con cam đoan với ba mẹ rằng phong cảnh rất tuyệt vời và đã không tiếc công từ xa xôi đến đây, dù cho các phương tiện di chuyến có tồi tệ.
    
Cha mẹ yên tâm: những cảnh đẹp của Maroc không làm con quên “xứ Normandie thân yêu của con đâu”: con sẽ thấy hài lòng về Normandie hơn những gì con đã thấy ở xứ sở nầy.”
    
Lễ Giáng Sinh đầu tiên xa gia đình dường như làm cậu cũng cảm thấy buồn và việc khó khăn tham dự thánh lễ làm cho cậu khổ tâm.
    
Kéo dài trong ba tháng, Paul và các cậu đồng đội tham dự các “lớp học”, để học một nghề mới: lý thuyết trong lớp, học đi đều bước bên ngoài, tháo ráp súng, tập bắn bia, v.v…Cậu thuộc trung đoàn 24 binh vận, phải học cách tổ chức việc vận chuyển, cả thiết bị lẫn quân nhân. Kinh nghiệm hướng đạo của cậu rất quý, bởi vì cậu đã được huấn luyện sơ lược cách tổ chức trại, cũng như những bài tập thể lực làm tăng sức mạnh và sự khéo léo, và cả cách nấu ăn bằng bếp củi trên mấy viên đá xếp lại, v.v…
    
Điều khiến cậu Paul thích thú hơn cả là ngựa —– bởi vì khi nói về “trung đoàn binh vận “, liên quan đến việc “vận chuyển đoàn quân”, ngựa là phương tiện phổ biến để vận chuyển hay để tham gia chiến đấu — Vì đoàn quân của chúng ta được gửi qua Maroc có thể được phái đi bất cứ lúc nào để trấn áp các bộ lạc nổi loạn, chặn biểu tình thù địch, ngăn các cuộc đột kích, ngăn kẻ cướp từ trên núi xuống, hoặc những hành động thù nghịch khác. Do đó, những người lính không chỉ học cách đi ngựa mà còn phải học cách nhào lộn, các bài tập cân bằng, để có thể ngồi vững trên yên khi ngựa phi nước đại trên mọi địa hình.
    
“Vào ngày 8 tháng 1 năm 1927, Paul đã viết “chiều nay thay vì đi tập, Trung úy đã dẫn tụi con cưỡi ngựa lên núi chơi. Tụi con bắt đầu đi nước kiệu khoảng 1 giờ, rồi, khi đến những con đường mòn, tụi con đi chậm lại. Tụi con đã đi hơn hai mươi cây số. Không cần phải nói ba mẹ cũng hiểu đây là trò con thích biết chừng nào. Con đã hứa, khi con được gắn lon hạ sĩ, mỗi ngày Chúa nhật con sẽ đi ra ngoài để thăm viếng quanh vùng.
    
Trong lúc chờ đợi, con đã có bộ yên/cương để chùi bóng và con bảo đảm với cha mẹ là công việc không thiếu! Các bàn đạp, bộ cương bị hoen rỉ, và quy định đòi hỏi chúng phải sáng bóng như bạc. Con có một con ngựa rất cừ, nó thuần chủng. Khi nó nóng lên một chút, không có cách nào để giữ nó đi chậm. Con đã phi nước đại với tốc độ chóng mặt và, trong vùng núi nơi tụi con đã đi, con đã phải nhảy vượt chướng ngại vật. Cha mẹ biết con mê biết chừng nào!”
    
Một lần khác, cậu viết: “Hôm qua, tụi con phi nước đại như khi tấn công địch, trên chặng đường khoảng một cây số. Thật tuyệt vời, sức mạnh của các chú ngựa. Ngực của chúng lướt gần sát mặt đất và thật khó để dừng chúng lại. Không cần phải lặp lại, ba mẹ biết con thích cỡ nào. Chúng con cũng tập nhào lộn khi phi nước đại, trong một khu luyện ngựa nhỏ. Tụi con phải tập nhảy lên lưng ngựa khi nó đang phi nước đại, rồi cố giữ ngồi yên trên đó, phía bên phải hoặc phía bên trái, rồi nhảy xuống đất. Lần đầu tiên con làm, con đã mất thăng bằng và ngã về phía bên kia. May là đất mềm, và mấy con ngựa có thói quen tự động dừng lại.”
    
Can đảm, cậu tiếp tục: “Con thậm chí không có thời gian để sợ, và năm phút sau con lại nhảy lên ngựa, nhưng lần này thành công.”
    
Trong doanh trại còn có những con la. Trong vùng nầy, đường chỉ là những lối mòn rất khó đi xe, người ta sử dụng những con la vận tải, được dùng để tiếp liệu cho các tiền đồn biệt lập. Chỉ người bản xứ dẫn chúng và chăm sóc chúng.
    
Thị trấn nhỏ Taza nằm trên trục chiến lược Oran-Tlemcen-Oudjda-Fes-Rabat. Vì thế lưu thông đi lại khá nhộn nhịp. Chắc hẳn Paul đã được rơi vào một môi trường lành mạnh và đáng yêu, với các sĩ quan thực dân dễ chịu và biết cảm thông với các tân binh quân dịch, họ đối xử khoan dung, cho ăn uống đầy đủ, cả số lượng lẫn chất lượng. Họ cho học tiếng Ả Rập để các tân binh có thể giao thiệp với người bản xứ. Tất cả điều nầy xảy ra, tại thời điểm đó, trong bối cảnh tương đối an bình, và quan hệ với nước Pháp còn thân tình và đang phát triển tốt đẹp.
    
Phải chăng Paul mong muốn những người lính Pháp làm gương giúp người bản xứ hiểu rõ hơn về đạo công giáo, cho người bản xứ thấy họ cũng cầu nguyện, họ cũng thực hành bác ái, biết tôn trọng mọi người và họ không đến đất nước này để vơ vét của cải và chiếm đoạt phụ nữ, nhưng để mang đến cho họ những điều tốt lành của văn minh Kitô giáo. Than ôi! không dễ như thế mà trái ngược hẳn. Và đó là vấn đề khổ tâm. Đó cũng là lý do thất bại ở bất cứ nơi nào nước Pháp tìm cách chiếm làm thuộc địa.
    
Nhưng thêm một điều cho thấy Paul may mắn được nằm trong một đại đội được ưu đãi là rốt cục cậu ấy có thể đi lễ Chúa nhật và được gặp nhiều sĩ quan ở đó.
    
“Ngày 28 tháng 1 năm 1927”, cậu viết, “Con thấy có ông tướng, và khá nhiều sĩ quan cao cấp. Cũng có những chú lính quèn, con sẽ làm quen với họ ở câu lạc bộ”.
    
Cậu hăng say theo học để trở thành hạ sĩ, cấp bậc cậu đã đạt được chỉ sau hai tháng “lên lớp”: ngoài các bài tập trên lưng ngựa, còn có những bài tập bắn súng trường, và tuy cậu chưa khéo lắm, nhưng cũng đứng thứ 6 trên 60 trong bảng xếp hạng đầu tiên của trung đội, và đứng thứ 3 trong bảng tổng kết sau cùng. Ngay sau đó cậu được đào tạo cấp tốc trong vòng một tháng để trở thành trung sĩ.
    
Cuộc sống qua đi tốt đẹp, trong một khu vực yên bình, mặc dù có giao tranh lẻ tẻ, nhanh chóng bị trấn áp; với câu lạc bộ công giáo nơi cậu chơi cờ với cha tuyên úy; với những buổi đi tắm suối, dù là tháng hai, nhưng nước vẫn ấm; với những buổi đi săn nữa, một lần nọ ông trung úy đưa cậu đi săn lợn rừng, nhiều vô kể trong núi, nhưng họ trở về tay không; và, buổi tối cậu vui vẻ bập cái tẩu trong khi đọc báo nhận từ Pháp.
    
“Trong thời gian gần đây, con rất vui khi quen biết ba anh bạn không dám xin phép ra ngoài đi lễ vào sáng Chúa nhật. Con quyết định rủ họ đi và bây giờ, thay vì một mình, chúng con có bốn người”.
    
Cậu tìm cách học hỏi và tận dụng mọi hoàn cảnh: cậu nhắn cha mẹ gửi cho cậu mấy cuốn sách thiên văn học của mình.
    
“Vâng, con vẫn thích khoa học này, và ở trong xứ sở nầy, trời đêm rất trong và có những ngôi sao mới mà con rất thích chiêm ngắm. Có đến ba cuốn, con bỏ ở trong tủ trên gác.”
    
Khí hậu của Maroc dường như rất phù hợp với chàng Normand của chúng ta — nơi mà, có lẽ, dòng máu Antilles chiếm ưu thế.
   
“Nếu mẹ nhìn thấy làn da của con, mẹ sẽ tưởng rằng mẹ nhìn thấy một chiếc bánh mì nướng. Thật vậy, mặc dù chưa đến mùa xuân, trời nóng và con có một làn da rám nắng rất nhanh. Con chịu nóng rất tốt và con thích hợp với khí hậu đến tuyệt vời. Con chẳng biết đến bệnh tật là gì: không đau bụng, không đau đầu, không đau bao tử… và luôn luôn hài lòng! Thật ra, con đã không mất đi sự dẻo dai của mình; nếu mẹ thấy con nhào lộn trên lưng ngựa đang phi nước đại, mẹ sẽ bị chinh phục ngay.”
    
Một tính khí vui vẻ, cộng thêm một thể trạng đặc biệt khoẻ mạnh!  Đọc thư của cậu, người ta có ấn tượng rằng cậu làm được mọi sự như đùa, với nụ cười trên môi. Ngay cả khi giặt quần áo dưới suối, cậu cũng xem đó là thú giải trí, giống như được tả trong một bài luận văn :
    
“Mỗi chiều chủ nhật, con đi giặt quần áo dưới suối; thời gian gần đây, con áp dụng cách thức mới cho việc làm này: con giặt như người Ả Rập, nghĩa là bằng chân … và con mong cha mẹ tin rằng đồ giặt của con sạch bong! Để bắt đầu, tất nhiên, phải cởi giày ra, sau đó nhúng quần áo ướt và chất đống lên, xát xà phòng thật nhiều. Và bây giờ, tất cả những gì con phải làm là nhảy lên trên cho đến khi xà phòng xủi bọt; rồi xả, tiếp tục nhảy và xong. Đó là một quy trình rất nhanh và cha mẹ có thể chỉ cho bà Baudu, người phụ nữ giúp việc của cha mẹ…(Mười dấu chấm lửng!)”
    
Cậu cũng tìm cách trấn an cha mẹ, vì biết ông bà nghe đủ thứ tin tức từ Bắc Phi, nơi thỉnh thoảng có những cuộc đụng độ đẫm máu, được đăng trên trang nhất của báo chí. Ông bà đã đọc trên báo là ở Ouezzan, cách Taza không xa, đã có một cuộc phục kích và hai hạ sĩ quan bản xứ bị giết, một người trong số đó, Paul biết rất rõ vì cậu đã huấn luyện tân binh cho họ trước đây. Những người lính bản xứ là một loại cảnh sát trong thôn, vai trò của họ khá nguy hiểm vì họ chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự trong các bộ lạc. Vì biết cha mẹ cậu biết về sự việc và lo lắng sẽ nguy hiểm hơn cho cậu khi cậu được lên chức thượng sĩ, cậu viết: “Con không cảm thấy lo lắng gì về trách nhiệm trong tương lai sẽ đến: con tin bản thân con có khả năng thực hiện dễ dàng nhiệm vụ sắp tới; ngoài ra, không có gì là phù phép cả. Khó nhất là biết cách làm cho những người lính bản xứ kính nể và sợ mình. Chỉ cần họ thấy một chút yếu điểm nơi người chỉ huy, là không còn cách nào làm cho họ vâng lời nữa.”
    
Cậu thuần hoá họ, bằng cách đối xử với họ ít gay gắt hơn là các khóa sinh hạ sĩ quan khác; vì vậy cậu được quý trọng, thậm chí được yêu mến, và người Ả Rập mặc nhiên giúp lại cậu, cậu trả lại họ bằng thuốc lá, hoặc giúp họ một tay việc gì đó, hoặc thậm chí bằng vài lời khuyên.
    
Cậu cũng thuần hoá những đứa trẻ lang thang quanh trại để xin thức ăn; chúng hay đi theo cậu xuống suối, cậu cho chúng miếng bánh mì hoặc một vài đồng tiền cắc. Và chúng trả lời: “Cầu Chúa chúc lành cho chú!”. Tất cả những người dân đây sống rất nghèo, điều đó khiến cậu thương cảm và cậu tự hỏi làm thế nào họ có thể sống với điều kiện ít ỏi như thế.
    
Cậu nói: ”Một hôm, con đang ăn ổ bánh mì; con thấy nhiều nơi cháy sém, con đã vứt đi. Một đứa nhỏ người Ả Rập đi ngang qua vội vã nhặt lên và ăn. Con liền cho nốt nửa còn lại!”
    
Sau những tháng đầu sống đời quân nhân và thi đậu các môn học, Paul nhận được cấp bậc hạ sĩ và được nhiệm vụ tiếp tế các đồn hẻo lánh trong một bán kính tương đương với một ngày đường con la di chuyển, còn cậu thì đi ngựa. Sau đó, thêm đám lính mới, những người trẻ tuổi luân phiên đến từ Pháp, để thay thế những người được xuất ngũ. Cậu chịu trách nhiệm đào tạo họ, và công việc đó không phải là dễ; 90 người thuộc quyền; trong số này, 25% không biết chữ, 50% chỉ biết lõm bõm đọc viết, 25% còn lại vừa mới có chứng chỉ học bạ. Để cho họ hiểu những điều căn bản nhất, cậu hạ sĩ phải lặp đi lặp lại hàng trăm lần, đến khan cả tiếng! Lúc trước thì rảnh rỗi, nay bận cả ngày, nhưng cậu không phàn nàn, vì nhờ vậy mà thời gian trôi qua nhanh hơn.
    
Khi các lớp huấn luyện tân binh kết thúc, cậu lại thích tái xuất làm công voa tải hàng như trước, với những con la, xe kéo và chú ngựa.
    
Cậu nói:”Thật vất vả, rất vất vả, nhưng ….con thích cuộc sống như vậy. Một cuộc sống bận rộn với những khó khăn, mà “gần như hoàn toàn” tự do, ngủ trên đất cứng, ăn thức ăn thô. Tóm lại, một cuộc sống phát triển nhân cách, tinh thần sáng tạo và tạo nên người. Phải chăng chính là cái đau đớn thể xác hay là đau đớn tinh thần tạo nên điều đó? (…) Con thích sống trong một làng hẻo lánh vất vả làm lụng, hơn là ở nơi đông người mà suốt ngày không làm gì cả.”
    
Về điểm này, cậu sẽ được toại nguyện hơn cả mong đợi trong một vài năm tới! Rõ ràng, những tháng ngày ở Maroc ảnh hưởng tốt đến tính khí và sức khỏe của cậu. Những bài tập mạnh bạo, đặc biệt với ngựa, những cuộc chạy ngựa gan dạ và lâu dài của cậu, những cuộc thi nhảy, những cuộc nhào lộn của cậu, những cuộc hành quân trên các đường mòn trên núi, những buổi đi săn lợn rừng cùng với ông trung úy của mình, cũng như những lúc trầm mình kéo dài dưới suối, có khi cả vài  ba tiếng đồng hồ: tất cả điều nầy làm thân thể cậu thêm cường tráng, giúp phát triển cơ bắp, dẻo dai chịu đựng, coi như bổ sung cho những gì cậu đã học được trong hướng đạo trước đây, ở mức độ cao hơn. Cậu ăn gấp bốn lần, ngủ thẳng cẳng, và cho rằng “tớ là mình đồng da sắt”: hàng ngày uống ký ninh chống sốt rét vàng da, cậu không bao giờ bị kiết lỵ hoặc sốt vặt, trong khi chế độ ăn uống, đặc biệt là nước, được cho là kém vệ sinh. Cậu không ngại xin cha mẹ gửi vài gói quà, để cải thiện cuộc sống hàng ngày, bằng cách gởi cho cha mẹ các “tem phiếu gởi hàng miễn phí của nhà binh” để sử dụng, và cậu luôn tế nhị cảm ơn họ bằng cả trái tim —– ngay cả khi thanh sô cô la lúc nhận đã nhão nhoẹt do sức nóng mặt trời.
     
Niềm vui của cậu là tìm ra thuốc lá để nhét vào tẩu, và rít liên tu bất tận, nhưng cũng có lúc thích lượm hạt dẻ trong vườn. Và rồi, giữa hai tờ giấy, thỉnh thoảng cậu phát hiện—- một bông hoa!
    
“Cha mẹ có thể tin không, tất cả những bông hoa này là dành cho con: con ngửi, con nắn nót và, xoay đi xoay lại giữa các ngón tay, con thấy trong những cánh hoa, không chỉ là hình ảnh của căn nhà Cagna thân yêu, nơi gắn bó bao nhiêu kỷ niệm, mà còn là suy nghĩ trìu mến về cha mẹ thân yêu của con. Đó là mấy chuyện lặt vặt, nhưng làm con thích thú!
    
Giờ cậu tham gia nhiều hơn trong phòng tuyên úy công giáo. Cậu giữ quan hệ tốt với cha tuyên úy quân đội, một linh mục dòng Phanxicô, cậu tham dự các buổi họp mặt ở câu lạc bộ và dự các buổi hội nghị, tận dụng sách thư viện, hát với ca đoàn gồm mười hoặc mười lăm ca viên, hầu như các quân nhân đồn trú ở Taza toàn là người Công giáo: giữa lòng của ngôi nhà nguyện hầu như chỉ có các sĩ quan và binh lính; một người đánh đàn dương cầm, một người chơi vĩ cầm hoặc thổi sáo. Sự hiện diện của cậu, lòng nhiệt thành tự nhiên và dễ lây lan của cậu chắc hẳn đã giúp thánh lễ trở nên sốt sắng hơn.
    
Cậu nhận thấy tâm trạng đối với tìmh hình nơi cậu ở khác với tâm trạng bàng quan ở bên Pháp và những suy tư về vấn đề đó chứng tỏ cậu có một đầu óc sáng suốt, quân bình và vững chắc. Người Pháp ở đây chỉ là thiểu số sống giữa một đám dân mà nay cậu công nhận là họ có thái độ thù nghịch  – điều mà cậu đã không nhận ra lúc đầu, trừ phi cậu đã muốn trấn an gia đình. Trong trại, tỷ lệ người bản địa là 80%, do đó người Pháp sống liên kết chặt chẽ với nhau hơn và tất cả đều trân quý tình đồng đội. Cãi nhau là hiếm, chơi xấu, đê tiện cũng không. Cậu biết chọn bạn trong số những đứa không hay la cà ngoài phố hay không thích những trò giải trí kém lành mạnh.
    
Viễn cảnh được xuất ngũ, trở về quê làm cậu nóng lòng, mặc dù vẫn còn phải vật lộn vài tháng nữa với đường sá ở Marốc. Cậu nhắc đi nhắc lại trong mỗi lá thư gửi cho cha mẹ rằng cậu rất mong gặp lại họ, và cậu chuẩn bị từng bước để tìm lại công việc đồng áng..
    
Cậu hỏi:“Cha mẹ vẫn còn nhận được tập san Le Progrès agricole (Phát triển nông nghiệp-ND)? Con nghĩ là có, và như thế, cha mẹ có thể gửi cho con hai hay ba cuốn một lúc; để con cập nhật một chút với các vấn đề nông nghiệp.”
    
Vào tháng 9, cậu hy vọng sẽ trở thành thượng sĩ – không phải là tướng bảy sao – mà là hello thượng sĩ thường vụ của những doanh trại binh vận: tương đương sĩ quan, một sự thăng cấp có lợi nhiều về vật chất, như là có một phòng riêng nho nhỏ chẳng hạn. Cậu đã nhập nhóm dự bị sỹ quan cũng một phần vì lý do đó: cậu không chịu nổi cuộc sống chung chạ! Trong số hai mươi mốt quân nhân trong nhóm, chỉ năm người đứng đầu được đề xuất cho chức vụ này, và cậu đứng thứ 5. Cậu thừa nhận may mà lọt vô được! Một cậu bạn làm việc tại văn phòng đại đội thấy những bản báo cáo thăng cấp với ý kiến phê của ông trung úy: “các hạ sĩ xuất sắc có khả năng trở thành các sĩ quan huấn luyện tốt”. Vậy là, không còn nghi ngờ gì nữa, tham vọng của cậu càng tăng nhiều hơn và cậu dự định sau đó sẽ thi lấy bằng trung đội trưởng. Bằng đó sẽ cho phép cậu, dù không tương đương cấp bậc, đảm nhiệm những công việc của một thượng sĩ và sẽ tự động lên lon khi trở thành quân dự bị. Điều đó còn cho phép cậu đến Fès, một thành phố cách đó một trăm hai mươi cây số. Và chính ở Fès mà cậu hân hoan viết lá thư cho cha mẹ như sau:
    
“Ngày chờ đợi từ lâu đã đến: cuối cùng con đã thành thượng sĩ (gọi là thượng sĩ thường vụ). Phú quý sinh lễ nghĩa! Tối thứ hai, ngày 10 tháng 10, khi vô nhà ăn, con đã phải đãi mấy ông hạ sĩ quan cũ, rượu khai vị. Cho cả ba mươi sáu người…cháy túi luôn ! May thay, đoán trước điều này, con đã để dành được ít tiền tiết kiệm.”
    
Ngay ngày hôm sau thứ ba, chàng hạ sĩ quan trẻ được tin cậu phải đi đến Fès trong vòng một tiếng nữa. Rộn ràng náo nhiệt như sắp ra trận, cậu khoác ba lô lên vai và bước nhanh đến ga nơi có chuyến xe lửa nhỏ kiểu Decauville, mà cậu đã đi từ Oudjda. Phải mất thêm một ngày rưỡi nữa trong cái mà cậu gọi là “chiếc xe cút kít chịu không nổi” để vượt qua một trăm hai mươi cây số. Nhưng may cho cậu, bằng cách trả thêm chút phụ phí, cậu được quyền đi một loại xe khác: một kiểu xe ô tô trên đường ray có 12 chỗ ngồi. Hành trình du ngoạn đẹp như tranh vẽ xuyên qua ngọn núi, trên hoành sơn Moyen-Atlas mà chiếc xe vất vả chậm chạp bò lên; đôi khi, đường dốc ngoằn ngèo chữ chi, đến nỗi người ta phải dùng luân phiên lúc thì máy kéo — khi thì máy đẩy. Cứ mỗi năm trăm mét, tài công lại dừng lại, đi xuống, bẻ ghi (l’aiguillage), rồi leo lên và lại chạy tiếp. Rất may, không gặp nguy hiểm phải tránh chiếc tàu nào đi ngược cả. Nhưng nếu con đường chiến lược này được sử dụng để vận chuyển quân đội  khẩn cấp trong trường hợp người bản địa nổi loạn, người ta tự hỏi điều gì sẽ xảy ra. Và, nơi xoay xở khó khăn này, rất dễ lọt vào các ổ phục kích đưa đến nhiều thương vong! Trên đỉnh đèo, có trạm ứng cứu, họ cho máy nghỉ xả hơi một lúc, rồi lại mò đi xuống y hệt như khi bò leo lên.
    
Cậu Paul mô tả cuộc hành trình với tài năng của một nghệ nhân, cậu nói:”Tàu chạy chậm lắm. Tụi con có nhiều thì giờ tha hồ ngắm cảnh. Toàn là những ngọn núi dốc thẳng đứng, rải rác nơi thì được phủ lên vài bụi rậm, với đàn gia súc ốm đói kiếm ăn, nơi thì cằn cỗi và hoang sơ: nhìn chúng rất đẹp vì những mỏm đá hườm hườm màu đỏ phản chiếu kỳ lạ với nền màu xanh mênh mông của bầu trời. Cuối cùng, khi màn đêm buông xuống, từ trên đỉnh đồi, thị xã Fès hiện ra rực rỡ với ánh sáng đèn đêm.”
    
Đối với Paul, đó là một sự thay đổi hoàn toàn: từ giã một vùng hoang sơ với đất đai khô cằn sỏi đá, hầu như không có cây cỏ và một dãy trại và những căn lều, với các nhà ngủ cho sáu mươi tay điên điên khùng khùng ồn ào và thô lỗ. Bây giờ, cậu ở trong một doanh trại thực sự với các tòa nhà bằng đá, được bao quanh bởi cây xanh; cậu có một căn phòng thoải mái, ở chung với một người bạn dễ mến và lễ độ, và cũng là nông dân như cậu, thuộc vùng Amiens. Cậu có một chiếc giường nệm thực sự và một bàn rửa mặt. Cậu không tin nổi mắt mình!
    
“Một cuộc sống mới bắt đầu. Trước tiên được ăn trong nhà cơm; mười một tháng qua con “đớp cơm”(xin lỗi dùng chữ thô lỗ này) với chiếc gà mên, nên nay con rất sững sờ khi thấy có hai cái đĩa, một cái ly trước mặt và một chiếc khăn ăn trên đầu gối! Không biết con còn biết sử dụng nửa không đây? Cũng may là con nhớ lại rất nhanh thói quen cũ. Thức ăn rất ngon. Mỗi bữa ăn no giãn cả bao tử: sung sướng biết bao!”
    
Rồi sau đó —- có quần áo mới tinh, điều mà cậu rất lấy làm hãnh diện! Cậu đã đi mua một chiếc mũ lưỡi trai (képi) thay cho mũ chào mào (calot), và trên tay áo của cậu sáng chói những lon bằng bạc, thay vì bằng len đen. Cậu đã phải trả hết 46 quan! Thế là cậu cố gắng đi kiếm một nhiếp ảnh gia giỏi trong thị trấn để gửi chân dung của mình cho cha mẹ; và tất nhiên, bức ảnh sẽ còn lưu lại cho hậu duệ dòng họ. Về lương bổng, cậu lãnh khoảng 40 quan mỗi tháng.
    
Vừa ổn định xong, viên hạ sĩ quan trẻ đã được gửi đi công tác chín ngày trong một làng hẻo lánh, với một đoàn công voa thiết bị: một trăm cây số di chuyển cùng hai mươi chiếc xe, sáu mươi con la và ba con ngựa, với một hạ sĩ quan đi theo yểm trợ và hai mươi người Ả Rập.
    
“Ôi cái nghiệp! Con đã nếm đủ thứ màu sắc: xe thì hỏng, còn mấy con la, con thì chết, con bị thương … Suốt ba chặng vừa đi qua, con gần như không ngủ vì sợ bị mất trụi … và rồi cũng đã bị thiệt! Có đêm, vì bão lớn, chiếc lều rách ập vào người con. Mò mẫm, trong bùn lầy và mưa lạnh, con phải cắm lại cọc. Nhưng con đoan chắc với cha mẹ rằng, ngay cả trong thời điểm tồi tệ nhất, con đã không để mất tính lạc quan, và bất chấp tất cả, con vẫn giữ nụ cười, vì con nghĩ có người còn khổ hơn mình, không có một tấm lều để trú. Con nghĩ mình được ưu đãi lắm rồi…”
    
Rồi, say sưa trước vẻ đẹp của tạo hóa, cậu cao hứng viết lên những đoản văn thật lâm ly mà ai đọc cũng phải mê: “Cũng may là không phải đêm nào cũng như vậy cả. Con không thể tả cho cha mẹ hết tất cả niềm vui, nỗi xao xuyến mà con cảm nhận khi chiêm ngưỡng cảnh mặt trời lặn, những lúc mơ màng một mình, cách xa doanh trại, trong bóng đêm xóa nhòa vạn vật, lắng nghe côn trùng tấu nhạc, giống như để ngợi khen Đấng Tạo Hóa: có lẽ trái đất đang cầu nguyện chăng! … Và rồi, trên bầu trời, những ngôi sao lấp lánh! Tựa như trên vòm cao của một ngôi thánh đường khổng lồ nào đó? Con không biết làm thế nào diễn tả hết được những gì con cảm nhận trong tận đáy lòng trước cảnh thiên nhiên này; nhưng con sẽ luôn cất giữ niềm vui bao la trước những khoảnh khắc tuyệt vời đó.
    
Mỗi sáng con lại chứng kiến cảnh tượng trái đất thức giấc; phía đông bừng sáng, rồi tô thêm một màu hồng nhẹ, những ngôi sao chống lại ánh dương rực rỡ, nhưng rồi phải đầu hàng và mờ dần; cuối cùng, nơi chỗ trũng của vách núi, một quả cầu đỏ xuất hiện, như đi ra từ những ngọn núi, rọi chiếu màu lửa xuyên qua sương mù còn vương trên vách đá; đường chân trời rực sáng và trái đất ấm dần lên như đang hồi sinh. (…) Tuy nhiên, con thích buổi chiều hơn buổi sáng: nó tĩnh lặng hơn, yên lành hơn; giúp quên đi mọi lo lắng, tinh thần dễ dàng thanh thoát và, nếu không có sự mệt mỏi đưa con về trại, con sẽ đi lang thang suốt đêm thâu.
    
Dẫn những đoàn xe công voa này là một hành trình rất mệt mỏi, nhưng Paul có sức chịu đựng phi thường: anh ngủ trên nền đất cứng, cuốn mình trong một tấm chăn đơn sơ; thức đêm để đi lòng vòng kiểm tra trại đóng quân và đánh thức các lính gác bằng gậy; cậu là người thức dậy đầu tiên và đánh kẻng báo thức lúc 3g30. Và sau đó, nhảy lên yên, và thúc ngựa đi! Mọi người lên đường! Về đến doanh trại, chỉ sau một vài giờ nghỉ ngơi, cậu không còn cảm thấy mệt mỏi nữa.

Tại doanh trại, cậu cũng không ngồi yên, nhất là khi cậu là hạ sĩ quan trực tuần, nghĩa là khi nào, đến lượt mình, cậu chịu trách nhiệm với đoàn quân: 250 người, bao gồm hơn 200 người bản địa, và 400 súc vật, chủ yếu là ngựa và la. Bận rộn từ sáng đến tối và thậm chí từ tối đến sáng, tuyệt đối không đi ra khỏi trại. Ngoài ra, cậu đọc rất nhiều sách – đúng là một đam mê mới! – và cậu mua cuốn kinh Koran và sách nói về cuộc đời của Mahomet để hiểu rõ hơn về những người Hồi giáo đang chung sống với cậu; cậu mơ ước đi thăm một nhà thờ Hồi giáo, nhưng gần như không thể thực hiện.

Trong một lá thơ gởi cho cha mẹ mình, cậu thổ lộ: Thú thật với cha mẹ là trước khi bắt đầu đọc cuốn kinh Coran, con có do dự. Thật vậy, con sợ (từ nầy là chính xác) sẽ tìm thấy những lý lẽ vững chắc thiên về đạo Hồi mà có thể con không có câu trả lời và do đó có thể làm lay chuyển những xác tín của con. Nhưng, tạ ơn Chúa! Điều đó đã không xảy ra và những gì con đọc chỉ làm củng cố thêm đức tin của con mà thôi..

Sau đó, cậu đã viết một bài khảo cứu ngắn về lịch sử của Mahomet và Hồi giáo. Cậu kết luận như sau về giáo lý Hồi giáo:

“Đầy sai lầm!, Đầy huyền thoại trong đó, ngoài những điểm cao siêu mà Mahomet đã mượn ở Phúc Âm và Ngũ Thư.”

 Khi mẹ cậu tỏ ra lo lắng về việc đọc sách nầy, việc mà chính bà cũng không dám, cậu trấn an mẹ: “Kinh Koran sẽ không làm lung lay niềm tin của con đâu. Con biết đánh giá cuốn sách này theo đúng giá trị của nó. Mohamet chắc hẳn là một con người thông minh, táo bạo và khôn khéo. Nhưng từ đó tin ông ta là một tiên tri: không bao giờ!”

Kỵ sĩ gan dạ của chúng ta thích đi ngựa —– một đam mê mới nữa. Con ngựa được đặt tên là Vol-au-Vent (bay như gió), cái tên thật thích hợp; cậu tham dự những buổi đua ngựa và các môn thể thao liên quan đến ngựa, và không gì làm cậu thích thú và kinh ngạc hơn là chất lượng của những con ngựa thuần chủng Ả Rập. Cậu hay lang thang sâu quanh vùng nông thôn, rồi vào một buổi chiều nọ, tình cờ đưa cậu đến một ốc đảo, cậu phát hiện ra nhóm người dân bản địa còn mang trên mình bản chất tinh nguyên của sắc dân Ả rập. Họ sinh sống trong những túp lều tre nứa, vách đất, giữa một khung cảnh tuyệt vời dưới đáy hẻm núi dốc, nơi những cây cọ cao bao quanh dòng suối. Cậu cũng đi thăm hết thành phố Fès, ngạc nhiên trước vẻ đẹp của nó, những nhà thờ Hồi giáo với những ngọn tháp trang trí tranh ghép mảnh, mảng vữa xi măng giả đá đan xen những đường nét tinh vi, điêu luyện, những cung điện lâu đài là những kiệt tác kiến trúc, những nghệ nhân trổ tài bên cạnh các quầy hàng của họ, có kẻ cán đồng chế tác thành những chiếc khay đẹp lộng lẫy hoặc thành những bình đốt trầm hương, có người dệt những bộ y phục với màu sắc rực rỡ. Cậu cứ nghĩ mình như đang lạc vào thời trung cổ! Mãi mê vì thích thú, kẻ mơ mộng dễ mến đi lạc vào trong những con hẻm đầy hiểm nguy và lang thang mãi đến đêm trong mê cung khó thoát, nỗi lo lớn dần trong lồng ngực. Hết ngõ cụt đến những bức tường cao với cửa đóng then cài, những ánh mắt nghi ngờ xoi mói…Cuối cùng cậu cũng tìm được lối về. Hú hồn!

Ngày 26 tháng 11 đánh dấu kỷ niệm một năm ngày cậu rời khỏi nhà; cậu viết cho cha mẹ:

Mặc dầu tai con không giật giật, con đoan chắc là cha mẹ đang nói về con ngày hôm nay. Hai mươi sáu tháng 11 năm 1926! Đã một năm rồi! Thời gian trôi nhanh quá! Con nhớ từng chi tiết nhỏ nhất của ngày đó như mới chỉ xảy hôm qua. Một ngày thứ sáu nhiều mây, nhưng không mưa, con dậy vào sáng sớm, trong thánh lễ lúc 7 giờ sáng, chúng ta đã rước lễ, Mẹ và con, cử chí thân tình mà mẹ con cùng tái diễn sau thời gian nhiều tháng. Trở về nhà, đầu óc con rối bời, trái tim se thắt. Ôi! Buổi sáng cuối cùng đó! Con cũng chẳng biết tương lai mình sẽ ra sao: con cảm nhận được phần nào đây có thể là một cuộc chia ly dài, và nếu có sự  tiếc nuối nào đến với con lúc đó, thì nó chắc hẳn đã bị dập tắt trong con bởi viễn cảnh của một chuyến hành trình tốt đẹp, của một cuộc sống lãng du và đầy mạo hiểm. Ở tuổi 20 mà!…Chúng ta cùng ngồi quanh chiếc bàn. Con nghe những lời dặn dò cuối cùng. Chuông đánh tám giờ, đó là khoảnh khắc chia ly… 8:45 sáng: tiếng còi tàu tàn nhẫn và tức thì, con có cảm giác rằng một cái gì đó bị vỡ …Cái bị vỡ chính là cuộc sống gia đình hạnh phúc bé nhỏ mà con đã trải qua. Từ nay, con sẽ bước vào giai đoạn thứ hai của cuộc đời, nhưng luôn luôn với một niềm tin canh cánh bên lòng và một niềm hy vọng mãnh liệt vào một ngày trở về không xa tràn đầy hạnh phúc.

Tháng ngày trôi qua, vài bất trắc nghề nghiệp nho nhỏ đã cộng thêm vào nỗi buồn chia ly, nhưng tính tình con vẫn không thay đổi. Trường đời lớn lao trong đơn vị quân đội là nơi giúp con vững bước trên con đường tốt đẹp mà con đã và đang đi.

Chúng ta sẽ làm gì sau khi con trở về? Chúng ta sẽ bàn chuyện đó khi gặp lại…. Như thế sẽ tiện hơn. Tương lai không thuộc về chúng ta, nhưng ai cấm chúng ta nghĩ đến nó với lòng tự tin và ước mơ nó sẽ tràn đầy hạnh phúc… tại sao không ?

 Nếu chúng ta có thể đoán rằng có một vài dự tính tương lai tiềm ẩn sau lá thư này thì lá thư ngày 12 tháng chạp tiết lộ chúng, dưới một hình thức bất ngờ: một mặt, cậu nộp đơn thi chứng chỉ tiểu đội trưởng, với hy vọng trở thành sĩ quan dự bị; cậu biết rằng cậu sẽ phải bỏ ra nhiều thời gian học và thực tập hàng năm, nhưng tham vọng vẫn là tham vọng, và cậu thấy bình thường khi cần hy sinh thời gian cho quê hương. Mặt khác, – khá ngạc nhiên! – cậu tiết lộ rằng muốn trở nên giàu có, thậm chí rất giàu, để có thể bố thí bằng cả hai tay mà không cần đếm.

 “Vâng, đó sẽ là một thỏa mãn to lớn đối với con khi con có thể cho những người đến xin và thậm chí cả những người không xin. Con không nói những điều này để phô trương hoặc khoe khoang bởi vì con luôn muốn mình là một nhà tài trợ ẩn danh. Và chính vì mục đích này mà con sẽ làm việc để làm giàu.

 Cha mẹ đang cười à? Vâng, đúng vậy, đó là tham vọng của tất cả những người trẻ tuổi và bao nhiêu người đã thất vọng! Nhưng phương châm của con sẽ là: “Tại sao không? ” Và con còn có một vài suy nghĩ sau: “Thất bại chỉ đến với những kẻ tin rằng thất bại là khả thi “—-” Thành công luôn là kết quả của may mắn cộng với kiến thức có được và nghị lực”. Con sẽ bước vào đời với tất cả sự nhiệt tình và niềm tin lớn lao vào thành công. Và con chắc chắn sẽ thành công! “Tại sao không?”

 Trở về Pháp

 Cuối cùng, được giải ngũ, ngày mà cậu chờ đợi đã lâu! Nhưng Paul cũng không khỏi bùi ngùi trong tim khi rời Maroc, nơi cậu đã ở hơn một năm. Tuy không thiếu những thử thách, và những khó khăn, Paul đã khám phá ra một đất nước khác xa với quê hương Normandie, với những phong cảnh kỳ vĩ, những đêm đầy sao làm cậu mơ về Đấng Tạo Hóa, mơ về nơi vô tận mà ở đó ta sẽ được chiêm ngưỡng đời đời.

  Vào tháng 3 năm 1928, sau khi đi qua thành phố Meknes và Rabat, cậu đến Casablanca để lên tàu,trực chỉ Bordeaux; cuộc hành trình này yên tĩnh hơn khi đi; cậu trờ về lại đất Pháp với cảm xúc mạnh và niềm vui gặp lại gia đình, ai cũng ngưỡng mộ đứa con, lộng lẫy trong bộ đồng phục hạ sĩ quan ngành Binh vận mà cậu đã sắm truớc khi rời Fès. Mọi người tranh nhau hỏi cậu đủ điều nhưng không ai có giờ nghe câu trả lời. Nhiều tuần nghỉ ngơi cũng chẳng quá nhiều để thưởng thức những câu chuyện “chiến dịch” của chàng sĩ quan dự bị, hớn hở, đôi vai nở nang, lý luận vững chãi .

 Về phía mình, cậu nhận thấy cha mẹ đã già đi nhiều. Ông bà đang nghĩ đến việc giảm bớt công việcvà bắt đầu về hưu nửa mùa. Để tiến hành, họ đã rao bán khu vườn Cagna thân yêu, mà Paul đã gắn bó, và muốn tậu một căn nhà dễ thương ở Criquetot – l’Esneval, thị trấn thuộc hạt Caux, cách Le Havre ba mươi lăm cây số về phía bắc, không xa khu vách đá Étretat. Bà chủ nhà, 75 tuổi, muốn bán trả góp cho đến khi bà chết — cách mua bán này phù hợp với gia đình nhà Seitz, luôn không một xu dính túi; và họ ký hợp đồng dù không có gì gấp. Và bà chủ tế nhị đã không chờ quá sáu tháng để ra đi rời bỏ thế gian, nên gia đình Seitz kết cục chưa phải trả góp đồng nào cả, và họ có thể sắp xếp dọn đến sớm..

 Căn nhà này rộng rãi và thoải mái hơn nhiều so với nơi cũ, ở số 11, đường La République ở Le Havre, đối diện nhà ga: Ông Seitz có thể mở tiệm tóc nhỏ ở tầng trệt, và sẽ một mình tiếp khách. Vì vậy, bớt phải lo lắng về nhân sự, dụng cụ và bảo quản. Gia đình sẽ có chổ ở rộng rãi hơn và mỗi người sẽ có phòng riêng của mình; và họ có thể nghĩ đến việc đón các cháu về chơi nữa. Thật là một viễn cảnh thú vị! Năm 1930, họ dọn nhà đến nơi mới nầy.

Hiện tại, Paul có vẻ rảnh rỗi. Buổi sáng cậu đi dạo, dường như vẫn quan tâm đến mấy tờ báo nông nghiệp và bắt đầu tiếp xúc trở lại với nghề nông; mỗi buổi tối, cậu kể lại cuộc sống của mình ở Maroc, nhắc đến Lyautey, Charles de Foucauld, Ernest Psichari. Cậu đi thăm ông bà ngoại Dufau, các dì và anh em họ ở Saint-Germain en Laye và cậu ở lại Paris thời gian lâu, mà không ai hiểu tại sao. Nhưng về tương lai của cậu, không một lần hé môi. Thậm chí cậu càng ngày càng trở nên ít nói và hay suy tưhơn. Mọi người ngạc nhiên. Cha cậu lo lắng.

 Cuối cùng vào một ngày kia, khi cha mẹ và Annette tra vấn cậu, Paul lấy một tài liệu trong túi ra: trên trang bìa, đăng hình ảnh của một cơ sở lớn: Chủng viện Hội Thừa Sai Paris. “Đây là nơi con muốn đi đến,” cậu trả lời đơn giản, Chúa gọi con: con sẽ trở thành nhà truyền giáo.”

Cậu vừa nói xong, một sự im lặng nặng nề đè xuống: nay thì mọi sự đã rõ ràng. Sự xúc động lớn đến nỗi phải mất một thời gian để chính Paul lấy lại tinh thần và giải thích lý do cũng như một số chi tiết về những thủ tục mà cậu đã kín đáo làm, những cuộc gặp gỡ với vị bề trên ngôi nhà ở đường Bac, Paris, và các ngài đã chấp nhận ơn gọi của cậu, sẵn sàng nhận cậu vào.

Mọi người không ai kìm được tiếng khóc nức nở. Ông Seitz, người mà đức tin và việc giữ đạo đã ngủ sâu trong tim cảm nhận giờ nó đập lạ thường. Còn vợ ông, bà vô cùng xúc động, vừa vui vừa lo, và bà chỉ có thể im lặng ôm con trai vào lòng. Đến tối, bà viết vào nhật ký: “Con con ra đi vừa trở về. Hạnh phúc mà trái tim yếu đuối của con chờ đợi, nhưng một nỗi đau mới lại đến: một nỗi đau như xé nát tâm can con nhưng con thấy như một tia sáng: Chúa muốn gọi con con! Thưa Ngài phải vậykhông?“

 Về phần Annette, sau này cô thừa nhận rằng mình đã khóc bốn ngày và bốn đêm, cô hài hước tâm sự: “Sau khi khóc hết nước mắt, đầu óc tôi sáng ra: lý luận đơn giản: giống như trước khi làm thuyền trưởng, phải là một thủy thủ, trước khi là một nhà truyền giáo, phải là một chủng sinh, phải ngấu nghiến tiếng Latin; phải cật lực trong nhiều năm, hình như sáu năm … và vì thế chị đang đợi em ở đó, em trai à. Cho đến bấy giờ, đứa em chị đã không đưa ra bằng chứng là loại thể thao này phù hợp với nó, phải không? Nói thật ra, tôi dựa vào một quá khứ dường như không thể đảo ngược với tôi: tôi tự nhủ, coi kìa, em tôi có đi đâu đâu; tôi tự an ủi: ngày mai đâu phải là hôm nay! Ai sống sẽ thấy.

Và thức sự tôi đã thấy … và em tôi đã cho tôi ăn bánh vẽ một cách ngoạn mục! Chín năm sau, ở tuổi 31, vào năm 1937, em tôi trở thành linh mục và được sai đi Hà Nội, tại xứ Bắc Kỳ, Đông Dương thuộc Pháp cũ, nơi mà em sẽ làm việc trong vòng ba mươi tám năm!”

Và đối với người em mà bà chị luôn yêu quý suốt cuộc đời y tá độc thân của mình, chị đã tổng kết sự nghiệp mà người em miệt mài theo đuổi, như sau: 

“Đầu tiên em học tiếng Việt, chuyện không dễ! Sau đó liên tiếp và đôi khi cùng lúc — như được kể lại trong nhiều lá thư  — em là tuyên úy không những của các hội đoàn thanh niên, mà còn của trường học, nhà tù và quân đội; làm cha xứ nhà thờ chính tòa Hà Nội, nhà sáng lập Trung tâm thiếu nhi bị bỏ rơi; bề trên vùng của Hội Thừa Sai Paris ở Việt Nam; cuối cùng, trong hai mươi ba năm, từ 1952 đến 1975, Giám mục Giáo phận Kontum, trên Tây Nguyên miền Trung Việt Nam…Và còn bao nhiêu chức vụ khác mà tôi không nêu lên ở đây!

Thật đúng là hai anh em trai của tôi không khác nhau lắm, tuy mỗi người đi theo mỗi con đường khác nhau!

Bây giờ, vào ngày 16 tháng 8 năm 1975, tôi thấy em quay trở về – lần này, không làm tôi khóc, mà ngược lại —- bị trục xuất bởi những người Cộng sản, nay làm chủ toàn bộ bán đảo Đông Dương, trắng tay, chẳng tý ty hành lý, bận chiếc áo chùng thâm Việt Nam, chân trần không vớ trong đôi sandal, gầy gò hốc hác, buồn vời vợi, nhưng vẫn luôn luôn đứng thẳng, vớí tinh thần truyền giáo mạnh mẽ hơn bao giờ hết, như được thấy qua các hoạt động của ngài ở Pháp.

Bây giờ quyết định đã có, không còn lý do nào để dời lại ngày đi, mặc dầu Paul phải đau lòng xa lìa gia đình một lần nữa. Cậu lại thu xếp hành lý và, trong những ngày đầu của tháng 5 năm 1928, cậu lên tàu đến Paris, cùng với mẹ, người không cưỡng được ý muốn nhìn thấy ngôi nhà con mình sẽ ở, và ôm hôn con một lần nữa trước khi cánh cửa đóng lại sau lưng con.

Chúng ta tìm được trong nhật ký của bà 4 câu thơ mà bà đã sáng tác như sau:
“Để trở thành môn đệ, Thầy đã chọn con.
Vĩnh biệt con, con mẹ! Mẹ luôn hy vọng và vững niềm tin
Hợp nhất với tình ái thiêng liêng soi dẫn,
Ngọn đuốc sáng ngời đang rọi trước mắt con.”

Sau này, Đức Giám mục Seitz có lần tâm sự: “ Ơn gọi linh mục luôn cắm rễ sâu trong lòng của một người mẹ thánh thiện.” Và, với tình yêu dành cho mẹ, Ngài luôn cẩn thận giữ cuốn sách lễ quý giá, sờn rách vì được dùng quá nhiều, của người Mẹ kính yêu.
 
[i] “Cagna” từ nhà binh có nghĩa nơi trú ẩn trong chiến hào

Download file nghe: Chương II-1

Download file nghe: Chương II-2
************************************************
CHƯƠNG III
VÀO CHỦNG VIỆN HỘI THỪA SAI PARIS

Nguồn gốc Hội Thừa Sai Paris 

“Hội Thừa Sai Paris” này là hội gì mà chàng thanh niên Paul Seitz muốn gia nhập ? Được thành lập giữa thế kỷ 17, Hội có mục đích chính là rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ở vùng Viễn Đông. Một thế kỷ trước, thánh François Xavier, môn đệ của thánh Ignace de Loyola, đã được phái đi truyền giáo tại Ấn Độ và Nhật Bản, giúp nhiều người trở lại đạo ; nhưng ngài mất sớm, khi chưa thể thành lập được hàng giáo sĩ bản địa và giúp đặt nền móng cho đạo công giáo cách lâu dài. Những cuộc bách hại khủng khiếp đã triệt phá các giáo đoàn Ki-tô giáo mới thành hình và có rất nhiều vị tử đạo ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 17.

Chính vào thời điểm đó, giáo triều Roma quyết định thành lập Bộ Truyền Bá Đức Tin (La Congrégation De Propaganda fide), thường được gọi là “Bộ Truyền Giáo” với nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho tất cả những vùng đất mới được khám phá, gửi tới tận nơi các nhà thừa sai cùng với một hàng ngũ lãnh đạo do Roma kiểm soát; các đức giáo hoàng mong muốn phái các nhà thừa sai độc lập, không lệ thuộc chính quyền dân sự, để các vị này sẽ thông tin trực tiếp cho Tòa Thánh, cải tổ các phong tục bị lơi lỏng và gầy dựng tại mỗi quốc gia một hàng giáo sĩ địa phương, với các giáo sĩ, linh mục và giám mục.

Một linh mục dòng Tên nổi tiếng, cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), xuất thân trong một gia đình gốc Do Thái-Tây Ban Nha, định cư ở Avignon từ thế kỷ 15, không thể đến Nhật Bản để thi hành sứ mệnh truyền giáo, dù đó là nơi mình được chỉ định: vậy là ngài được phái đến Đàng Trong năm 1624; ở đây, ngay từ năm 1615, các đồng nghiệp của ngài đã thành lập những cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên trong cả nước, qui tụ xung quanh một nhóm người từ Nhật Bản qua tỵ nạn. Từ Đàng Trong, ngài ra Đàng Ngoài, và chỉ trong một thời gian ngắn, đã có bảy ngàn người trở lại đạo và được cha rửa tội, nhưng ngài bị trục xuất năm 1630, vì một sắc dụ cấm đạo Ki-tô giáo. Sau nhiều cố gắng đầy nguy hiểm để giảng đạo từ chỗ nầy qua chỗ nọ, ngài bị trục xuất vĩnh viễn vào năm 1645 và bị dọa giết, nếu quay lại.

Được coi là một trong những vị thừa sai uy tín nhất tại Việt Nam, Cha Alexandre de Rhodes trở về Roma, bày tỏ lo lắng về tương lai của các cộng đoàn Ki-tô hữu mới phôi thai. Dân chúng hân hoan đón nhận lời rao giảng về Ki-tô giáo, nhưng các quan lại và sư sãi, vì ghen tị với kết quả của họ, đã bách hại các nhà giảng thuyết và những ai nghe theo. Thực chất công việc và sự thành công của nó dựa vào các giáo lý viên địa phương, họ tận tâm đến nỗi đôi khi phải tử vì đạo. Nhưng nếu như không nhanh chóng thành lập một hàng giáo sĩ địa phương, với các giám mục để duy trì việc phong chức, những cộng đoàn tín hữu mới hình thành này sẽ tiêu tan giống như ở Nhật Bản.

 Ở Roma, ngài được chăm chú lắng nghe và sự sáng suốt của ngài thúc giục các hồng y và các chức sắc trong Bộ Truyền Giáo làm theo lời ngài đề nghị ; sau đó ngài sang Paris, với hy vọng tìm được những người tình nguyện. May thay, chính vào thời gian này, có một số linh mục trẻ, rất hăng say và sốt sắng lo việc tông đồ, vốn đã quen nhau trong thời gian học thần học tại Paris, đang được Chúa Quan Phòng qui tụ, họ thành lập một Hội, dưới sự bảo trợ của Đức Trinh Nữ Maria, lấy tên là “Những Người Bạn Tốt”.

Linh hồn của nhóm là Cha François Pallu, một linh mục trẻ vùng Tours đầy nhiệt tâm với các linh hồn và cháy bỏng khát khao được ra đi truyền giáo; ngài được hai người bạn nghĩa thiết giúp sức, Cha Lambert de la Motte và Cha Montmorency-Laval.

 Vào tháng 1 năm 1653, có cuộc gặp gỡ mang tính quyết định giữa Cha Alexandre de Rhodes và cộng đoàn non trẻ bán chính thức này. Cha François Pallu, thay mặt cho cả nhóm, tuyên bố mình sẵn sàng đi sang Viễn Đông và, sau mười ngày tĩnh tâm để giúp quyết định, được tham dự rất sốt sắng, khoảng hai mươi thành viên của Hội Những Người Bạn Tốt sẵn sàng lên đường.

Phải mất không dưới năm năm, năm năm dài để tiến hành các bước đi cần thiết, tới lui và lưu lại nhiều ngày ở Roma, cuối cùng đức giáo hoàng Alexandre VII mới chuẩn y. Ngày 29 tháng 7 năm 1658, có tông sắc bổ nhiệm hai cha làm giám mục đại diện tông tòa, Đức Cha François Pallu phụ trách Đàng Ngoài (Miền Bắc), Lào và Đông Nam Trung Quốc; còn Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (Miền Nam).

Về phần Cha Montmorency-Laval, ngài được bổ nhiệm làm đại diện tông tòa, giám mục Pétrée, nhưng được gửi sang Canada, còn được gọi là “Nước Pháp mới”. Ngài là giám mục đầu tiên của vùng Québec và trở nên nổi tiếng ở đây.

Hội Thừa Sai đã được tung ra khơi.

Còn tại đất liền, bắt đầu một công việc cam go mà Đức Cha Pallu sẽ đảm nhận: thành lập một chủng viện để đào tạo các linh mục tương lai cho công cuộc truyền giáo vùng Viễn Đông. Ơn gọi không thiếu; những giúp đỡ tinh thần cũng vậy; và tài trợ vật chất chẳng bao lâu sẽ đến. Các thế hệ chủng sinh liên tục tiếp nối, họ được đào tạo để đem Tin Mừng và chỉ Tin Mừng thôi, độc lập với mọi can thiệp chính trị, mọi mưu đồ thực dân hoặc thương mại; họ được đào tạo để hội nhập vào các môi trường khác nhau, ngoại đạo, thờ vật linh, phật giáo, v.v…, vì vậy họ sẽ phải nghiên cứu tiếng nói, văn minh, phong tục, nghi thức tôn giáo; họ được đào tạo để sẵn sàng chấp nhận khổ đau, cô đơn, và cuối cùng là tử vì đạo, điều rất có thể xảy ra, và thực sự sẽ xảy ra.

Giáo hội Châu Á sẽ trở thành một khuôn mẫu, giữ khoảng cách với các thế lực trần tục – mặc dầu các thế lực này sẵn sàng trợ giúp trong nhiều trường hợp; sự phát triển văn hóa và xã hội nơi các cộng đồng đã trở lại đạo, sở dĩ thành công được, chính là nhờ các môn đệ Đức Ki-tô.

Những cuộc bách hại đã bắt đầu ngay khi các vị thừa sai vừa mới tới, họ đã chịu đựng một cách thật anh hùng, khiến ta phải ngưỡng mộ; những cuộc bách hại ấy cứ tiếp diễn với các chỉ dụ của nhà vua ở thế kỷ XIX, biến hàng bao nhiêu ngàn tín hữu trở thành nạn nhân; rồi chủ nghĩa cộng sản ập xuống, giữa thế kỷ XX, sẽ mưu toan phá hủy công trình gầy dựng của ba thế kỷ trước đó.

Gia nhập chủng viện (1928)

Đây là thời điểm Chúa Quan Phòng đã chọn để dẫn một chàng trai, can trường và quảng đại đến số 128 Rue Du Bac (trụ sở của Hội), ở Paris. Phải thừa nhận rằng: cậu Paul Seitz lúc ấy chẳng biết gì, hoặc hầu như chẳng biết gì, về những thứ đang chờ đợi cậu. Nhưng ngay lập tức, cậu cảm thấy thoải mái trong môi trường mới. Mối quan tâm duy nhất của cậu là đã làm khổ cha mẹ, vì từ nay họ sẽ phải cô đơn. Cậu viết cho họ vào ngày 17 tháng 5 năm 1928:

“Không phải là con không biết sự chia ly này làm cha mẹ buồn phiền như thế nào, nhưng dù sao xin cũng đừng trách con vô ơn hay nhẹ dạ. Mọi hậu quả từ quyết định của con, con đã cân nhắc trước; sở dĩ con hành động như vậy, chính là vì Chúa đã muốn thế, con không thể cưỡng lại tiếng gọi này, và giờ đây hơn lúc nào hết, con cảm nhận rằng mình không được sinh ra để ở ngoài đời. Nhưng trên hết, xin cha mẹ an lòng: xin cha mẹ đừng lo lắng cho số phận của con: ở đây rất phù hợp với con và do đó, con thấy mình rất hạnh phúc…, tuy niềm hạnh phúc ấy cũng phần nào bị mờ nhạt đi do con cứ suy nghĩ về sự buồn khổ của cha mẹ.”

Công việc đầu tiên của cậu là học tiếng La tinh: cậu lên lớp vào buổi sáng với một giáo viên và học riêng trong phòng suốt thời gian còn lại: không chỉ tiếng La tinh, mà cả tiếng Pháp, lịch sử, địa lý, bởi vì, phải thừa nhận một lần nữa, hầu như cậu không học hành được bao nhiêu lúc còn ở trường, thậm chí chưa đậu bằng trung học! Nếu muốn dấn thân vào chức vụ linh mục, cậu phải bắt đầu lại tất cả và cố gắng đạt cho được ít nhất bằng tú tài: đường còn xa lắm! Cậu thừa nhận:

“Có ai trong lớp lười nhác hơn con không? Vậy mà, con đã hăng hái lao vào việc học đến mức con chẳng còn nhận ra chính mình! Và hơn nữa, con làm việc một cách say mê. Con thích tiếng La tinh, thích những khó khăn gặp phải trong thứ tiếng ấy, và những giờ tự học kéo dài trong phòng riêng. Thật là tốt đẹp!”

Ngoài ra. cậu cũng phải thấm nhuần tinh thần truyền giáo, vì thế, cậu nhìn vào gương các Cha Già, những người trở về từ các quốc gia xa xôi, cậu ngưỡng mộ sự bình an nội tâm lớn lao của các ngài và niềm vui mà các ngài đang trải nghiệm vì đã cống hiến đời mình cho công cuộc rao giảng tin mừng nơi dân ngoại. Để thành công, các ngài đã phải có một đức tin vững mạnh, cũng như một đời sống nội tâm rất sâu xa.

May mắn thay, để tạm gác việc học hành cũng như các giờ lên lớp, có những khoảng thời gian thư giãn cho các ứng sinh (người ta vẫn gọi các chủng sinh Hội Thừa Sai như thế) đi đến Meudon, nơi mà cậu Paul Seitz mô tả là “một xóm nhỏ rất dễ thương, khuất sâu trong rừng, cách Paris chín hoặc mười cây số. Khu rừng rất lớn cho tụi con tha hồ đi dạo; đôi khi thậm chí có thể đi đến tận Versailles và, dù mặc mang áo chùng thâm (thấy tinh thần truyền giáo cao chưa), các ứng sinh cũng không ngại chèo thuyền trên hồ nước công viên.”

Các ứng sinh cũng thỏa thích tắm táp, trong hồ bơi hoặc trong những ao lớn, và thư giãn trong công viên to rộng ở nhà Rue du Bac; họ còn chơi banh đập tường kiểu xứ Basque, chơi ném bi sắt, v.v. Những sinh hoạt thể dục này giúp cân bằng đời sống học tập mà cậu Seitz đang tận lực trải qua. Ngoài ra còn có các đợt giải trí cho các ứng sinh tha hồ thi thố tài năng trong tinh thần vui vẻ thoải mái, nhất là vào dịp cuối niên khóa.

Đặc biệt đối với cậu Paul, vào ngày 29 tháng 6, có một buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc: lễ phong chức cho sáu mươi linh mục, phó tế và phụ phó tế. Nghi lễ kéo dài bốn tiếng rưỡi, và tối đó, có một nghi lễ khác không kém phần ấn tượng: các cha mới này – gồm hai mươi hai người – được sai đi truyền giáo, chính cha bề trên cho họ biết nơi họ sẽ đến. Cậu Paul hiểu rằng mình hiện đang đi trên con đường dẫn đến mục tiêu ấy và cậu ngất ngây khi thấy được niềm vui trong sáng hiện rõ trên khuôn mặt các nhà thừa sai trẻ lúc nhận mệnh lệnh truyền giáo.

Bây giờ là kỳ nghỉ hè, và chủng viện vắng vẻ; nhưng đối với riêng cậu Paul, nhà la tinh học trẻ tuổi, kỳ nghỉ này sẽ rất ngắn vì cậu phải học bù để theo cho kịp các bạn cùng lớp, nên sau vài ngày về với gia đình, và có được niềm vui dự lễ rửa tội của đứa cháu đầu tiên, Jean, con trai đầu của Pierre, cũng như được tắm biển thoải mái và tha hồ hút ống điếu, cậu trở về Rue du Bac, rồi đi Bièvres, ở Seine-et-Oise (bây giờ thuộc Essonne); ở đó, các thừa sai sở hữu một khu nhà đất rộng lớn dành cho mùa nghỉ hè, ở đó cậu có thể làm việc giữa một bầu không khí tĩnh lặng và trong lành hơn. Cậu cũng có thể một mình đi dạo trong nhiều giờ. Cậu viết cho cha mẹ:

Cha mẹ vẫn biết là con rất thích sự tĩnh lặng; và con thực sự được như ý ở đây. “Bel Air” – “Không Khí Trong Lành”, đó là tên khu nhà đất này – nằm trên một vùng đất cao nhìn xuống thung lũng sông Bièvre và tất cả các cánh rừng trên những ngọn đồi xung quanh; khung cảnh thật tuyệt vời và tầm nhìn trải dài mãi đến tận chân trời, giống như ngoài bờ biển. Lúc màn đêm buông xuống, trong khi mọi thứ mờ dần và tan biến vào trong cùng một màu, con thích thú gợi lại quá khứ và trở về thời gian con canh thức ở những nơi hẻo lánh bên Maroc. Nhưng sự tĩnh lặng ở nơi cách Paris 20 hay 3000 cây số không hề giống nhau: ở bên đó đẹp hơn và hấp dẫn hơn nhiều. Nhưng ngược lại, sự tĩnh lặng ở vùng Bièvres này thì tốt hơn là ở Paris, nơi chẳng hề có sự yên tĩnh.

Và cậu viết tiếp: Ở Bièvres, có khoảng 7 đến 800 dân cư. Đây là một vùng đất nhỏ bé, rất yên tĩnh và, mặc dù gần Paris, nhưng chưa bị nhiễm quá nặng cơn dịch mà người ta vẫn gọi là “dịch phân lô (nhà đất)” .

Khi biết rằng mẹ đang sống một mình trong ngôi nhà mới ở Criquetot, cậu viết thư riêng cho mẹ và tâm sự về cha, vì việc cha chẳng quan tâm gì đến vấn đề tôn giáo làm cậu đau khổ rất nhiều.

Mẹ nói với con là cha thích thú với việc sửa nhà sửa cửa; vậy cũng tốt và con mong thấy cha bận rộn như thế, hơn là cứ lầm lì. Có phải là cha không bị ảnh hưởng nhiều, ít nhất là bề ngoài, bởi việc con ra đi. Tội nghiệp cha! Khi nào cha mới hiểu con? Nhưng, mẹ biết đó, con không nghi ngờ chút nào rằng cha sẽ “trở lại”. Và, con chắc chắn, một ngày nào đó cha sẽ là một Ki–tô hữu: không thể nào khác được. Sở dĩ con dám quả quyết như thế, đó là vì chính Đức Ki–tô mời gọi con: chẳng phải Chúa đã nói: “Hãy xin thì sẽ được; hãy gõ thì sẽ mở cho” sao? Vậy là con xin, và con gõ ! Và con cũng hành động nữa! Từ lâu, Chúa Nhân Lành đã đóng trên con dấu ấn dành cho những người Chúa chọn. Và con nhớ lại một ngày, khi con có ý thức đặc biệt hơn về sự thật này, con đã vui mừng được làm người Ki–tô hữu, và đồng thời, cũng đã ray rứt vì biết bao nhiêu người không hề biết đến nguồn vui đích thực ấy. Đã nhiều lần con cảm nghiệm tâm tình này và con không tìm thấy giải pháp nào khác hơn là tận hiến đời mình để chuộc lại đời của kẻ khác. Đức Ki–tô đã chết và mở cửa Thiên Đàng cho chúng ta, nhưng về phần mình, chúng ta cũng phải làm việc để xứng đáng với điều đó, và xa hơn, để giúp cho kẻ khác cũng xứng đáng với điều đó nữa. Và – đây là nghịch lý không thể hiểu được đối với bất kỳ ai khác ngoài các Ki–tô hữu – nếu như con làm cho cha mẹ mình đau khổ, đó là bởi vì con thực sự yêu mến các ngài, và hằng ước ao các ngài được chia sẻ với con niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Chàng chủng sinh trẻ tiếp tục giãi bày tâm sự như thế đó, cho thấy niềm vui sống, niềm vui làm việc, hăng hái hiến thân. Lại nhớ về thời gian ở Maroc, cậu nói mình giống như chú ngựa đang nóng lòng lao đi, nhưng lại phải vừa cắn dây thắng vừa lấy chân cào đất; cậu cầu xin Chúa giữ gìn và tăng thêm nơi mình lòng nhiệt thành và say mê phụng sự Chúa.

Đối với công việc trí thức, cậu thấy rằng đó đúng là công việc của một chú ốc sên đang leo tường, tuy chậm chạp nhưng cần mẫn. Cậu thú nhận mình chỉ có khả năng trung bình về học vấn, nhưng không hề gặp phải những trở ngại không thể vượt qua; cậu có tiến bộ và đó mới là điểm chính yếu. Bởi thế, cậu sẽ ở lại Bièvres cho đến giữa tháng chín.

Nhưng sau đó, lại có thay đổi: thay vì cho cậu đi học tiếp ở Rue du Bac, thì bề trên, Cha Fouque, xác nhận với cậu – điều mà cậu đã nghe râm ran – là sẽ gửi cậu đến một chủng viện dành cho những người tu muộn, ở đó cậu sẽ có nhiều cơ hội hơn để bắt kịp trình độ học vấn cần thiết cho chức linh mục. Chủng viện này mang tên Fontgombault.

 Fontgombault

Vào ngày 14 tháng 9 năm 1928, cậu Paul báo cho cha mẹ về chuyến đi sắp tới và cho họ những thông tin đầu tiên có được liên quan đến chỗ ở mới của mình.

Chủng viện tọa lạc tại Bas-Berry cạnh sông Creuse; nghe nói phong cảnh xung quanh rất ngoạn mục. Đây là một đan viện xưa thuộc dòng Biển Đức, được thành lập năm 1096 bởi một người mang tên Pierre de l’Étoile. Đan viện bị xóa sổ vào năm 1741, sau đó được các thầy khổ tu nhánh Trappe sử dụng từ năm 1849 đến 1905. Nguyện đường là một nhà thờ dòng nguy nga có từ thế kỷ XII, một di tích lịch sử; cung thánh có đường nét rất tinh xảo, còn gian dành riêng cho tu sĩ thì thật hùng vĩ và hài hòa. Một khi được tận mắt chiêm ngắm tất cả những điều kỳ diệu này, con sẽ mô tả cho cha mẹ với nhiều chi tiết hơn và có thêm bưu thiếp kèm theo. Các phòng học và nhà ăn là những căn phòng cũ với mái vòm theo phong cách roman hay gothic. Sông Creuse lượn quanh những khu vườn của khuôn viên, và từ tất cả những cảnh đẹp này, con nhớ lại một điều: ta có thể tắm vào mùa hè. Chỉ cần bấy nhiêu thôi, con đã thích chỗ này rồi.

Cậu Paul, sau khi tìm hiểu với các bạn học trẻ của mình vốn đã từng đi đến Fontgombault, nói về tất cả những điều này với sự nhiệt tình quen thuộc, cậu rất vui khi biết rằng kỷ luật tỏ ra thoáng hơn nhiều, và kêu gọi sự ý thức của mỗi người là chính; cậu cũng rất vui khi được học chung với những sinh viên học chậm như mình; và cuối cùng rất vui khi có thể báo với cha mẹ rằng mình sẽ được nghỉ thêm dịp Lễ Giáng sinh và Phục sinh, ngoài hai tháng hè.

Phải xa các bạn học của mình, những người mà cậu đã từ lâu gắn bó, đúng là một thử thách, nhưng đã có sự xuất hiện của khoảng 40 ơn gọi mới thay thế rộng rãi cho rồi. Cậu khẳng định:

Vẫn chưa thiếu những tâm hồn quảng đại ở Pháp, dù có một số người tiêu cực nghĩ thế (Chúa biết rằng cậu không hề tiêu cực!) Giữa những “chàng trai trẻ này”, có mấy tay già  gần 30 tuổi đã học tiếng Latin bốn năm. Làm sao mà con không kiên nhẫn với những tấm gương như thế được!

Ngày 4 tháng 10, cậu Paul lên xe lửa tại Paris lúc 8 giờ sáng, để đến Fontgombault vào lúc 14 giờ 40 cùng ngày – vì đường sắt cũng đi đến vùng mà cậu gọi là “khỉ ho cò gáy” này.

Con dùng mấy chữ đó, và chúng rất chính xác: mấy thầy dòng lúc nào cũng xây dựng đan viện ở những nơi hẻo lánh, và vào thời buổi chưa có đường xe lửa, rất khó đến được đây.

Tuy nhiên, nhà ga Fontgombault lại nhỏ đến mức mà người nhân viên chịu trách nhiệm tiếp nhận hành lý không thể tìm thấy nó trên bản đồ của mình…

Ngay lập tức, nhà thừa sai tương lai của chúng ta tìm ra chỗ ngồi ổn định mà không gặp vấn đề gì – như mọi nơi cậu đi và sẽ đi. Cậu có tính dễ thích nghi nên ở bất cứ đâu, cậu cũng thấy thoải mái và làm quen nhanh với mọi thứ – điều sẽ rất hữu ích cho cậu sau này.

Con được ở trong phòng của một thầy dòng trước đây: thật là dễ thương; phòng nhỏ, kích thước mỗi bề hai mét rưỡi, có được một cái giường, một cái bàn và một cái ghế … Thế thôi! Trên tường, vài tấm ván treo lên làm kệ. Và rồi, một cửa sổ nhìn ra vùng quê trải dài thật xa; đó là một vùng trồng nho; con cũng thấy bầu trời thật đẹp vẫn còn màu xanh tuy đã vào mùa thu, và gần đó, phía bên trái, kiến ​​trúc tuyệt vời của ngôi nhà thờ cổ thuộc đan viện. Nó sừng sững ở đó, gợi lại quá khứ vinh quang mà con muốn kể ra. Tất cả các phòng ốc, nhà ăn và lớp học đều là những căn phòng cổ xây theo phong cách gothic của đan viện: người ta cảm nhận bên trong đó có một điều gì mà con không thể xác định rõ: dường như các bức tường cũ xưa này đang khiển trách thái độ của những người mới tới, bởi vì có một khoảng cách khá xa giữa cuộc sống của tụi con với cuộc sống của các thầy dòng. Dù sao thì con cũng thấy ở đây rất thích. Trên các bức tường của đan viện, vẫn đọc thấy những dòng chữ kiểu như thế này: “Niềm khoái lạc được chết không đau đớn rất đáng để ta sống chẳng cần có lạc thú”.

Sau đó cậu Paul tiếp tục nói về kỷ luật trong nhà, khá thoáng và mỗi người tự kiểm soát tuỳ theo lương tâm của mình. Cậu khẳng định:

Đó là người giám thị tốt nhất mà con biết. Không ai có thể lừa nó được. Và đây là nét cho thấy rõ tinh thần cởi mở của bề trên: chúng con có quyền … hút thuốc! Bữa sau, xin cha mẹ nhớ gửi cho con cái tẩu và túi thuốc… nhét cho thật đầy!

Bề trên ở Fontgombault, kể từ khi thành lập tiểu chủng viện Saint-Martin, sau đó được tăng cường thêm bởi chủng viện dành cho lớp tu muộn, năm 1919, là Đức Ông Stéphane Lagrange. Phụ tá cho ngài là một giáo sư nổi tiếng, viện phụ Pinson, người sau này sẽ được đặt làm giám mục giáo phận Saint-Flour.

Có khoảng bốn mươi lăm ơn gọi tu muộn trong năm đó, tuổi từ mười tám đến ba mươi lăm, thuộc mọi tầng lớp xã hội: nông dân hoặc công nhân, tư sản hoặc thương gia; ai ai cũng đầy tình huynh đệ thực sự, vì ai ai cũng đều mong được phục vụ Thiên Chúa. Cậu Paul vui mừng nhận xét rằng, trong số những ơn gọi này, có khoảng hai mươi cựu hướng đạo sinh, bao gồm cả các đoàn trưởng và đội trưởng. Cậu thốt lên:

Thật không thể tin được, phong trào hướng đạo đã phát triển và khơi dậy ơn thiên triệu! Lý tưởng hướng đạo nhấn mạnh lòng trung thành với Thiên Chúa, yêu thương và phục vụ tha nhân, chắc chắn lý tưởng đó rất đẹp và không có gì đáng ngạc nhiên việc một tâm hồn quảng đại muốn vươn lên cao hơn nữa, và do đó, mơ đến chức linh mục. Do đó, cha mẹ có thể thấy tinh thần của một cộng đoàn như vậy là như thế nào: huynh đệ, vị tha và nhất là vui vẻ.

Trong đan viện cũng có một khu khác, nhưng với chế độ riêng, gồm một số khá đông các tiểu chủng sinh; tuy nhiên tất cả đều gặp nhau trong thánh lễ Chúa nhật:

Chúng con vừa đi lễ về. Lễ cử hành trong vương cung thánh đường: chúng con đã được tham dự một nghi thức thật long trọng! Có những giọng hát trong trẻo tuyệt vời. Và một bầu không khí thật cảm kích. Đúng thế, các thầy dòng đang nếm trải những niềm vui khôn tả! Nếu như con không phải là thừa sai, chắc con sẽ thành thầy dòng. Vinh danh Chúa!

Cậu Paul bắt đầu chăm chỉ học lại, việc này chiếm phần lớn thời gian. Chương trình học kéo dài ba năm, chuẩn bị cho những ai đủ trình độ có thể lấy bằng tú tài; cậu học tiếng Pháp, tiếng La tinh, lịch sử và địa lý, khoa học và văn chương; cậu nhấn mạnh mình phải nhét lại vào đầu tất cả những thứ lúc nhỏ vì quá lười đã không chịu học! Hăng hái và háo hức để trở thành linh mục càng sớm càng tốt, cậu gồng mình và nhảy thẳng lên năm thứ hai. Nhưng “trong cuộc sống, đừng bao giờ lo ngại”, cậu tâm sự với chị mình như thế.

Cậu đánh giá ban giáo sư rất lôi cuốn và có khả năng; các đề tài được trình bày rõ ràng và do đó việc học của cậu  không mấy khó khăn, trong những điều kiện tốt hơn so với ở Paris hoặc ở Bièvres.

Giờ giải lao không thiếu: đá banh trong giờ chơi sau bữa trưa, các chú nhỏ thi đấu với mấy anh lớn, và không phải mấy anh lớn lúc nào cũng thắng! Ngày 8 tháng 12, trận đấu đang căng và một cú đá vụng về đã đưa quả banh xuống sông Creuse, ngay bên cạnh sân: người ta cố gắng vớt nó lại, nhưng nó trôi xa hơn; cậu Paul can trường nắm một cành cây đu ra: dĩ nhiên, cành cây gãy, và cậu rơi xuống dòng nước lạnh, thích thú được bơi! Chỉ cần hai sải tay, cậu tóm được quả banh mang vô, rồi lao về phòng thay đồ và ra sân đá tiếp. Cậu quả quyết mình thậm chí không có giờ để thấy lạnh!

Những cuộc đi dạo với các hướng đạo sinh mỗi chiều thứ năm và chủ nhật giúp cậu khám phá khu vực. Cậu tìm thấy, ở phía bên kia sông Creuse, những hang động tự nhiên nơi những người sáng lập đan viện đã sống, “rộng lớn, lạnh lẽo và ẩm thấp”, như cậu nói, khiến cậu mường tượng ra cuộc sống đầy hy sinh của những vị khổ tu này. Cậu suy nghĩ về những cáo buộc vô căn cứ đối với các đan sĩ. Cậu đánh giá như sau:

Họ là những người lao động, lao động cật lực. Với những phương tiện hạn chế mà họ có trong tay cách đây 9 thế kỷ, họ đã thành công trong việc xây lên một công trình tuyệt vời, chặn dòng sông Creuse để đưa nước đến một cối xay, và nhờ đó, có thể chu cấp cho mình mọi nhu cầu cần thiết.

Cậu cũng ngưỡng mộ một hang động khác, một hang động nhân tạo, ở đó các đan sĩ đã đục lấy tất cả những phiến đá mà họ cần: theo cậu tính toán, nó cao hơn hai mươi mét, và dài hai trăm mét. Tất cả những điều này chỉ làm tăng thêm lòng kính trọng đối với đời sống đan viện mà cậu sẽ ghi nhớ suốt đời . Cậu thổ lộ tâm can ngày 24 tháng 2:

Mẹ ơi, Mẹ thấy không, Chúa gửi cho chúng ta những thử thách để chúng ta suy nghĩ nhiều hơn và đến gần Chúa hơn. Con đang ngồi viết trong vườn, dựa lưng vào tường nhà thờ: mặt trời chiếu sáng, chim đang hót, âm thanh của đàn ống vang đến, dịu dàng, trong khi ở khu vườn bên cạnh một người nông dân đang quất con bò của mình. Đối với con, tất cả đều mang ý nghĩa về cuộc sống, về niềm hy vọng và về sự tĩnh tâm. Nhiệt độ dễ chịu và sau đợt rét đậm của tuần qua (20 cm đến 1 mét tuyết!), con dường như được tái sinh. Và con nghĩ rằng đó là hình ảnh thử thách chung của chúng ta (cha mất niềm tin và anh trai sức khỏe kém): niềm vui sẽ đến sau nỗi buồn. Mẹ là người hiểu con, Mẹ ơi, con hạnh phúc biết bao khi có thể nói với mẹ rằng con cảm thấy vững bước trên con đường của Chúa Nhân Lành! Đã một năm rồi kể từ khi con chuẩn bị rời Maroc! Đơn vị, Châu Phi, đã đưa đứa con tên Paul của Mẹ đến cánh cửa dẫn tới chức linh mục. Dù con không hề biết, Chúa đã chuẩn bị cho con: khi trở về Pháp con cứ nghĩ mình sẽ tiếp tục kiếp nông dân, nhưng những gì Chúa Nhân Lành đã đặt vào trái tim con, trong những buổi nguyện gẫm ban đêm nơi xa xôi hẻo lánh ấy, đột nhiên lộ diện và con không thể cưỡng lại. Một năm đã qua, và con cảm thấy mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, nhiệt huyết tràn đầy hơn, để yêu thương và phục vụ Chúa theo cách Chúa định.

Kết quả học tập của chàng sinh viên 23 tuổi của chúng ta thật là khả quan và chỉ trong vòng một năm, cậu đã học xong chương trình của ba năm. Cậu sẽ không phải quay lại Fontgombault vào tháng chín.

Nhưng con sẽ mang theo kỷ niệm thật đẹp về những chỗ này: đó vẫn là quãng thời gian thật thú vị … Và cậu nói tiếp: Thật ra, con nhớ con cũng đã nói như vậy về Maroc, và trước nữa về trang trại, và thậm chí xa hơn về trường học và các hướng đạo sinh… Và trong tương lai, thưa cha mẹ kính yêu, cũng vẫn như thế thôi: con sẽ luôn luôn hài lòng, luôn luôn hạnh phúc, vì con xác tín rằng con luôn luôn làm theo thánh ý Chúa. Con đã tìm được bí quyết mà mọi phàm nhân đều tìm kiếm: bí quyết của hạnh phúc.

Cuối cùng, một tin quan trọng: cậu Paul chính thức làm đơn xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris và, sau ý kiến ​​ưng thuận của Đức Ông Lagrange, bề trên nhà Fontgombault, thì Đức Cha De Guébriant, bề trên tổng quyền của Hội, đã viết cho cậu lá thư đồng ý. Niềm vui và cảm xúc tràn ngập lòng cậu, khi cậu nhận được câu trả lời này. Cậu nhận ra đó chính là kết quả của năm học rất thành công này, năm mà cậu đã cật lực làm việc và chuẩn bị, lại còn được bao phủ, chiếm lĩnh bởi ân sủng của Thiên Chúa. Giờ đây, cậu sắp đi qua ngưỡng cửa đại chủng viện, nhận được chiếc áo chùng thâm, bước một bước quyết định đưa mình đến gần hơn mục tiêu hằng theo đuổi. Từ các môn học cổ điển, cậu sắp chuyển sang học các môn để trở thành linh mục: hai năm triết, sau đó ít nhất ba năm thần học.

Điều này khiến cậu thật phấn khởi; cậu báo cho cha mẹ và chị là chẳng bao lâu nữa mình sẽ về nghỉ hè ở Criquetot. Lúc nào cũng háu ăn, cậu viết riêng cho chị:

Chị nhớ chuẩn bị xoong nồi, khuôn và mấy cái đĩa làm bánh, hâm nóng lò nướng và làm cho em một trong những chiếc bánh độn nhân tuyệt ngon mà chỉ mình chị có bí quyết. Em đang liếm môi thèm thuồng và mài răng cho sắc đây. Em nói giỡn chút vậy, và phải ngưng ngay vì đang nghĩ từ nay đến thứ ba, em có một món, thực ra rất khó nuốt, nhưng vẫn phải gặm cho xong. Đó là một đĩa gồm cả trăm trang lịch sử, cộng thêm bảy mươi lăm trang giáo lý trong khóa học vừa rồi, tất cả được rưới lên bằng một loại rượu vang tuyệt vời gồm ba trăm câu thơ tiếng Pháp hoặc tiếng La tinh. Sau đó, để cho dễ tiêu, em sẽ nhâm nhi bảy đến tám trăm dòng của Ciceron và Virgile, được bồi thêm bởi tất cả những sự điên rồ và vô nghĩa của Voltaire cùng phe nhóm. Sau đó, là một đợt tĩnh tâm ba ngày để dọn sạch bàn ăn và làm cho đầu óc mình thư thái, em hy vọng thế. Thôi, em phải lao đầu vào việc ngay bây giờ và ngưng nói chuyện tào lao ở đây.

Vào ngày 17 tháng 7 năm 1929, cậu Paul rời khỏi chủng viện dành cho lớp tu muộn ở Fontgombault; cậu dự định sẽ có lúc về thăm lại nơi này, vì khung cảnh ở đó đã mang đến cho tâm hồn cậu biết bao là lợi ích.

Bièvres-Meudon: những năm học và bệnh tật (1929-1937)

Sau kỳ nghỉ với gia đình vào mùa hè năm 1929, cậu Paul bắt đầu các môn học chuẩn bị cho chức linh mục, mà cậu hy vọng sẽ nhận được sau năm năm. Đức Cha Guébriant đã dành cho cậu sự đón tiếp đầy tình cha con, và cậu thực sự ngưỡng mộ vị bề trên tổng quyền này, người đã phải từ bỏ những sứ vụ truyền giáo vì được bầu làm người lãnh đạo M.E.P. Cậu bị choáng ngợp bởi những lễ nghi long trọng mà Đức Cha đã cử hành trong nhà nguyện rộng lớn ở Rue du Bac, ví dụ như lễ phong chức. Cậu nhận từ tay Ngài chiếc áo chùng thâm và cảm thấy ngày càng thoải mái trong cộng đoàn.

Tuy nhiên, cậu sẽ không ở Paris, nhưng là ở Bièvres và Meudon, nơi bầu khí trong lành hơn, cùng chung với các chủng sinh đã đông đảo gia nhập Hội Thừa Sai: hàng năm có ba mươi đến bốn mươi người; trong độ tuổi từ hai mươi đến không quá ba mươi lăm; xuất thân từ các môi trường rất khác nhau: chẳng hạn, vào năm 1930, có một người là kỹ sư bách khoa, một người là cháu của Thống chế Foch, nhưng cũng có một số người thuộc những gia đình rất bình dân. Sự hòa nhập xem ra không khó khăn gì và mọi người đều sống đầy tình bác ái.

Công việc rất căng thẳng và vị thừa sai tương lai của chúng ta phải chu toàn, chẳng phải tám giờ một ngày, nhưng là mười sáu. Đa số là công việc trí tuệ; nhưng cũng có công việc chân tay, bởi vì Thầy Paul phụ trách phòng thánh – thầy rất thích công việc này vì được ở rất gần Chúa Nhân Lành hiện diện trong nhà tạm; ngoài ra còn phải hoàn thiện đời sống tâm linh nữa, và chính nơi đây, ta thấy rằng lòng nhiệt thành mà thầy bày tỏ, khi thầy đề cập chuyện đó với cha mẹ, là hoàn toàn phát xuất từ ý chí: thầy không ngại khó khăn để tiến tới, xứng danh người con trai của người cha gốc vùng Alsace .

Con vốn không thích học: nhưng con đã miệt mài chúi đầu vào đó. Tiếng La tinh rất khô khan, nhưng con cũng đã học được. Môn triết tuy đối với con chẳng thú vị gì, nhưng con cũng đã học được nốt; năm nay, sau khi vượt qua những khúc mắc ban đầu, con đã phấn khởi bắt đầu lại việc học; bây giờ con thích học; con thích những khó khăn mà con cố gắng giải quyết. Đó là một sự tiến bộ.

Tuy nhiên, thầy cũng thú nhận, nếu khi học thầy rất hăng say, thì lúc được nghỉ, thầy cũng rất vui! … Nhiệm vụ coi sóc phòng thánh giúp thầy khám phá ra những nét đẹp của phụng vụ và cảm nhận sâu xa hơn ý nghĩa của các nghi lễ; thầy rất thích sự phong phú của việc phụng tự, đặc biệt là trong Tuần Thánh; thầy giải thích cặn kẽ những biểu tượng của việc phụng tự ấy cho cha mẹ, vì nghĩ rằng cha sẽ không tỏ ra vô cảm với chúng, cho dù ông sống xa Giáo Hội. Có lẽ thầy đã cảm nhận thấy ân sủng đang tác động nơi ông, người cha mà thầy rất hiếu kính.

Các chủng sinh thỉnh thoảng được đón các giám mục và các vị thừa sai trở về từ Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam hoặc những nơi khác, ghé thăm, các ngài kể về những chuyến phiêu lưu, lúc nào cũng ly kỳ hồi hộp, những cuộc bách hại mà các ngài phải trải qua, đôi khi suýt chút nữa là được tử vì đạo. Điều này thổi bùng lên ngọn lửa hăng say nơi lớp người trẻ, những người đang khao khát đến lượt mình được ra đi, và khiến họ càng yêu mến hơn cuộc sống được tạo nên từ lòng quảng đại, tính anh hùng, vì tình yêu dành cho Chúa và tha nhân.

Thầy Paul lấy làm vui mừng vì được Chúa ban cho sức khỏe tuyệt vời, giúp thầy làm việc tốt hơn để phục vụ Chúa và, trong nhiều lá thư, thầy nhắc lại điều ấy cho cha mẹ:

Con ngạc nhiên thấy mình chịu được cuộc sống này ngày càng tốt hơn: việc học chẳng những không còn là gánh nặng mà con còn tìm thấy ở đó một nguồn vui. Và rồi, nguyên do có được tình trạng này, là vì con có sức khỏe tốt. Không bao giờ bị bệnh, đặc biệt là không bao giờ nhức đầu, con ăn ngon, ngủ được. Như vậy, con có thể tiến bước!

 Vào ngày 31 tháng 12 năm 1930, khi gửi lời chúc đến cha mẹ, thầy nói thêm: Chắc chắn con không phải là một người khổng lồ, nhưng con cứng cáp: con cảm thấy các cơ bắp bọc quanh cơ thể như một giáp sắt. Con chăm sóc tấm giáp sắt này, và con muốn nó mạnh mẽ để vinh danh Chúa. Con không làm gì bất cẩn; con không có quyền đó: vì như thế là lãng phí quà tặng của Chúa. Nhưng mặt khác, con tìm kiếm không khí trong lành; con tập thể dục mỗi ngày một chút, chỉ để giãn gân giãn cốt và chân tay. Thêm vào đó là ăn lúc nào cũng ngon miệng, một giấc ngủ hồn nhiên và con cân nặng trong khoảng từ 76 đến 78 kg. Cha mẹ thấy không, về khía cạnh này, cha mẹ có thể an tâm.

Thầy còn viết: “Cái miệng con lúc nào cũng cười và đùa giỡn được”. Kinh nghiệm hướng đạo giúp thầy cứng rắn đến mức ngủ mà luôn mở cửa sổ, ngay cả lúc trời lạnh cóng, thậm chí thầy còn xỏ ngay đôi giày trượt khi cái hồ nhỏ trong công viên bắt đầu đóng băng, và thầy là người hăng hái nhất trong các trận chiến với bóng tuyết – tuyết rơi rất dày vào mùa đông 1930-1931. Điều thầy tự hào nhất chính là cuộc thử nghiệm trên băng vào giữa tháng ba. Hãy nghe thầy kể cho cha mẹ:

Là một trong những người nhiệt tình nhất của môn trượt băng, ngay khi mùa lạnh bước sang ngày thứ hai, con được cử lên gặp bề trên để xin phép cho đi lại trên cái hồ trong công viên. Con được nghe trả lời: “Trước tiên phải bảo đảm xem lớp băng có chắc không”. Quá vui, con chạy ngay ra xem theo như bề trên cẩn thận đòi hỏi. Con dẫm một bước: Crac! Một vết nứt. “Không có gì nguy hiểm, con nghĩ, đó là băng nằm lớp trên.” Thật ra, lúc nào băng cũng phải vỡ một chút khi ở trên mặt nước và sau đó không còn nguy hiểm nữa. Bước thứ hai: vết nứt loang to ra. Hai bước xa hơn nữa, con thử làm một động tác như khiêu vũ: mọi thứ đều ổn. Bảo đảm về độ chắc, con tiến ra, không sợ hãi gì. Cách bờ 5 mét: Crac! Bụp! Brrr! … Nước cao đến cánh tay! Tắm gì mà lạ! Một cảm giác khó tả! Con tì hai tay vào lớp băng để leo lên: nó vỡ … Con làm lại: nó vỡ tiếp… Và cứ thế cho đến bờ hồ… May là chỗ nào cũng có thể đặt chân! Nhưng lạnh quá! Loáng hai bước, con đã có mặt trong phòng mình (chắc là ai cũng có thể theo dấu chân con!). Xoa người cho thật nóng, thay quần áo khô, áo chùng sạch; mười phút sau ,con lên gặp bề trên, Ngài rất lấy làm ngạc nhiên, con trình với Ngài bằng chứng rõ ràng chúng con không thể trượt băng trên hồ được. Sau cuộc phiêu lưu bé nhỏ đó, không hề bị cảm lạnh, cũng chẳng bệnh tật gì.

Để cho cha mẹ an tâm hơn, vài hôm sau, thầy lại viết thư kể cho họ rằng cùng với những ngày đẹp trời, có nắng ấm, có tiếng chim hót, có rừng cây xanh tươi, thầy cảm thấy mình cần phải sống năng động hơn, và tiêu tốn sức lực nhiều hơn. Tuy nhiên, thầy vẫn tự kiềm chế, vì biết rằng Chúa Nhân Lành muốn sử dụng sức lực của thầy về sau. Nhưng thầy cho hay, lúc nào mình cũng hài lòng, từ sáng đến tối và từ tối đến sáng.

Đối với con, mọi sự đều có thể khiến con vui, bởi vì tất cả những gì con làm được đều không phải là do ý con, mà là do ý Chúa.

Thầy còn quả quyết: Đời sống con biến thành một hành động mãnh liệt trong sự bình an tuyệt hảo. Rồi thầy viết thêm: Con tin rằng sở dĩ mình đạt được tất cả những điều này chính là nhờ lời cầu nguyện và hy sinh của cha mẹ. Chúa Nhân Lành trả công cho cha mẹ bằng cách đổ tràn ân sủng xuống cho con… và nói cho cùng, chính con là người nợ Chúa và cha mẹ nhiều nhất!

Dường như Chúa đã chờ cho Thầy Paul Seitz vươn tới đỉnh cao này, cả về thể chất lẫn tinh thần, để gửi cho thầy thử thách đầu tiên, có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai đời sống thừa sai của thầy sau này. Vào tháng 5 năm 1931, đang khỏe mạnh ở tuổi hai mươi bốn, trong thời kỳ sung mãn của đời sống tu trì, đang khoan khoái tận hưởng thành quả mấy năm học triết, đến mức bề trên đặt vấn đề cho thầy đi thi lấy bằng tú tài, thì kìa, sàn nhà sập ngay dưới chân, và thầy càng cảm thấy đau hơn khi rớt xuống từ trên cao! Không mấy ai dám thốt ra cái chữ đang hầu như đánh quị thầy, và gây ra biết bao tai họa vào thời điểm đó: bệnh lao!

Bệnh lao

Lâu nay, thầy cảm thấy mệt, một sự mệt mỏi không thể giải thích được, khiến thầy khó lòng mà ra khỏi giường vào buổi sáng, để làm việc, để chu toàn công việc trong phòng thánh và công việc dệt thảm – bởi thầy mới được giao thêm công việc thủ công này. Đi khám bác sĩ, chụp hình phổi, cuối tháng 5/1931, chẩn đoán cho hay: “Xơ cứng mặt ngoài mô phổi”.

Có người sẽ nghĩ, chắc là thầy đáng bị như thế thật, vì bữa tắm bất đắc dĩ trong sông Creuse lúc còn ở Fontgombault, hôm mồng 8 tháng 12; rồi lần ngập lội trong băng ở hồ Bièvres vào tháng 3 năm ngoái; lại còn chơi thể thao, đi bộ, học hành quá sức để theo cho kịp trình độ các bạn. Hay có thể do di truyền, vì anh Pierre của thầy cũng chưa hoàn toàn hồi phục sau một thời gian dài mệt mỏi, khởi đầu cách đây 3 năm; anh vẫn phải nằm dài trên ghế ở Criquetot, chưa làm việc lại được.

Dĩ nhiên, cú sốc rất mạnh, nhưng thầy Paul lại không hề để lộ bất cứ điều gì ra bên ngoài, nhất là thầy rất thận trọng khi báo tin cho cha mẹ. Thầy trấn an: “Không nặng lắm đâu, thực sự không nặng lắm đâu.” Thầy thậm chí còn nói đùa: “Con trả giá cho ba năm mệt mỏi. Nhưng cái giá nào đây! Một cái giá quá đẹp! Ba tháng nghỉ ngơi ở nhà. Cha mẹ cũng phải công nhận điều đó thật tuyệt vời chứ!” Bác sĩ đã ghi cho thầy một toa thuốc dành cho người hồi sức với liệu pháp “Ngủ ngon, ăn ngon và đi dạo.” Như vậy, đối với thầy, đó “chỉ là một vố mà chỉ mình Chúa Nhân Lành biết chơi.” Và đây là lời nhắn nhủ của thầy dành cho cha mẹ: “Xin hãy cứ vui như con đang vui, bởi vì con thực sự đang rất vui về những biết chuyển này.”

Thầy không ngờ – và cũng chẳng ai ngờ – ba tháng được nghỉ này sẽ kéo dài… hơn hai năm!

Đương nhiên, cha mẹ thầy chỉ tin một nửa những lời con họ trấn an, và họ thậm chí hiểu rằng thầy “rất xuống sức và cần nghỉ ngơi nhiều”, giống như người anh cả. Thầy lại cố giải thích dài dòng cho họ yên tâm, cam đoan rằng mình chỉ có “hơi làm việc quá sức”, “hơi mệt mỏi chút xíu”, tuy nhiên mình vẫn sẽ thi cuối năm sớm hơn so với những người khác, sau đó sẽ về gặp họ ở Criquetot. Và như vậy họ sẽ thấy tận mắt là thầy vẫn rất hạnh phúc, rất vui vẻ, ngoài ra còn biết banh môi lên đến tận tai và thầy sẽ chỉ cho họ bài tập rất tốt cho sức khỏe và không hề khó khăn này. Thầy còn đùa: “Hình như nó giúp cho ăn uống dễ tiêu”.

Vậy là ngày 5 tháng 6, thầy lên đường đi Normandie, vui mừng thấy lại Bel Air, căn nhà nghỉ của cha mẹ, được sửa soạn chu đáo, với một khu vườn nơi thầy sẽ có thể làm việc và tận hưởng sự thinh lặng, cùng với không khí biển ở gần, và những bữa ăn ngon gia đình.

Durtol (tháng 9 đến tháng 12 năm 1931)

Nhưng thử thách chỉ mới bắt đầu, các cuộc khám nghiệm sức khoẻ rất đáng lo ngại: cần phải hít thở không khí miền núi và cấp tốc: thầy Paul phải đi nghĩ dưỡng một thời gian dài trong một dưỡng đường. Đức Cha Guébriant, rất quan tâm đến sức khỏe của các chủng sinh, đã lo tìm cho thầy nơi ở và ngôi nhà thích hợp.

Các lâu đài ư?… Con đã nhìn thấy chúng từ xa.
Cuộc sống trong lâu đài ư?… Con chỉ mới nghe nói.

Tất cả những thứ đó bây giờ là một thực tế! Con cứ cười một mình khi đi lại khệnh khạng trong phòng với bộ đồ ngủ, và khi từ cửa sổ nhìn ra, con thấy cả một công viên đang nở rộ. Ái chà! Ông cụ non, cậu bé chủng sinh hội thừa sai nay đang được chăm sóc kỹ, xin cha mẹ đừng lo. Đức Cha mà đã làm điều gì, là không làm nửa vời. Con không nghĩ rằng Ngài có thể làm tốt hơn thế với một vị giám mục. Nhưng thôi, đừng nói trước…

Đó là nội dung bức thư đầu tiên của người sẽ là giám mục Kontum hai mươi năm sau (nhưng thôi, đừng nói trước...) gửi cho cha mẹ mình, vào ngày 26 tháng 9 năm 1931, từ nơi ở mới: lâu đài Durtol.

Durtol, nằm trên vùng đồi thoai thoải dẫn lên ngọn núi  Puy-de-Dôme, thuộc địa hạt cùng tên, là một khu nhà ở cao cấp vùng ngoại ô xanh tươi nhìn xuống thành phố Clermont, vốn nổi tiếng từ thời gô-loa (tổ tiên người Pháp) và có một tòa giám mục lâu đời, hiện là thủ phủ của công ty vỏ xe Michelin.

Lâu đài đã được biến thành dưỡng đường và nhà nghỉ cho bệnh nhân phổi để họ có thể hít thở không khí trong lành ở độ cao hơn 500 mét so với mực nước biển. Từ sân thượng hoặc từ cửa sổ, họ tận hưởng bức tranh toàn cảnh 180° của cả thành phố và nhà thờ chính tòa với hai ngọn tháp bằng đá đen Volvic, trên đồng bằng Limagne và Monts-du-Forez; nếu như họ leo lên cao chút nữa, họ có thể nhìn thấy dãy núi Alpes, khi thời tiết thật tốt.

Ba bác sĩ được chỉ định thường xuyên túc trực tại nhà và một đội ngũ đông đảo nhân viên chăm sóc cẩn thận người bệnh; chàng chủng sinh của chúng ta hơi bỡ ngỡ bởi sự xa hoa và cuộc sống ở lâu đài này. Thầy thừa nhận:

Nó chắc chắn không phù hợp với con. Một mẩu bánh mì cho bữa trưa và một miếng vải để che thân: con không cần gì hơn. Nhưng Chúa Nhân Lành lại muốn khác, nên con chẳng việc gì phải phàn nàn, tốt hơn là cứ chấp nhận một cách vui vẻ, và con đang làm như thế đó. Tất cả những bệnh nhân nội trú ở đây đều trong độ tuổi thanh niên, nam có nữ có, nhưng không có người già. Bệnh lao là đặc quyền của những người trẻ tuổi. Phần đông trong số họ là sinh viên, do đó, đây là một môi trường thú vị xét về mặt trí thức. Về phương diện đạo đức cũng vậy: nhiều người là Ki–tô hữu tốt.

Trong môi trường sang trọng ấy, thầy thích thú với suy nghĩ rằng chỉ mới cách đây không lâu, mình “ít nhiều còn là một gã nông dân”! Được mọi người đón tiếp niềm nở, vì có dáng dấp thầy tu và không hề khắt khe khi nói chuyện, thầy mang đến niềm an ủi và hy vọng cho một thế giới đau khổ mà thầy đang khám phá. Riêng thầy, thầy không muốn gọi thời gian này là một “thử thách”, bởi thầy vẫn xem đây như một ân sủng, và thầy vui mừng tạ ơn Chúa. Thầy cũng muốn trấn an cha mẹ về tình trạng sức khỏe của mình, mà thầy nói là “rất khả quan” (hum! …).

Chỉ có một chút căng thẳng thôi, và điều này là do bởi tính khí. Con sẽ không phải ở đây quá hai tháng đâu, cứ cho tối đa là ba tháng, vậy thôi, bác sĩ nói thế.

Về chuyện thuốc men, thầy có … thuốc nhuận trường. Một cách điều trị bệnh lao phổi thật lạ lùng! Thầy ăn như hạm, ngủ một giấc thẳng cẳng đến sáng, dự lễ trong nhà nguyện lâu đài, được cử hành bởi một linh mục dòng Tên gần đất xa trời; thời gian còn lại, thầy nằm nghỉ, đọc sách, chơi cờ hoặc chơi bài Trafalgar; thầy cũng chậm chậm đi dạo mỗi ngày trong công viên và đã có lần, sau khoảng một tháng ở đó, liều ra đi dạo bên ngoài chưa đến một tiếng đồng hồ – điều này chứng tỏ thầy vẫn chưa được khỏe lắm, dù thầy có nói gì đi nữa. Thầy kể với cha mẹ lần thầy đi hớt tóc, những người quá rành nghề này, như sau:

Con phải đi hớt tóc. Chuyện tự nó chẳng có gì đáng nói… nhưng không hẳn thế! Đầu tiên, ông thợ hớt tóc từ Clermont đến lâu đài, ông lấy đến 7 quan cho một lần hớt: đắt quá sức! Bởi thế, con đâu có hớt tóc với ổng. Con tìm đến tiệm chuyên bán mái tóc giả ở Durtol. Trước thềm cửa tiệm, một người đàn ông chỉ mặc áo sơ mi, áo xắn tay, mà hai tay thì dơ, áo quần cũng dơ, mặt mày bẩn thỉu… Ông thợ bán tóc giả đó. Chỉ đến khi con hỏi ông ta là ông thợ hớt tóc ở đâu thì con mới biết chính là ổng. Con bước vào “tiệm”: dưới sàn nhà, một tấm thảm dày toàn… tóc là tóc. Trên tường, rất nhiều bưu thiếp, hình chụp, hình vẽ đủ loại; đám ruồi đã thay nhau bu lên đó, làm cho xỉn màu theo thời gian: một lực sĩ đang khoe cơ bắp cạnh ông thị trưởng Durtol; đối diện, hình bà vợ ổng. Vì thế, những khách hàng chờ đợi khỏi cần đọc báo! Con có lợi thế là được lên ghế ngồi ngay lập tức. Trước mặt con, một cái bàn khập khiểng, màu sắc không thể xác định: nửa vàng nửa nâu. Một cái thau nứt; một tấm kính mờ. Phía bên phải và bên trái, một đống chai lọ, bàn chải, hộp, v.v. ; phủ lên trên, là cái thứ vừa nhờn nhờn, vừa bụi bụi mà ta hay gọi là dơ bẩn. Trong nháy mắt, ông thợ lấy một miếng vải màu xám quấn quanh mình; rồi ổng khoác một miếng khác, đã cũ, lên vai con. Ổng ấn mạnh những ngón tay to đùng vào cổ con. Brrrr! Và việc hớt tóc bắt đầu. Cái tông đơ thì kéo, cái kéo thì giựt, cái hơi đầy mùi rượu của ổng làm con ngạt thở. Nửa tiếng sau, con đứng dậy, mái tóc đã bị tổn thương nặng. “4 quan rưỡi, thưa ông”!!!

Một chút hồi tưởng, con đã thấy lại tiệm hớt tóc nhỏ ở Criquetot…. Ôi! xứ sở của những hạt dẻ no tròn, những trái đào bóng mượt, những ngọn núi vàng óng! Ai chưa từng đi hớt tóc thì làm sao mà biết! đồ dơ bẩn kinh niên, đồ dơ bẩn vùng Auvergne! … Nét đặc trưng của xứ sở chính là đây!…

Khỏi cần nói, lần hớt tóc tiếp theo, thầy Paul xuống Clermont; thầy cũng nhân tiện đi viếng nhà thờ chính tòa và thăm một bạn đồng môn cũ ở Fontgombault, lúc đó đang học trong đại chủng viện của thành phố. Đối với thầy, chuyến đi bộ năm cây số này thật là hữu ích và chứng tỏ thầy đang lấy lại sức.

Nhưng theo các bác sĩ, sự hồi phục này dường như chưa đủ, và sau hai tháng ở Durtol, họ xét rằng không có chuyện quay trở lại vùng Paris, và lại càng không thể tiếp tục công việc tại chủng viện: độ cao là cần thiết để điều trị phổi. Chắc là phải gửi thầy đến một nhà nghỉ dành cho giáo sĩ ở Thorenc, vùng Alpes Maritimes, trên độ cao 1,200 mét. Chi phí ở đó sẽ rẻ hơn so với ở Durtol, nơi mỗi tháng phải trả 2,500 quan. Nhưng các cha bề trên của thầy ở Hội Thừa Sai tìm ra được giải pháp hay hơn: một cha trong nhà Bièvres có người anh làm cha sở một giáo xứ nhỏ thuộc vùng Haute -Savoie, cách Annecy 18 km về phía nam và ở độ cao gần 1.000 mét. Phù hợp quá còn gì!

Thỏa thuận đã nhanh chóng đạt được với ông cha sở miền núi tốt bụng này, ngài đang phải chăm sóc phần hồn cho hai trăm năm mươi bổn đạo, nay vui mừng được tiếp đón một chủng sinh trẻ tới phụ giúp mình trong công việc giáo xứ.

Vẫn còn phải khám bệnh lần cuối trước khi đi: bác sĩ khẳng định không còn dấu vết nào của bệnh xơ màng phổi. Thế là thoát nạn. Thầy Paul cao hứng nghĩ rằng một tháng nữa mình sẽ có thể quay lại chủng viện.

“Ồ! Không đâu. Vị bác sĩ bình thản trả lời. Không đâu! Một năm nữa thì may ra; không sớm hơn được!

 Và thầy Paul viết tiếp: Con đã rất ngạc nhiên, đến mức, với cùng một giọng bình thản, con hỏi lại bác sĩ có phải ông ấy đang nói đùa. Sau khi ông xác nhận là không hề có chuyện đùa, con đã xin ông nhắc lại điều vừa nói. Ông vui vẻ làm theo, và còn kèm thêm… một nụ cười cùng với vài lời giải thích: “Các quy định của chủng viện mấy anh có từ thế kỷ mười lăm và do đó không còn phù hợp với thế kỷ hai mươi; người ta làm cho anh mệt mỏi quá! Nay có một ông cha sở mời anh về giúp ngài trong công việc giáo xứ, thì anh cứ đến và ở lại đó; tôi cho phép anh làm việc sáu tiếng một ngày: như vậy anh vẫn có thể tiếp tục việc học và tránh được mọi nguy cơ khiến cho mình mệt mỏi.” Thật ra, vị bác sĩ này đã được đức giám mục Clermont ủy thác cho việc điều hành dịch vụ y tế của chủng viện giáo phận: vì thế, ông rành điều ông nói.

Vậy là, con cứ để cho mình được Chúa dẫn dắt. Cuộc đời thừa sai của con, cuộc đời làm công cụ của Chúa Nhân Lành bắt đầu. Chuyện con sống ở chỗ nào, đâu có gì quan trọng,  điều chính yếu là phải sống thật tốt ở nơi mình sống. Kết luận sao đây? Lúc nào cũng hài lòng, tràn đầy niềm vui và tiến lên hướng về vận mệnh mới!

Nói vậy chứ thầy phải rời Durtol với bao tiếc nuối, để lại đó một mảnh con tim tan vỡ. Thầy đã làm bạn với những người bệnh mà thầy gắn bó. Một trong số họ suýt chết trên tay thầy sau khi nôn ra hai lít máu. Thầy an ủi một số người khác khi họ khóc. Trước khi lên đường, thầy muốn đi dạo một vòng chào tạm biệt vùng Auvergne. Thầy kể với giọng điệu trữ tình quen thuộc:

Gió thổi như vũ bão, xua đi những đám mây lớn trên nền trời xanh; những cơn mưa ào ào đổ xuống thung lũng. Con leo lên những ngọn đồi lân cận và sau đó, men theo đỉnh đồi, con băng qua rừng thông, đi bộ hơn hai giờ. Một mình giữa núi rừng, con hát vang theo gió; con dầm mình trong cơn bão, tóc tung bay, mũi nở to. Không còn là niềm vui nữa, mà là sự hứng khởi, vì cảnh tượng hùng vĩ trước mắt đang hòa điệu cùng cảm xúc trong con. Từ độ cao đang đứng, con nhìn thấy cơn mưa màu xám, mịn màng rơi xuống Clermont chẳng khác nào một tấm khăn liệm; xung quanh, cơn bão khiến rặng thông oằn cong, làm rung chuyển núi đồi, hú lên từng đợt. Thật là một lời nguyện tuyệt vời, lời nguyện của thiên nhiên trong cơn chấn động. Bất chợt, môi miệng con mở ra thốt lên lời thánh vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hỡi kỳ công của Chúa, hãy tung hô và tôn vinh Người đến muôn thuở muôn đời!”

Con đã hiểu và ngưỡng mộ những người như Beethoven, Mozart, Lamartine, Rude, Michel-Ange, họ biết biểu lộ cảm xúc của mình, kẻ thì trong thơ ca, người thì trong điêu khắc, hội họa. Con đã hiểu đâu là nguồn gốc những kiệt tác của họ. Phúc cho những ai biết cảm nhận, nhưng cũng phúc cho những ai biết biểu lộ!

Cuối cùng con phải rời những ngọn đồi, xuống lại thung lũng xám xịt và ẩm ướt, nhưng con đã mang theo một thứ sẽ mãi mãi gắn bó với con: một cái gì không thể diễn tả nên lời được, thật đẹp, thật uy nghi, thật mạnh mẽ. Như một phần của Thiên Đàng, con nghĩ thế!

Không nuối tiếc vùng đất này ư? Nói thế thì hóa ra là vô ơn! Con mang theo một kỷ niệm không thể xóa nhòa về thời gian lưu ngụ ở đây.

Ngày 10 tháng 12 năm 1931, Thầy Paul Seitz rời dãy núi Auvergne để sang dãy núi Alpes và đến ở với Cha Bibollet, chánh xứ Leschaux, tại Haute-Savoie.

Leschaux, Haute-Savoie (tháng 12 năm 1931 đến tháng 6 năm 1933)

Với trái tim nặng trỉu, thầy Paul rời lâu đài Durtol, sau khi ở đó chưa đầy hai tháng. Đi từ Puy-de-Dôme đến Haute-Savoie, theo đường chim bay dường như rất gần, nhưng lại là một chuyến thám hiểm thực sự! Khởi hành lúc 5 giờ sáng, với hai chiếc vali đầy và một cái ba lô to đè nặng trên vai – đúng là mọi thứ cần thiết cho một bệnh nhân lao phổi đang tìm sự nghỉ ngơi… – thầy chuyển từ xe lửa này sang xe lửa khác, đến tận đêm mới tới được Leschaux, một ngôi làng nhỏ trên dãy núi Alpes, và sẽ ở lại đó lâu hơn mình tưởng.

Cha sở đón tiếp thầy thật niềm nở, hai người tâm đầu ý hợp với nhau ngay, và sẽ còn gắn bó lâu dài nữa. Sau bữa ăn tối thật ngon và ngủ một đêm lấy lại sức, thầy Paul phát hiện ra một xứ sở mà thầy chưa bao giờ thấy, khiến thầy rất thích thú. Ngôi làng nhỏ được bao quanh bởi những ngọn núi cao hơn 2.000 mét và phủ đầy tuyết. Thầy thốt lên đầy thán phục: “Đẹp thật, mênh mông thật, như trong truyện thần tiên!”. Thầy còn hình dung kế hoạch leo núi, để có thể chiêm ngưỡng ngọn núi Mont Blanc, hồ Genève và những quang cảnh bao la. Thầy cũng hết sức ngạc nhiên với những ngôi nhà gỗ trong làng:

Ở vùng Auvergne, làng mạc càng nhỏ hẹp, bẩn thỉu và lộn xộn bao nhiêu, với nhà cửa chật chội, chen chúc nhau, thì ở vùng Savoie này, làng mạc lại rộng lớn, thoáng đãng và sạch sẽ bấy nhiêu. Leschaux gồm khoảng ba mươi căn nhà. Tất cả đều ở riêng rẽ, xung quanh có vườn rộng. Nhà không có tầng lầu, nhưng được nâng cao lên ba mét và có cầu thang bên ngoài dẫn lên. Họ làm như vậy để cho cửa ra vào không bị tuyết rơi dày chắn lối. Lạ chưa! Ba mét lận...Vùng đất quyến rũ quá đi!

Sau đó, thầy mô tả tỉ mỉ các ngôi nhà, một bằng chứng lịch sử quý giá về thời đó:

Các bức tường rất dày, từ sàn cho đến trần nhà, vách ngăn, mọi thứ đều bằng gỗ. Những vách ngăn này cũng rất dày và có hai lớp. Xung quanh nhà, mái kéo xuống thật thấp.

Trong nhà xứ, có những tiện nghi khó tìm được ở vùng núi vào thời đó: điện, vòi nước nóng lạnh, một cái lò sưởi kêu rầm rì, một chiếc giường ngủ êm.

Con có đầy đủ mọi thứ để sống thoải mái ở đây! Xin cha mẹ đừng lo lắng cho con: con không thiếu thứ gì cả. Về chuyện ăn uống, cũng thế, xin cứ yên tâm: các cha ở vùng Savoie này, vì là dân miền núi và con cái dân miền núi, nên các ngài biết ăn ngon là như thế nào: tin con đi, cha xứ con ăn khỏe lắm và nếu con muốn bắt chước ngài, dạ dày con sẽ phình ra nhanh thôi! Và thức ăn thì khỏi chê! Sữa có kem, phô mai dê, bơ không thua gì bơ Normandie, mật ong cây thông, v.v.và v.v…

Thầy Paul vẫn luôn quả quyết rằng, sở dĩ mình được gửi lên miền núi, nói cho đúng ra là không phải là để chữa bệnh, mà là để đề phòng bệnh không tái phát. Thầy dự định sẽ trở lại Criquetot vào kỳ nghỉ hè tới.

Trong lúc chờ đợi, thầy làm gì? Bề trên đã cấm thầy không được học thần học lúc này, để khỏi gây căng thẳng và mệt mỏi; vì vậy, thầy đọc sách, viết lách (ba mươi lá thư vào dịp năm mới), học đàn harmonium, đi dạo, và … ăn.

Để chống lại cái lạnh, bộ đồ tốt nhất của con vẫn là lớp mỡ dày quanh mình: 87 kg cả quần áo. Và cha xứ muốn con tăng lên 90 kg! Quần lót của con bung ra, áo sơ mi rạn chỉ, áo chùng phồng to lên và con phải nới dây lưng của mình. Con xin thưa: ghê quá!

Sau khi nhận thẻ cử tri, tháng 4 năm 1932, thầy sẽ phải đi bầu Quốc hội mới. Thầy viết: Vậy là, ngày Chúa Nhật tới, số phận của nước Pháp được trao lại vào tay người dân. Kết quả sẽ ra sao đây? Quyền phổ thông đầu phiếu, như đang được hình thành và áp dụng bây giờ, là điều vô nghĩa; phiếu bầu của những kẻ thiếu hiểu biết thường dành cho những tên nào nói láo và biết dụ dỗ hay nhất, và đảng xã hội được coi là bậc thầy trong lĩnh vực này. Con đã đọc những lời tuyên tín của Đảng: thật đáng sợ! Chỉ thấy toàn là những lời dối trá và, tệ hại hơn, những sai lầm về xã hội. Mong rằng những người thất nghiệp đang cay cú vì nghèo đói sẽ không để mình bị dụ dỗ!

Con tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội, và hơn thế, chủ nghĩa cộng sản, là con đẻ của hội tam điểm; cả hai đảng này đều là một cái nức, một phương tiện chắc chắn sẽ dẫn chúng ta đến hỗn loạn khắp nơi: hủy diệt mọi chính quyền, mọi tôn giáo. Toàn bộ mục đích và chương trình của hội tam điểm, chỉ có thế. Thật đáng sợ khi xem xét tất cả những gì mà đám này đã tàn phá, và thật đáng rùng mình cho tương lai, nếu như Đức Ki–tô đã không nói về Giáo Hội: “Các cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi.” Được lời này củng cố, người công giáo phải luôn sống trong bình an dù bị đe dọa và phải làm việc nhiều hơn bao giờ hết: trước tiên để chính mình trở nên những Ki–tô hữu tốt hơn, và sau đó để giáo dục mọi người về bổn phận của họ. Đó là nhiệm vụ của các linh mục cũng như của mọi tín hữu đã được Đức Thánh Cha kêu gọi để làm việc tông đồ xã hội đích thực.

Đây đúng là một người có triển vọng làm nhà thừa sai nhìn xa trông rộng: thầy dường như linh cảm được những gì kẻ thù của Giáo Hội sẽ bắt mình gánh chịu một khi sang vùng Viễn Đông. Thầy lại càng bực hơn khi biết tin kết quả bầu cử, sẽ đưa Mặt Trận Bình Dân lên nắm quyền, cùng với bao thảm họa kèm theo. Thầy viết ngày 10 tháng 5: Qua làn sóng truyền thanh, ngay chiều cùng ngày, con được biết kết quả trên toàn nước Pháp. Đảng xã hội giành được 70 ghế: đây là điều đã được dự đoán trước, do khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp. Tương lai sẽ như thế nào và đường lối chính trị của đảng này sẽ dẫn chúng ta về đâu? Có trời biết! Xin Chúa bảo vệ nước Pháp và Giáo Hội Người! Đây là lần đầu tiên con theo dõi sát một cuộc bầu cử. Tim con nhói đau vì điều mình chứng kiến. Trong một ngôi làng cỏn con như Leschaux đây, nơi mọi người đều biết nhau, và chẳng thể che giấu được việc gì dù nhỏ nhặt nhất, vậy mà cũng có chuyện mua phiếu đáng hổ thẹn. Bọn hùa theo đảng xã hội giỏi nghề này quá mà: chúng nói láo, dụ dỗ, đe dọa hoặc tâng bốc tùy theo tầm quan trọng hay chỗ đứng của ứng cử viên. Chúng gạ gẫm phiếu bầu chỗ này chỗ kia, và cuối cùng, đạt được một đa số còn lâu mới phản ánh đúng nguyện vọng và xác tín của dân chúng! Vâng, thật thế, con dám khẳng định điều này: phổ thông đầu phiếu là một việc quái quỷ!

Có một tin vui, mà thầy hân hoan báo cho cha mẹ vào ngày 24 tháng 5: lần khám bệnh ở Annecy, bác sĩ khẳng định thầy đã khỏi bệnh, thầy được phép rời miền núi và tiếp tục việc học vào tháng 9; thầy rời Leschaux ngày 27 tháng 6, nửa con tim bên trái nặng trĩu, bởi thầy gắn bó với nơi này, nhưng nửa con tim bên phải nhẹ nhàng, bởi thầy sắp gặp lại các bạn chủng sinh ở Hội Thừa Sai, rồi cha mẹ và bà con ở Criquetot, sống với họ những tuần hè êm ả, trong khi chờ đợi tiếp tục chương trình thần học ở Bièvres vào tháng 9.

Tiếc thay, thời gian nghỉ ngơi này chẳng kéo dài được lâu. Chắc hẳn, khí hậu ẩm ướt vùng Normandie không phải là không liên can: có những dấu hiệu cho thấy phổi chưa lành, thầy bị sụt cân trở lại; ngay hôm tựu trường ngày 15 tháng 9 năm 1932, thầy phải chụp lại hình phổi; chẩn đoán thật rõ ràng: “Tình trạng khả quan hơn, nhưng không được phép tiếp tục học. Đề nghị nghỉ thêm sáu tháng.”

Suy sụp ư? Không hề! Cam chịu ư? Cũng không nốt! Nhưng là hăng say, như mọi khi, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Và lại nhanh chóng lên đường, trong niềm vâng phục đối với bề trên, và với Chúa mà các ngài là đại diện. Như thường lệ, thầy trấn an cha mẹ:

Bởi vì những dự báo nghèo nàn của con người chúng ta bị chệch hướng, bởi vì Chúa Nhân Lành biết rõ phải dẫn dắt mọi sự thế nào, và Người thấy rằng nên ngăn con lại lần nữa, nên chúng ta tuyệt đối không được lo lắng hay nuối tiếc bất cứ sự gì. Tất cả những gì Chúa gửi đến đều tốt. Phần con, xin thú thực với cha mẹ rằng con chẳng hề buồn khổ vì chuyện như thế này: con muốn mỉm cười đón nhận điều xảy đến cho con, và sở dĩ con nói với cha mẹ chuyện ấy, thưa cha mẹ kính yêu, đó là vì con muốn xin cha mẹ cũng làm như con vậy.

Xin cha mẹ đừng bao giờ lo lắng về chuyện đang xảy đến hoặc sẽ xảy đến cho con trong những năm tháng tới; nhất là xin đừng bao giờ tin rằng con có thể chán nản hay đơn giản là bực bội. “Nghề” của con (trong ngoặc kép), cha mẹ biết rõ mà, đó là thi hành thánh ý Chúa. Con chẳng có tham vọng nào khác. Như thế, một khi thánh ý ấy tỏ hiện, nếu như con không thấy nó phù hợp với con, thì thật là bất hạnh cho con. Điều làm Chúa vui thích, cũng khiến con vui thích, ngay cả khi thế gian gọi nó là đau khổ. “Đâu có tình yêu thương, đó chẳng còn khổ đau; hoặc nếu có khổ đau, thì cả khổ đau  ấy cũng đang được yêu thương”: Thánh Augustinô đã nói thế, và con xin lấy lời ấy làm của riêng mình. Vâng, chắc chắn là con đang hài lòng bởi con luôn xác tín rằng những gì xảy đến cho con đều là do Chúa muốn.

Ít nhất, trước lúc đi, thầy Paul có thể vui mừng khi thấy ngày tựu trường thật tốt đẹp: chủng viện gồm 60 người, và nhiều bạn cũ của thầy ở Fontgombault năm nay cũng đến. Thầy được tham dự nghi thức tiễn các linh mục vừa chịu chức trong năm lên đường truyền giáo và ngày 10 tháng 10, thầy quay lại Leschaux, thầy viết cho chị Annette như sau:

Vậy là em tiếp tục kiếp ở đợ. Em cố không nuối tiếc bất cứ điều gì về chuyện cứ bị trễ hoài như thế này: Chúa Nhân Lành muốn làm gì em thì làm, tùy ý Người muốn; em là tôi tớ của Người, và nếu như Người không cần đến em, Người hoàn toàn có lý khi tách em qua một bên. Hơn nữa, chị biết rõ là em không hề có tính than thân trách phận.

Tuy nhiên, thầy vẫn ra công học hành chăm chỉ hơn năm trước, học tiếng Anh, thứ tiếng mà sau này thầy sẽ cần đến, và cả các môn thần học, hầu bắt kịp các bạn cùng lớp trong chủng viện.

Lễ Noel mang đến cho thầy một tin thật vui: cha thầy tự tay viết thư cho thầy báo tin ông đang trên đường trở về với đức tin! Thầy trả lời: Cha viết mấy chữ thôi, nhưng chúng đi thẳng vào trái tim con, đứa con trai của Cha và cũng là chàng chủng sinh thừa sai; con vẫn luôn tự hào về Cha, và con sẽ luôn tự hào như thế. Ước ao và biết cách tìm lại con đường đức tin, đó là điều rất ít người có can đảm làm được, vậy mà chính trên con đường ấy, con được thấy Cha mình đang đi. Khó thật! Đúng thế, và đó là tiếng kêu của tất cả những ai đang bước từ bóng tối ra ánh sáng. Điều này cũng khó như là từ bỏ thế gian để bước theo Chúa; nhưng nó thật đẹp, thật tốt lành, và Đức Ki–tô đã nói với chúng ta: cảnh tượng này khiến các thiên thần trên trời vui mừng! Về phần con, con thật hạnh phúc, và con luôn cầu xin Chúa với niềm tín thác dịu dàng.

Còn sức khỏe và chế độ ăn uống của thầy ra sao? Không còn là thuốc nhuận trường như thời ở Durtol nữa: mỗi sáng, thầy uống dầu cá, vì người ta bảo đảm với thầy, đó là thứ thuốc bổ không gì tốt bằng…

Thời gian ở lại Hautes-Alpes sắp kết thúc. “Ông thầy xứ” của chúng ta tận dụng những tuần đầu tháng 6 để chuẩn bị cho các em rước lễ trọng thể, giúp cha xứ giảng tĩnh tâm ngắn gọn cho chúng, việc này rất thích hợp với thầy.

Sau cùng, những ngày cuối tháng, thầy nhận được “giấy phép” của bề trên, và mãi mãi rời khỏi bầu khí trong lành của dãy núi Alpes cũng như bạn bè ở Leschaux, để tiếp tục sống đời tập sự thừa sai.

Bièvres (1933 – 1937)

Sau hai năm thử thách và phải sống xa nhà như thế, người ta có thể hy vọng là sẽ không còn chuyện gì làm ngăn trở bốn năm thần học mà thầy Paul phải theo đuổi, giống như bất kỳ linh mục tương lai nào. Các cuộc kiểm tra sức khoẻ liên tiếp mà thầy phải tiến hành – cho dù chúng thường có kết quả trái ngược nhau, bởi các phương tiện chụp X quang thời đó còn không mấy chính xác – cũng khiến mọi người tạm an tâm, và tính tình lạc quan cố hữu của người bệnh làm nghiêng cán cân về bên phía mà thầy muốn leo lên. Thầy được khuyên không nên gắng sức quá, phải nghỉ ngơi khi cần, và giữ cho cân nặng ổn định ở mức 77 kg.

Thầy đã trở về lại căn phòng sinh viên khiêm tốn của mình ở Bièvres, cũng như rất vui được gặp lại bạn học ngày xưa, và làm quen với các sinh viên khóa mới, tuổi tác ít hơn mình nhiều, bởi thầy đã bị trễ mất nhiều năm. Thầy hăng say lao vào môn thần học luân lý và thần học tín lý. Các môn này dĩ nhiên bằng tiếng La tinh, thứ tiếng mà thầy không còn thấy khó khăn nữa. Thầy cũng theo học các khóa về lịch sử Giáo Hội và Kinh Thánh, thích thú đọc cuốn Bàn về Lòng Sùng Kính Đức Trinh Nữ, của chân phước Louis-Maria Grignion de Montfort (lúc ấy chưa được phong thánh).

Ngoài ra, thầy còn là thành viên của U.C.M. tức Liên minh công giáo những người bệnh, có mục đích gặp gỡ, qua một tập san, những bệnh nhân cô thế, và giúp cho nỗi cô đơn của họ bớt nặng nề. Tập san được chuyền tay và mỗi người ghi vào đó một thông điệp, cho biết tin tức về mình, khích lệ những ai đang đau khổ bằng một vài lời lẽ thiêng liêng, hay một câu chuyện vui.

Cuối cùng, thầy được bề trên giao phó cho việc soạn thảo bản tin hằng tháng của chủng viện dành cho những ứng sinh đang đi quân dịch, để họ có thể tiếp tục liên lạc với các bạn đồng môn. Chắc hẳn thầy được bề trên chọn là nhờ có văn phong hoạt bát và đầy chất thơ – hơn là giỏi về chính tả (tuy thầy đã có tiến bộ nhiều…). 

Nhờ kinh nghiệm, thầy đi đến chỗ xác tín rằng hạnh phúc ở tại tâm; thầy có thể hạnh phúc trong khổ đau cũng như trong lúc thoải mái: bởi vì Chúa đang chiếm lĩnh trong cuộc sống của thầy cái chỗ mà Người muốn và Người phải chiếm lĩnh. Niềm vui của thầy chẳng có chi điệu đà, giả tạo hay gượng ép; nó vỡ òa và lấp lánh mọi lúc, đến nỗi ở chủng viện thầy “nổi tiếng là anh chàng vui tính và thậm chí nghịch ngợm”. Tham vọng của thầy vẫn luôn như thế: “trở thành người vô địch ” trong sự nghiệp mình đã chọn, không phải vì danh vọng hão huyền, nhưng vì mong được thực sự trở nên một Đức Ki-tô khác, và nhờ đó, cứu rỗi thêm các linh hồn. Thầy cũng thừa nhận, công việc trước tiên mình phải hoàn thành thuộc về lãnh vực thiêng liêng: thầy đã xin cha mẹ giúp đỡ mình thật nhiều bằng cách cầu nguyện cho mình trở nên một linh mục thánh thiện.

Xin đừng quên con mỗi chiều tối, và bởi vì Chúa Nhân Lành đã lo trả lại cho con sức khỏe rồi, nên từ nay, xin cầu cùng Chúa ban cho con điều duy nhất ấy. Ngày nào bản thân con cũng đều xin Đức Ki–tô ban ơn đó cho con, và con còn xin Người ngày càng làm Chủ trái tim chúng ta. Suy cho cùng, chúng ta có mặt trên trái đất này cũng chỉ vì điều ấy: yêu mến và phụng sự Chúa; tất cả những thứ khác đều không quan trọng, và chỉ có nhiệm vụ giúp đưa dẫn chúng ta đến với Chúa.

Vào tháng 11, thầy Paul vui mừng được gọi lên lĩnh phép cắt tóc: đây là bước thứ hai hướng tới chức linh mục, sau việc nhận áo chùng thâm xảy ra đã lâu, chiếc áo mà thầy không rời xa nữa, ngay cả trong những năm phải sống trên miền núi. Phép cắt tóc này không phải là một “chức”, và nó chưa buộc phải cam kết gì; tuy nhiên, đó là một nghi thức giúp thầy được chính thức trở nên “giáo sĩ của Hội Thánh”. Với những thử thách và việc phải rời xa môi trường đào tạo, có thể thầy đã bị cám dỗ nên từ bỏ, hoặc nghi ngờ ơn gọi: nhưng không, ngược lại là khác. Đối với thầy, việc lĩnh phép cắt tóc là một cánh cửa mở ra chân trời tươi đẹp nhất, tương lai của thầy đang bừng sáng.

Ngày 23 tháng 12 năm 1933, sau một tuần tĩnh tâm, nghi thức được cử hành, và thầy Paul viết thư kể hết diễn tiến cho cha mẹ. Buổi lễ kéo dài 4 tiếng, bởi Đức Cha Guébriant, sau khi làm phép cắt tóc, còn cho các thầy khác được chịu bốn chức nhỏ là đọc sách, giữ cửa, trừ quỷ và giúp lễ, rồi ba chức lớn là phụ phó tế, phó tế và linh mục.

Mỗi nghi thức, mỗi lời nguyện đều mang ý nghĩa thiêng liêng, và thầy Paul, mới chịu phép cắt tóc xong, vẫn còn rất xúc động vì những gì vừa xảy đến cho mình: đức giám mục đã cắt bốn lọn tóc theo hình thánh giá, việc từ bỏ mái tóc như thế nhắc lại việc từ bỏ thế gian, để mang vương miện bằng gai đội lên đầu Đấng Cứu Thế. Rồi đến việc mặc áo khoác, biểu tượng của sự trong sạch và tinh khiết. Sau 5 năm chờ đợi, thầy đã sốt sắng xướng lên câu 5 của thánh vịnh 15, đi kèm với việc cắt tóc: “Chúa là gia nghiệp của con, phần phúc con, chính Ngài nắm giữ”.

Vâng, kể từ năm 1928, do được ân sủng thôi thúc, con đã bất ngờ quyết định, trái tim con đã không hề thay đổi, và việc con dâng hiến bản thân, việc mà trước đây con vẫn âm thầm làm, thì nay con sung sướng tiến hành cách trọng thể. Giờ đây, cửa cung thánh đang mở ra cho con, và con sẽ nhanh chóng bước qua những bậc dẫn con tới thiên chức linh mục. Tháng 7 này, con sẽ chịu hai chức nhỏ đầu tiên, rồi trong vòng ba năm sau đó, những chặng cuối cùng. Còn biết bao công việc phải hoàn thành!… Công việc sẽ chẳng bao giờ kết thúc cả, công việc thật bao la, bởi vì một linh mục chẳng bao giờ được nói: “Tôi đã làm xong!” Khi theo Đức Ki-tô, phải không ngừng tiến bước. Có lý do để sợ chứ, nếu như người linh mục chỉ đi tới bằng sức lực của riêng mình; nhưng ngài không đơn độc: ân sủng vẫn dõi theo ngài, dẫn bước ngài, bao bọc ngài, thúc giục ngài từ mọi phía và nâng ngài lên, dù ngài rất yếu đuối, đến tận cùng đích mà Thầy Chí Thánh đã định.

 Ngày 1 tháng 7 năm 1934, thầy Paul được chịu các chức nhỏ đầu tiên, giữ cửa và đọc sách, sau đó thầy đi nghỉ hè ở Criquetot.

Dường như chỉ từ lúc này, lúc bước vào một giai đoạn mới trên con đường tiến tới chức linh mục, thầy bắt đầu có những thử thách nội tâm, những cám dỗ đưa đến chán nản, thậm chí tuyệt vọng; thầy ghi chúng lại trong nhật ký, và không ai, trừ Cha linh hướng, mảy may nghi ngờ điều đó, bởi thầy vẫn luôn tôn trọng kỷ luật chủng viện, trung thành với các giờ kinh nguyện cũng như các việc thiêng liêng, nhiệt tình theo đuổi việc học, luôn giữ nụ cười trong mọi tình huống. Cha mẹ thầy lại càng không thể hình dung cơn khủng hoảng mà thầy đang trải qua, bởi trong hầu hết các thư gửi cho họ, thầy tiếp tục trấn an về tình trạng sức khỏe của mình: nó vẫn tốt hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên … ta có thể tự hỏi, có phải chính sự say mê công việc, chính thái độ anh hùng, tức là cái động lực luôn thúc đẩy thầy phải rán theo cho kịp trình độ các bạn, mặc dù thầy có những khiếm khuyết về mặt thể lý và thậm chí tri thức, có phải chính cái động lực ấy là lý do đưa tới tình trạng suy sụp mà thầy mô tả trong nhật ký không?

Khi thân xác yếu đi, thì quỷ dữ – vẫn là tên hèn nhát đó! – đã nhân cơ hội này để tấn công không chỉ thân xác, mà cả tâm trí và linh hồn, để làm cho bầy ruồi đen bay lởn vởn trước mắt, hay thậm chí cả những con chim đen, như ta thấy trong cuộc đời của Thánh Biển Đức. Ngày 27 tháng 12 năm 1934, Thầy ghi lại như sau: Đã bảy năm kể từ khi mình đặt bước chân đầu tiên. Thật ra, mình đã luôn bước đi trong niềm vui sướng nhiệt thành. Bây giờ, chắc hẳn Chúa muốn thế, mình đau khổ nhiều hơn. Những lần từ giã gia đình trở nên khó khăn hơn. Những lần “bắt đầu lại công việc” ở chủng viện trở nên gay go hơn. Mình ít quảng đại hơn chăng? Có phải Chúa muốn dùng thử thách này để thanh tẩy mình, để tách mình ra? … Tất cả những gì mình biết, đó là mình chẳng còn nhiệt tình như xưa, tuy nhiên, mình cảm thấy tiếng gọi và sự cần thiết hiến dâng cho “công việc của Cha” vẫn không kém phần thôi thúc. Mình cần phải quảng đại. Mình quảng đại chưa đủ. Mình thiếu một ý chí kiên cường. Mấy ngày ở nhà vừa qua là bằng chứng. Mình sẵn sàng bỏ bê các bổn phận đạo đức: ba bốn năm trước, mình đâu có làm vậy. Mình không nghĩ đó là do lười biếng cho bằng do thiếu xác tín. Đúng thế: mình thiếu xác tín.

Lạy Chúa, con ngày càng nhận thức rõ hơn về sự yếu đuối của mình, và con ngày càng cảm thấy mình cần phải có đức tin mạnh như thế nào để vẫn tiếp tục tin vào sự thánh thiện! Con cũng cần can đảm biết bao để tiến lên phía trước! Và nếu như đôi khi con buồn, … đó là vì con không còn tiếp tục tiến lên. Con đã ước ao sự hoàn thiện và đau khổ – và bây giờ là lúc cần phải chuyển qua hành động thì con lại sợ và không tiến lên nữa.

Vào ngày 28, thầy tâm sự tiếp: Mình vướng vào một vòng luẩn quẩn. Mình đã biến sự thánh thiện thành một phương trình.
   – Khi yêu, ta thể hiện tình yêu của mình bằng những hành vi, hành vi phù hợp với ý muốn của người mình yêu.
   – Mà mình lại không có những hành vi ấy.
   – Vậy thì mình không yêu.

Và từng ngày, từng giờ trong ngày, mình gặm nhấm sự cay đắng của phát hiện này. Mình buồn phiền. Mình chán nản.  Và thay vì tiến lên, mình lại đi lùi.

Phải làm gì đây? Nếu như mình dũng cảm, mình sẽ nói “tiến lên đi”, và sẽ làm những gì cần phải làm. Nhưng không, mình đã vượt qua giai đoạn ảo tưởng. Bởi thế, bị thất vọng, vỡ mộng, mình sống mà chẳng cố gắng, chỉ làm những gì tối thiểu: “làm cho khỏi mất mặt”, lừa dối được người khác, cho họ thấy đức hạnh ở nơi chẳng có, nhưng không thể lừa dối Thiên Chúa!

Mình chẳng nên quên đi sự khổn khổ của mình sao? Mình chẳng nên bỏ lại nỗi âu lo này sao? Mình chẳng nên tin vào tình yêu của Đức Ki–tô dành cho mình sao? Tình yêu này cuối cùng sẽ chẳng làm tan biến những kháng cự trong trái tim mình sao?

Những tiếng kêu tuyệt vọng của một trái tim đang chìm trong bóng tối sâu thẳm, trong “đêm đen” theo cách nói của Thánh Gioan Thánh Giá, vẫn cứ nối tiếp, làm cho tâm hồn tan nát, những tiếng kêu xé lòng, mệt mỏi, chân thành, mà dường như Chúa chẳng đoái hoài lắng nghe, không hơn gì con người.

Nhưng không phải thế: thầy Paul biết rõ, biết từ trong sâu thẳm tâm can, rằng Chúa vẫn ở đó, Đức Ki-tô không bỏ rơi mình, Ngài yêu mình lắm, và lò lửa tình yêu của Ngài đang cháy rực. Thầy ghi lại những lời Chúa nói: Hãy đến đây sưởi ấm. Hãy đến mà vui mừng chiêm ngưỡng tình yêu của Thầy. Có phải đã có lúc con thích ngắm nghía tình yêu của chính mình hơn? Tội nghiệp con! Không, chỉ có tình yêu của Thầy mới làm cho con vui thỏa. Bởi vì Thầy yêu con. Bởi vì này Paul con, Thầy muốn rằng con được vui thỏa. Và bởi vì dù con có tội lỗi, hèn nhát, tiều tuỵ thế nào, Thầy vẫn yêu con. Con phải hân hoan vì điều đó, chứ không phải vì con đang yêu, bởi vì sẽ không bao giờ con biết yêu, sẽ không bao giờ con thắp sáng ngọn lửa trong tim con. Không bao giờ. Con có nghe không? Con không thể làm điều đó được. Chính Thầy là Tình yêu. Chỉ mình Thầy thôi. Vì vậy, Thầy nói với con: “Manete in dilectione mea. – Venite adoremus. Venite adoremus. Venite adoremus Dominum.” (Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy- (xem Ga 15, 9)- “Hãy đến, chúng ta cùng thờ lạy Chúa.”

Vào ngày cuối năm 1934, thầy Paul thú nhận đó là một năm đầy thử thách và gian khổ; một năm mà thầy mong ước thật nhiều nhưng chẳng thực hiện được bao nhiêu; tuy nhiên đó lại là năm mà Chúa giúp thầy nhận thức rõ hơn về bản thân mình.

Từ kinh nghiệm này, con chợt hiểu rằng mình thật yếu đuối; sự hoàn thiện là cái gì khác hơn việc chu toàn một số hành vi nhất định; con đã đi sai đường. Tất cả những điều ấy, con biết, nhưng con đã không “thực hiện”. Đó là một mặc khải, một hồng ân. Xin cảm tạ, lạy Chúa Giêsu!

Năm 1935 khởi đầu theo một hướng khác. Thầy làm bản tổng kết, và từ đó thấy rất ước ao tận dụng những kinh nghiệm đau buồn mình đã trải qua. Trước tiên phải giữ bình tĩnh, về thể xác cũng như tâm hồn. Kiên trì trong đường hướng Chúa chỉ dẫn, chứ không ở bên lề. Nỗ lực làm việc, cầu nguyện, một cách khiêm nhường, nhẫn nại. Lớn lên trong tình yêu và lòng trung thành. Để được như thế, thầy đặt mình dưới sự che chở của Thiên thần bản mệnh, của Thánh quan thầy Phaolô, vị thừa sai nhiệt thành và khôn ngoan, của Thánh Jean Bosco, người tông đồ bác ái vĩ đại, của Thánh Giuse, người cha khiêm nhường, của Thánh Mẫu trên trời, đấng phân phát mọi ơn lành, của Hài Đồng Giêsu dịu dàng nơi máng cỏ. Thầy được trang bị như thế đó!

Để đạt hiệu quả hơn, theo gương Cha sở thành Ars (Thánh Gioan Vianney), thầy quyết định làm việc đền tội nhiều hơn: không phải là những việc đền tội quá mức, khiến cho kiệt lực, những việc thầy vốn bị cấm vì sức khỏe còn mong manh, mà đơn giản là những việc thường ngày của đời sống tại chủng viện: kỷ luật, tinh thần bác ái huynh đệ, thức dậy ngay mỗi sáng, sống khó nghèo trơ trụi như Chúa Giêsu trong máng cỏ, tránh những gì không cần thiết, bớt hút thuốc  … (Chẳng hiểu sao người ta không cấm thầy hút thuốc, xét tình trạng của những lá phổi?…)

Thầy tự vấn mình về ơn gọi: có phải chỗ của thầy đúng là ở trong chủng viện Hội Thừa Sai này, nơi mà thầy thấy mình thực hiện không mấy tốt? Hay là phải chăng thầy đang có ảo tưởng khi cho rằng mình được mời gọi sống một cuộc đời khắc khổ và âm thầm hơn, mà chắc sức khỏe của thầy không cho phép thầy thực hiện? Phải chăng thầy được mời gọi vươn đến sự hoàn thiện cao hơn nữa, trong khi thầy hãm mình ít quá?

Những ký ức về Maroc lại quay về, và thầy tự hỏi liệu mình có nên sống như Cha Charles de Foucauld hay không: nơi đó, sở thích sống đời hy sinh tận hiến sẽ được thỏa mãn. Hoặc, liệu dòng khổ tu nhánh Trappe có phù hợp với thầy hơn không? … Xin nhập dòng ở Chartres trước đây, nên chăng? …

Những lo lắng này vẫn dày vò thầy, và kết quả là thầy ăn ngủ không yên, sự mệt mỏi hiện lên khuôn mặt; thầy kiệt sức một lần nữa và đã sụt mất khoảng 12 ký: những người xung quanh lưu ý thầy chuyện đó. Và thầy kết luận:

“Vậy là con không tự vấn lương tâm nữa và lạy Chúa Giêsu, con phó thác mọi sự trong tay Chúa.”

Tuy nói thế, thầy vẫn không chịu bớt đi việc phân tích nội tâm, tự dằn vặt mình, cứ lầm lũi bước đi trong bóng tối, vật lộn, vấp ngã, rồi lại tiếp tục đi, rồi lại dừng. Thầy thừa nhận: “Đó là một cuộc chiến cam go, cuộc chiến đến chết.” Cái chết ư! Thầy thường nghĩ tới nó, và thanh thản nhìn nó đến, cảm nhận rằng Chúa Giêsu không để mình mồ côi, Ngài vẫn ở với mình và mình có đủ mọi thứ trong bí tích Thánh Thể.

Năm học kết thúc vào ngày 1 tháng 7, bằng một buổi Chầu Thánh Thể ở đồi Montmartre, và lòng thầy Paul trào dâng tâm tình cảm tạ. Thầy nhận ra rằng mình đã được Chúa ban cho đầy tràn ân sủng: sức khỏe ổn định, các kỳ thi có kết quả khả quan, được đồng bạn yêu thương, được bề trên tín nhiệm, được gọi để chịu các chức nhỏ cuối cùng, sẽ cử hành vào ngày 7 tháng 7; và cha mẹ mình nữa, các ngài vẫn luôn quan tâm, trìu mến, và cũng đầy tràn ân sủng. Thế là thầy kết luận: “Xin cảm tạ, lạy Chúa Giêsu – Con xin lỗi!”. Kỳ nghỉ ở gia đình giúp thầy thư giãn và tươi tỉnh hơn, nhưng thầy vẫn tâm sự:

Sức khỏe con xem ra mong manh. Lạy Chúa, con không có gì để từ chối Chúa, và nếu như Chúa muốn con hy sinh ơn gọi và cuộc sống của con, con sẽ dâng nó cho Chúa. Chỉ xin Chúa giúp cho con được dâng lên Chúa của lễ này với nhiều niềm vui và lòng sốt sắng. Nhưng quá khứ lại công bố rằng, cứ sự thường, con phải trở thành linh mục. Con muốn đơn sơ và tự tin bước đi trên con đường mà Chúa đã dẫn đưa con.

Cảm tạ Chúa, Chúa ơi, vì đã gọi con, dù con không xứng đáng; vì đã cho con được hưởng biết bao phúc lành từ những lời cầu nguyện và hy sinh của cha mẹ hoặc những linh hồn không quen biết. Xin Chúa ban cho hết các linh hồn ấy sự bình an vĩnh cửu của Chúa. Con biết rằng trong sổ tổ tiên con, và bây giờ trong gia đình con nữa, luôn có những linh hồn thánh thiện: chính nhờ họ con mới có được sự di truyền nhân đức và cầu nguyện này, mà con cảm thấy dâng lên từ tận thâm sâu con người mình – trong khi ngoài kia, mọi thứ đều có thể dẫn con đến điều xấu. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Con chưa bao giờ bị cám dỗ ngoái lại đàng sau. Chính là nhờ lòng nhân lành của Chúa mà con được thêm ân sủng này.

Thừa sai hay là chết. Fiat, Xin vâng ! Ý Chúa sẽ là ý con.

Thầy dứt khoát không bận tâm về sức khỏe của mình nữa, thầy xem nó như một thứ hành lý cồng kềnh, cho dù thầy ngầm cảm nhận rằng cơn đau đang gặm nhấm trở lại. Nên xử sự sao đây: Đừng để ý đến nó? … Hay là cứ bận tâm làm thế nào vượt lên khỏi những phiền toái mới?… Tính hay lo của thầy lại một lần nữa bị giằng xé. Thầy càng hoang mang hơn, khi không hề muốn để lộ sự yếu đuối của mình ra bên ngoài, đặc biệt đối với gia đình. Thầy tâm sự trong nhật ký: Tại sao cái chết lại hấp dẫn con như vậy? Lạy Chúa, tại sao tinh thần con có khuynh hướng đẩy con đến việc muốn chết? Con luôn sống với suy nghĩ này. Nó kích thích con, nó làm con hứng khởi. Con thèm khát Thiên đàng nơi con sẽ không ngừng yêu Chúa, nơi con sẽ được nhìn thấy Chúa diện đối diện. Con ao ước biết bao được yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn con… Còn ở đây, trên trái đất này, tình yêu con bị giới hạn! Và rồi, vì lòng mến Chúa, con sẵn sàng thực hiện tất cả mọi hy sinh cùng lúc…. Hy sinh ơn gọi, tình cảm gia đình, và cuộc sống.

Cái chết là một cuộc sống, một sự tái sinh, giống như việc một đứa em lao vào vòng tay người Anh Cả; cái chết là con đường dẫn tới chỗ của những linh hồn chiến thắng: ở đó, người ta yêu thương trong ánh sáng tràn đầy, cả Thiên Chúa lẫn loài người.

Nhưng lạy Chúa, trên trái đất này, con có thể làm cho thiên đàng tươi đẹp hơn; và con càng làm cho nó tươi đẹp, thì lại càng làm vui lòng Chúa; con có thể tích trữ rất nhiều kho báu công đức; con có thể chuộc hết lỗi lầm của con và như vậy, lạy Chúa Giêsu, con hết lòng hy vọng mình sẽ mau chóng được vào thiên đàng.

Chết sớm hay sống lâu: đâu có quan trọng gì! Điều chính yếu là làm việc mỗi ngày như thể đó là ngày cuối. Lạy Chúa, vẫn còn nhiều bất toàn, yếu đuối trong cuộc đời con, nhưng “Domine, tu omnia nosti, tu scis quia amo te” (Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy – Ga 21,17). Con van xin Chúa, hãy ban cho con tinh thần sám hối: phần đời còn lại – ít hay nhiều, con không biết, nhưng Chúa biết – con muốn dùng nó để đền bù tội lỗi… vì tình yêu Chúa”.

Tuy nhiên, vào ngày 10 tháng 5 năm 1936, tương lai dường như bừng sáng trước mặt: bề trên báo cho thầy biết thầy được duyệt chịu chức lớn đầu tiên – với điều kiện thầy tự do chấp nhận – chức Phụ Phó Tế. Thầy viết với một tiếng thở phào nhẹ nhõm:

Hôm nay là một ngày không giống như mọi ngày khác: Chúa đã ngỏ lời với con rất rõ ràng.

Chúa gọi con, giống như xưa Chúa đã “gọi” Phêrô hoặc Lêvi. Chúa đã dùng các bề trên của con để làm việc đó; họ chỉ là dụng cụ của Chúa, được ơn Chúa tác động, soi sáng. Vậy là Chúa gọi con một cách chính thức, rõ ràng, và như thế, Chúa xác nhận một lời mời gọi khác mà Chúa vẫn hằng gióng lên trong trái tim con từ bao năm nay.

Chính hôm nay đây, con phải trả lời: “Ecce servus tuus” (con là tôi tớ Ngài đây). Con đây, lạy Chúa. Chúa gọi con. Con trả lời “có con đây”. Chúa kêu mời con dâng hiến Chúa toàn thể con người con, toàn thể cuộc sống con, cả xác, cả hồn lẫn sinh hoạt: đó là tất cả những gì Chúa đòi hỏi nơi con; và cả đến cái chết.

Lạy Chúa, con là tôi tớ Ngài đây. Con không muốn từ chối Chúa bất cứ điều gì; con thuộc về Chúa. Việc Chúa gọi con là ý muốn của Trái tim Chúa hơn là mệnh lệnh, vì Chúa để con được tự do: Si vis (nếu con muốn)… Tự do này, Chúa để con sử dụng, và con xin dâng nó cho Chúa; một cách tự do, con xin tuyên xưng con là tôi tớ của Chúa. Mọi ngày sống Chúa ban cho con, đến lúc con chết, con muốn con thuộc về Chúa, bởi vì Chúa đã gọi con, con muốn làm vui lòng Chúa, con muốn tuân theo ý Chúa, con chỉ muốn duy nhất một điều là phụng sự Chúa.

Thầy tiếp tục, trong một lời nguyện dài, cầu xin Chúa cho mình được trung thành, thanh khiết trong thể xác và tâm hồn, hoàn toàn phó thác theo ý Chúa, để cuộc sống mình được sinh nhiều hoa trái, giống như các thánh, để cuộc lữ hành mình trải qua trên trái đất sẽ để lại một dấu vết, để nhờ mình mà đời sống của Đức Ki-tô được biết đến nhiều hơn. Kết hợp với tâm tình của Đức Trinh Nữ Maria khi thưa “Ecce ancilla Domini” (tôi đây là nữ tỳ của Chúa), thầy kết thúc bằng câu “Ecce servus tuus” (con là tôi tớ Ngài đây).

Cây sồi của các thừa sai

 Đức Trinh Nữ Maria giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim và lòng sùng kính của thầy Paul. Nói cho đúng ra thì đã từ lâu lắm, đây là một trong những đặc điểm của Hội Thừa Sai. Bằng chứng là “Cây sồi của các thừa sai” trong rừng Meudon, cây này thậm chí còn xuất hiện trên bản đồ Michelin, với một dấu hoa thị có ý nói “nên xem”, và từ đó đã có các bưu thiếp in hình cây sồi này. Lịch sử của nó bắt nguồn từ những năm 1850, khi các chủng sinh Hội Thừa Sai thích thú đi dạo trong khu rừng tĩnh lặng, cầu nguyện ở đó và hát những bài thánh ca về Đức Trinh Nữ. Họ nảy ra ý đặt một bức tượng Mẹ Maria nho nhỏ, với tước hiệu “Đức Bà các Chủng sinh Thừa sai.”, trong thân một cây sồi rất đẹp và to lớn; lòng sùng kính lan ra các làng lân cận, dân chúng đông đảo kéo đến cầu nguyện, đặc biệt là vào những tháng đầu năm 1860, để xin cho tránh khỏi một trận dịch đang hoành hành. Các chủng sinh, do muốn tĩnh lặng hơn, đã lập bàn thờ trong một cây sồi khác thuộc khu rừng Verrières; họ gặp phải những chuyện bất ngờ mới, lần này chẳng tốt lành gì: những tên côn đồ đến vất rác vào nơi họ đã chưng hoa; bức tượng thậm chí còn bị ném xuống đất và bị xúc phạm hai lần, khiến các chủng sinh thất vọng lắm; cuối cùng, một nhân viên kiểm lâm xuất hiện để đánh dấu những cây cần phải chặt: cây sồi của các chủng sinh – hay đúng hơn là của Đức Bà các chủng sinh – nằm trong số đó.

Họ chọn một cây khác, to khỏe, sần sùi, tuyệt đẹp, và chắc hẳn đã mấy trăm năm tuổi, các nhánh cây vươn ra tạo thành một cây dù lớn: tất cả những gì cần thiết – với sự cho phép của người kiểm lâm  – để làm một cái hốc đặt tượng Đức Trinh Nữ vào. Lúc ấy là tháng 8 năm 1890.

Hai năm sau, trong kỳ nghỉ hè, các chủng sinh khám phá ra cách đó không xa một phiến đá rộng, bằng phẳng và một số tảng đá thật to: đẩy, rồi kéo, rồi lăn, cuối cùng họ cũng đưa được những con quái vật thời tiền sử này về bên cây sồi của  Đức Bà và, không dừng lại ở đó, họ đã vần phiến đá nặng lên trên bốn tảng đá khác. Một cái mộ đá cổ “thời mới” đã ra đời, sẽ được truyền lại cho hậu thế! Và không chỉ có nó, mà cả một trong những người chỉ đạo công trình này: một tư tế đích thực, mang tên Jules Drouenel, người sau này trở thành khâm mạng tông tòa ở Sikkim, nước Népal.

Nhiều thế hệ chủng sinh đến đây cầu nguyện và ca hát; có cả một bài thánh ca được sáng tác: “Xin nhìn đến chúng con, Mẹ ơi, dưới chân cây sồi già của Mẹ, chúng con đang quỳ gối….” Nhưng chủ nghĩa chống đối giáo quyền đầu thế kỷ XX bùng lên, không hề e ngại làm những chuyện vô lý, thậm chí phản đạo đức. Đây là thời của ông Combes, vốn là một cựu chủng sinh nay thành người đứng đầu chính phủ: không gì có thể dữ dằn hơn! Một bản kiến ​​nghị do nhóm cực tả gửi đến Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Tôn giáo có nội dung như sau:

Các thừa sai hành động như thể đất đai thuộc về họ và, qua các cuộc tụ họp, ca hát và cầu nguyện, họ vi phạm tự do lương tâm và sự yên tĩnh của những người đi dạo.

Bộ Nội vụ chuyển cho Bộ Nông nghiệp, là bộ chịu trách nhiệm giám hộ rừng của quốc gia. Sau khi được điều tra, nhân viên bảo tồn của Sở Thủy Lâm trình lên một báo cáo thuận lợi cho các chủng sinh. Nhưng các kẻ kiến nghị gởi kháng thư lên bộ, và Sở Thủy Lâm được giao nhiệm vụ thông báo cho Cha bề trên Hội Thừa Sai quyết định của Bộ cấm tất cả các cuộc tụ tập gần cây sồi.

Cha Bề trên chỉ có thể lặp lại, một cách cương quyết, lệnh cấm cho các chủng sinh; những người này, vào ngày 18 tháng 2 năm 1902, đành nuốt giận đi đến cây sồi lần cuối, và đưa cái tòa của Đức Trinh Nữ xuống, mang về khu vườn ở Meudon. Cái tòa, vâng, nhưng bức tượng thì không! Bởi vì một anh chàng ranh mãnh đã lén giấu bức tuợng vào một cái hốc trên cây…. Không ai thấy và cũng chẳng ai biết… Và Đức Bà lại tiếp tục bí mật trông coi những chủng sinh đi dạo – cũng như nhiều khách du lịch. Câu lạc bộ Touring thậm chí còn lắp đặt băng ghế cho họ. Cũng vì thế mà bản đồ Michelin đánh dấu “Cây sồi của các thừa sai” như một điểm du lịch.

Có phải chúng ta đang xa thầy Paul Seitz? Không đâu! Thầy đây, xuất hiện đúng lúc, trong những năm 30. Bởi vì truyền thống được chuyển từ thế hệ chủng sinh này sang thế hệ chủng sinh khác. Bài hát Đức Bà Cây Sồi cũng vậy, và trở thành nguồn vui cho tất cả những ai đến bên cây sồi nổi tiếng (ông Combes đã chết, và cả Cha bề trên thời kỳ đó). Một nghi thức khởi xướng thậm chí đã được đặt ra: nghi thức tấn phong “hiệp sĩ”. Để được tấn phong, bạn phải leo thật nhanh con dốc cao cạnh cây sồi, coi chừng bị nhồi máu cơ tim, sau đó phải nhảy lên đỉnh tảng đá lớn và giữ thăng bằng ở đó, cùng lần một chục hạt hoặc hát kinh Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa), với nguy cơ bị ngã gãy cổ. Bản tin hằng tháng của chủng viện kể rằng:

Vào thời đó, có một chủng sinh thuộc loại hướng đạo hơi tàng tàng, anh chàng nhanh chóng xuất hiện như một đầu tàu. Anh chàng đã thành công trong việc được tấn phong hiệp sĩ, nhưng anh chàng cứ nghĩ rằng như thế là chưa đủ. Cần phải làm tốt hơn.

Năm 1936, thầy táo bạo đề nghị một cuộc gặp gỡ với nhân viên bảo tồn Sở Thủy Lâm, và đã chuẩn bị một bài phát biểu thật hay. Và thầy kinh ngạc nghe người này nói ngay với mình: “Cây sồi của các thừa sai hả? Tất nhiên, anh có thể lập lại bàn thờ ở đó.”

Không một hai gì cả: thầy đặt làm một cái tòa chắc chắn, bằng gỗ tốt, cao khoảng bảy mươi lăm phân, có mái bằng kẽm; sau đó, vẫn luôn can trường, đeo chặt căn nhà bé nhỏ của Đức Trinh Nữ trên lưng, thầy leo lên một cái thang mắc vào nhánh chẻ ba đầu tiên, leo lên nữa, từ cành này sang cành khác, và đặt cái tòa ấy ở độ cao mười lăm mét. Những người ở duới nín thở đứng nhìn… Thầy lại tụt xuống, rồi leo lên lần nữa với bức tượng Đức Bà cũng được vác trên vai, và đặt bức tượng lên tòa. Phía trên, thầy đóng một tấm bảng được viết bằng chữ lớn, có thể nhìn thấy từ xa: “Đức Bà của các chủng sinh thừa sai, xin cầu cho những nhà thừa sai.”

Cuối cùng, với những đồng nghiệp vẫn còn thở đứt hơi, thầy bắt cung hát (rất tiếc là bị sai!), bài thánh ca cũ thích hợp: “Xin nhìn đến chúng con, Mẹ ơi, dưới chân cây sồi già của Mẹ…”, và đọc kinh cảm ơn.

Đây là thời điểm ngày hôm sau cuộc bầu cử của Mặt Trận Nhân Dân…
Kể từ đó, hầu như mỗi thứ tư, các chủng sinh đều đến cầu nguyện và dâng lời ca tiếng hát ở đây.
Cũng kể từ đó, các giáo sư, các nhà khảo cổ học, các nhà địa chất và các nhà bác học khác đã cúi mình trên ngôi mộ đá, soi bằng kính lúp để ước tính xem nó xuất hiện từ thời nào, đồ đồng, đồ sắt hay đồ nhựa Neanderthal …

 Chịu các chức thánh

Ngày 5 tháng 7, thầy Paul Seitz được chịu chức phụ phó tế, cam kết suốt đời phục vụ Thiên Chúa và Giáo hội. Chức này, tuy bị hủy bỏ bởi cuộc canh tân phụng vụ sau Công đồng Vatican II, cho đến thời điểm ấy vẫn còn giữ một tầm quan trọng đáng kể, bởi vì trong khi chịu chức, người giáo sĩ, qua việc đặt một bước chân dứt khoát tiến lên, bày tỏ quyết tâm của mình là không quay lui nữa, giữ luật độc thân và trung thành với lời hứa của mình cho đến chết.

Nhà thừa sai trẻ tuổi của chúng ta đang ở trong tâm trạng tốt nhất; thầy đã phó mình cho Chúa, sau một cuộc tĩnh tâm đã giúp thầy – ít nhất trong một thời gian – gạt bỏ đi những đắn đo lo lắng, những dằn vặt trong tâm hồn mình, một tâm hồn luôn khao khát sự hoàn thiện quá tầm sức. Nhưng đó chẳng phải là những dằn vặt mà biết bao vị thánh đã nếm trải sao?… Và chẳng phải là chúng đã giúp các ngài nên thánh hơn sao?

Kỳ nghỉ hè của thầy năm 1936 rất bận rộn với việc chuẩn bị, rồi tổ chức một trại hành hương ở Lourdes (Lộ Đức), từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 9, với khoảng bốn mươi chủng sinh, gồm một số cựu hướng đạo, một trại đáng nhớ cho tất cả những người tham gia. Thầy Paul đã là một nhà huấn luyện đặc biệt, dày dạn kinh nghiệm nhờ nền tảng đào tạo trong hướng đạo trước đây, nhờ thời gian đi quân dịch ở Maroc, và nhất là nhờ nhân cách riêng. Khẩu hiệu của thầy: “Tin điều mình làm, và làm nhiệt tình.”

Mọi chuyện đều thành công tốt đẹp, mặc dù có một số trục trặc như việc chăn mền đến muộn sau hai đêm, các chủng sinh vẫn có thể cầu nguyện, ca hát, tĩnh tâm, diễn giảng tại Hang Đá, và thậm chí tham dự thánh lễ do Đức Cha Gerlỉer cử hành, ngài là giám mục địa phương, sau này được thăng hồng y. Mỗi người bày tỏ tâm nguyện của mình dưới chân Đức Mẹ và cùng nhau đi đàng Thánh giá. Sau đó cắm lều ở Lascazères tại nhà của Ông de Franlieu để luyện trong ba ngày cho thấm nhuần tinh thần hướng đạo, đó là sống huynh đệ, ngay thẳng, sẵn sàng phục vụ, và quảng đại: đây là phương thế học làm người và làm một Ki-tô hữu 100%; cũng là một bậc để trở nên những nhà lãnh đạo. Thầy Seitz đã được các đồng bạn coi như một người anh cả dễ thương và luôn tươi cười, không mệt mỏi (ít nhất là bề ngoài, vì thầy không để lộ ra), lúc nào cũng là người đầu tiên sẵn sàng phục vụ và hoàn thành mọi công việc, hoặc nói một vài lời thích hợp để giảm bớt những bất trắc và cho thấy mặt tích cực của vấn đề. Ai cũng thích tinh thần lạc quan  – cộng thêm tính hài hước – của thầy.

Vào ngày tựu trường tháng 10, thầy nhận được một lá thư, giúp thầy thấy rõ và an tâm hơn về ơn gọi. Bức thư do Đức Cha Prunier gửi, ngài là thành viên của Hội, đại diện tông tòa ở Salem, nước Ấn Độ:

Luật của Hội Thừa Sai rất thuận lợi cho sự kết hợp của hai lối sống, hoạt động và chiêm niệm. Chỉ cần chúng ta, cách riêng mỗi người, có ý muốn tận dụng cuộc sống mà cánh đồng truyền giáo mang lại. Tôi có các vị thánh, các bạn nghe không, các vị thánh trong giáo phận của tôi và con số dường như không muốn giảm bớt. Và tất cả những vị thánh này đều là những linh mục, đã… mong rời bỏ Rue du Bac (trụ sở Hội Thừa Sai) để gia nhập dòng khổ tu, nhưng sau đó đã xua đi ý tưởng này và tự nhủ: “Không, tôi sẽ không rời bỏ; cuộc sống của tôi sẽ là cuộc sống của một nhà thừa sai, và tinh thần của tôi sẽ vẫn là tinh thần của một thầy khổ tu.”

Ngày mà cánh đồng truyền giáo của chúng ta không còn những thành viên như thế, nghĩa là những thầy khổ tu trong tinh thần và những nhà thừa sai trong thân xác, không còn những linh mục có cao vọng sẽ kết hợp (như Đức Giêsu) cuộc sống chiêm niệm vào cuộc sống hoạt động, ngày đó, sẽ phải đóng cửa trụ sở ở Rue du Bac. Hội Thừa Sai không còn lý do để tồn tại. Nhưng ngày mà tất cả những người được sai đi mang tới cánh đồng truyền giáo tinh thần khổ tu kết hợp với tinh thần thừa sai, ngày đó cả Paris lẫn Bièvres đều sẽ không đủ chỗ: phải cần một tòa nhà thứ ba mới chứa hết chủng sinh, bởi vì chính vào ngày đó, phúc lành của Chúa sẽ đổ xuống tràn đầy trên Tu Hội thân yêu.

 Tôi có niềm vui to lớn là trong giáo phận của mình, có các linh mục biết cách kết hợp cả hai lối sống chiêm niệm và hoạt động; họ đều là những nhà truyền giáo “cứng rắn” nhất của tôi, xét về mặt sức khỏe. Họ vốn hay yếu đau trước khi dâng hiến toàn thân cho cuộc sống tươi đẹp này, bắt chước Chúa Giêsu, làm việc ban ngày và cầu nguyện ban đêm, bây giờ họ khiến cho những nhà truyền giáo già phải ngạc nhiên thán phục, bởi các vị này, vì đã quen với những nguyên tắc thận trọng quá mức, chẳng hiểu gì trong chuyện ấy cả…

Đây chẳng phải là chương trình mà một tân chức phụ phó tế nhắm đến sao? – Vậy là thầy an tâm!

Ít nhất về một điểm! Nhưng cái chết vẫn còn lởn vởn trước mắt thầy và, trong một thời gian dài, thầy lại suy gẫm về nó sau kỳ nghỉ ở Criquetot. Thầy biến nó thành một người bạn, thầy nhìn nó mà không hề sợ hãi, thầy yêu nó không phải vì bản thân nó, bởi nó vẫn luôn là một sự cưỡng bức đối với thiên nhiên, nhưng vì nó là phương thế duy nhất giúp ta cuối cùng được đối diện với Thiên Chúa, được yêu mến Ngài và chỉ mình Ngài thôi, không ngừng, không vất vả chiến đấu.

Và kìa, đột nhiên, một cách tàn nhẫn, nó gõ cửa nhà thầy.  

Vào đêm 22 rạng ngày 23 tháng năm 1936, thầy Paul bị đánh thức bởi một dòng máu trào ra miệng. Không còn nghi ngờ gì nữa: bệnh lao tái phát. Nó vẫn âm ỉ trong lồng ngực thầy, nhưng lần này nó bung ra. Cái chết đang đến thăm, thầy nghĩ ngay như thế. Hơn nữa, bài Phúc âm trong ngày nhắc nhở thầy: “Vigilate- Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết giờ nào Chúa đến. Hãy sẵn sàng, vì anh em không biết ngày nào hay giờ nào.” Chẳng bao lâu sau, thầy ghi lại:

Thân xác đã rung lên, nhưng sự yếu hèn chưa động đến trái tim. Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện. Con không muốn xin gì ngoại trừ ơn được biết phó thác – với nụ cười – như một đứa trẻ trong vòng tay của Cha mình. Non recuso labem, non recuso mortem… Con không chối từ công việc, con không chối từ cái chết.

Lời cảnh báo thật là ghê sợ. Nhưng các xét nghiệm, hoàn tất ngay sau đó, xem ra trấn an hơn. Thầy cần phải nghỉ ngơi ngay – bởi tất cả đều nằm ở đó: do căng thẳng quá, do lao lực quá, rõ ràng là như thế, phải dừng lại thôi. Lên miền núi nữa chăng? Hãy thử nghỉ ngơi ở nhà trước, may ra đủ để ngăn chặn tai họa. Thư giãn thân xác và tinh thần. Cũng là một thử thách nữa! Vài ngày sau, thầy ghi trong nhật ký:

Con thú thật, Chúa ơi, con đã sợ. Con chìm trong lo âu. Đã diễn ra trong con một sự quay lại bất ngờ, dữ dội. Cú trả thù của con thú (bệnh tật).

Từ nhiều năm qua con vẫn biết bản thân mình bị bệnh tật đe dọa. Ngay những ngày đầu, con đã hình dung ra những hậu quả tồi tệ nhất – và con đã chấp nhận chúng với một trái tim vui vẻ – hoặc ít nhất là khá dễ dàng.

Cái chết không làm con hoảng sợ. Đôi khi con còn ao ước chết. Hy sinh ơn gọi, hy sinh gia đình, những hy sinh mà cái chết này có thể đã đòi hỏi, con không cảm thấy quan trọng. Tóm lại, mọi thứ xuất hiện trong con dưới một ngày rất tươi đẹp. Con đã nhìn xem, con đã cảm nhận từ Trên Cao, từ Thiên đàng. Trạng thái tâm hồn này khiến con ít nhiều coi thường mạng sống. Nhờ đó, con đã kiên trì ở lại chủng viện và đã có thể tham gia vào một số hoạt động mà con đã chẳng bao giờ dám làm, nếu con sợ chết.

Thử hỏi có bao nhiêu lần con đã không hành động, mặc dù thân xác mệt mỏi mà con biết là nguy hiểm? … Nhưng cái chết – hậu quả mà con luôn hình dung – không hề làm con khiếp sợ!

Đột nhiên, một tai nạn có vẻ hơi nghiêm trọng hơn xảy đến: con tỉnh dậy và ói ra máu. Ngay lúc đó, con đã nghĩ không chút nghi ngờ: giờ đã điểm để hy sinh. – Không. Đây vẫn chỉ là một bài học từ Thầy Chí Thánh. Cũng là để giúp con thêm khiêm nhường!

Trước những điều quá rõ ràng xảy đến cho con, con tự chuyển hướng. Không còn gì những tâm tình thuở xa xưa. Các thực thể của Thiên đàng đang bị che khuất. Chúng chỉ còn xuất hiện với con từ bên dưới, nhìn từ phía trái đất. Sao lại như thế được? Gần thiên chức linh mục lắm rồi, gần đến lúc được ra đi! … Vậy mà… con sẽ phải nhìn xem những ân sủng bao la này, những ân sủng không gì so sánh được, mãi mãi trốn xa! …

Nỗi lo lắng, cơn đau đớn ám ảnh tâm trí thầy. Có nên thông báo với cha mẹ rằng mình phải rời bỏ chủng viện không?..Mình sẽ không vươn tới chức linh mục?…Mình sẽ không thể thực hiện giấc mơ cao đẹp là được ra đi truyền giáo…Dù thầy đã cố xua đuổi những con chim đen ấy, chúng vẫn trở lại thành đàn để khiến thầy quay cuồng, khổ sở và tan nát, không còn sức lực. “Con cảm thấy mình bé nhỏ, yếu đuối, nghèo nàn, trống rỗng không thể tả được”. Chính lúc này, thầy mới hiểu được cơn hấp hối của Chúa và cầu xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén này xa con”. Nhưng thầy chấp nhận; thầy chỉ muốn điều Chúa muốn, bởi vì thầy biết rằng điều mà Chúa đặt trên vai thầy, Chúa sẽ giúp thầy mang nó. Còn điều mà thầy tự chọn lấy, thì thầy sẽ phải vác một mình thôi.

Nhiều tuần lễ trôi qua và người ta thấy rằng vấn đề sức khỏe của thầy không đến nỗi nghiêm trọng như người ta vẫn sợ. Từ đó, thầy rút ra bài học là không nên lo lắng thái quá về sức khỏe và cuộc sống của mình, nhưng trái lại, phải biết khiêm tốn làm những gì cần thiết để giữ gìn một tài sản, một ân sủng, mà Chúa muốn thấy chúng ta sử dụng để phụng sự Ngài. Không được lấy cớ là mình cần phải sống tinh thần từ bỏ mà xem nhẹ những món quà Chúa tặng ban cho chúng ta.

Vậy là thầy Paul Seitz trở lại chủng viện vào đầu năm 1937. Trong bình an, thầy đã vượt qua các kỳ thi và chuẩn bị lãnh nhận các chức thánh. Thậm chí thầy còn đốt giai đoạn, bởi vì bề trên tin rằng thầy đã học đủ, và có tiếp tục thì chỉ làm cho sức khỏe thầy suy giảm; các ngài còn nhận biết rằng tận thâm tâm thầy, điều làm thầy ray rứt, chắc hẳn đó là mong mỏi được ra đi truyền giáo.

Sau đó, vào ngày 13 tháng 3, Đức Hồng Y Verdier, tổng giám mục Paris, đã truyền chức phó tế cho thầy, trong Nhà nguyện Apparitions (Hiện ra) của dòng Nữ Tử Bác Ái, bên cạnh chủng viện. Gia đình thầy cũng có mặt, và thầy chuẩn bị cho họ sẵn sàng với cuộc chia ly sắp tới. Thầy nói với họ:

Cuộc chia ly, chúng ta phải nhìn nó đến với thái độ thật bình tĩnh và can đảm, thậm chí vui mừng và tự hào nữa. Chúng ta sẽ luôn là con nợ của Chúa, và nếu như Chúa yêu cầu chúng ta hy sinh, thì đó là Chúa ban cho chúng ta một vinh dự lớn lao đến nỗi mà trước tiên, chúng ta phải tỏ lòng biết ơn. Mọi người cứ nghĩ xem… Con sẽ trở thành một linh mục! Con sẽ là người đại diện chính thức của Chúa nơi vùng đất dân ngoại! Tại sao lại là con? Tại sao lại là chúng ta? Chẳng phải là bởi vì chúng ta luôn liên kết chặt chẽ với những gì Chúa sẽ đòi hỏi nơi con sao? Do đó, chúng ta đừng sợ gì cả, nhưng hãy trở nên linh động trong tay Thầy Chí Thánh.

Ngày 9 tháng 5, bề trên chủng viện chính thức gọi thầy tiến lên chức linh mục, và xác nhận thầy sẽ lên đường truyền giáo vào tháng 9. Thầy chỉ còn mỗi một việc là chuẩn bị cho lễ phong chức linh mục. Phải tận dụng mọi giây phút để trước tiên, kết thúc chương trình thần học; để tập trung vào bí tích thầy sẽ lãnh nhận; để tìm hiểu các quy tắc của bí tích giải tội, mà thầy sẽ sớm thi hành; để học thuộc các nghi thức thánh lễ, rồi ôn đi ôn lại hầu có thể cử hành một cách hoàn hảo nhất có thể. Thầy cũng phải lo tổ chức đón tiếp gia đình và bạn bè; nhưng họ sẽ chẳng thể tới đông, bởi nhà nguyện của Hội Thừa Sai tại 128 Rue du Bac thì nhỏ mà lại có đến hai mươi bốn linh mục được chịu chức, các vị này cũng sẽ mời gia đình của họ, đó là chưa kể đến các thầy phó tế và phụ phó tế.

Các quà tặng cho lễ phong chức được gửi đến: một cuốn sách lễ, những đồ trang hoàng do một bà bạn của gia đình làm; một chén thánh tuyệt đẹp, mà vị linh mục tương lai đã chỉ dẫn rất cẩn thận phải chế tác thế nào. Bà Cố Seitz đã muốn nó được làm với những bộ đồ ăn bằng bạc truyền từ ông bà ngoại Bourlet, xuống song thân Dufau, rồi đến Bà. Bà cho nấu chảy chúng ra và cẩn thận theo dõi để chiếc nhẫn đính hôn của bà và một chiếc nhẫn khác được gắn vào chén thánh, một bên trên, một bên dưới cái nơ chạm hình mũ gai. Còn viên ngọc của chiếc nhẫn cưới thì được đặt ở ngay chính giữa thánh giá Jérusalem khắc nơi chân đế.

Thầy Paul cũng đã muốn khắc nơi chân đế câu khẩu hiệu “Fac me Cruce inebriari” (xin làm cho con say mê Thánh giá), một câu trong kinh Stabat Mater (Mẹ đứng đó) và cũng sẽ là câu khẩu hiệu giám mục của thầy sau này; và khắc dưới đĩa thánh câu “Monstra te esse Matrem” (xin chứng tỏ Mẹ là Mẹ), một câu trong kinh Ave maris Stella (kính chào ngôi sao biển), và cùng với câu đó là hình bàn thờ nơi “Cây sồi của các chủng sinh thừa sai”, được chạm trổ tinh xảo, có cái mộ đá “thời tiền sử” kèm theo. Phía dưới chân chén thánh, khắc hai chữ này “Dilecti Dilecto” (những kẻ được yêu dành cho người được yêu) với tên của thầy và ngày chịu chức: tất cả những chi tiết này chứng tỏ tình cảm sâu đậm không ngừng nối kết mọi thành viên trong gia đình. Chén thánh và đĩa thánh sẽ đi cùng thầy suốt cuộc đời thừa sai, và đó hầu như là những vật dụng cá nhân duy nhất mà thầy giữ lại được sau khi giáo phận Kontum sụp đổ, và mang theo về Pháp.

Có một chi tiết không được quên, thầy bắt đầu để râu, bởi vì tất cả các thừa sai đều phải có râu mới được lên đường. Sau cùng, còn những bài thi thần học cuối khóa, vì người ta không để cho thầy yên, và thầy phải làm bài thi cho đến hết tháng 6.

Ngày 30, thầy Paul bước vào tuần tĩnh tâm. “Vậy là, lạy Chúa, con đây đang chạm tới đích mà Chúa hằng muốn dẫn con. Nếu như con đi một mình thôi, con tin rằng con đã chẳng bao giờ đạt được!” Thầy thừa nhận mình đã lãng phí những ân sủng Chúa ban, những ân sủng mà thầy đã không làm cho sinh nhiều hoa trái; thầy còn cho rằng mình đã làm tổn hại đến công trình của Chúa khi liều lĩnh coi thường sức khỏe. Thầy tâm sự:

Nhưng Chúa ơi, xin đừng ngăn cản con yêu Chúa! Phần Chúa, Chúa còn yêu con nhiều hơn– và nhất là Chúa yêu con một cách thông minh hơn! – Con không đủ khả năng ư? Con chẳng hề xứng đáng ư? Con kém cỏi bất tài ư? Tất nhiên con biết thế! Những lỗi lầm con đã phạm, những điều dại dột con đã làm, quá đủ để giúp con nhận ra khá chính xác con đáng giá ra sao! Nhưng con không quan tâm đến chuyện đó: con dâng Ngài tất cả, Chúa ơi, trước tiên là tội lỗi và những khiếm khuyết của con. Con trút hết cho Chúa. Rõ ràng Chúa gọi con. Vì thế, con vui mừng tiến lên, lòng đầy tin tưởng và hy vọng. Vâng, với niềm hy vọng rằng dù sao Ngài cũng sẽ đoái hoài đến con và dùng con để thực hiện công trình của Ngài là đem ánh sáng chiếu soi trên vùng đất dân ngoại.

Ngày 4 tháng 7 năm 1937, thầy đã nhận được ân sủng vô song của bí tích truyền Chức thánh. Những lời đầu tiên thầy thốt lên vào ngày này là những lời của Đức Trinh Nữ Maria: Magnificat anima mea Dominum – Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.

Tất nhiên, cha mẹ thầy đều có mặt, cũng như anh Pierre cùng vợ Suzanne và hai đứa con, và chị Annette, người truyền lại cho chúng ta hầu hết những kỷ niệm gia đình. Cũng có mặt là cha sở của giáo xứ quê nhà, và cha sở của giáo xứ Leschaux, người vẫn gắn bó với thầy.

Buổi chiều của ngày đáng nhớ này, có nghi thức trao mệnh lệnh truyền giáo cho các tân linh mục. Mọi trái tim đập mạnh, những nhà truyền giáo trẻ đã đành, mà cả cha mẹ họ nữa, bởi họ biết rằng con mình sẽ sớm lên đường tới một đất nước xa xôi, và họ có thể sẽ không bao giờ gặp lại. Dĩ nhiên là ai cũng mong đợi quý bề trên sẽ lưu ý đến các chỉ dẫn thận trọng của bác sĩ, để gửi Cha Paul Seitz, mà cách đây không lâu còn bị thử thách về vấn đề sức khỏe, đến một nhiệm sở vùng cao trong một quốc gia có khí hậu ôn hòa và khô ráo. Nhưng thật là ngỡ ngàng! Cha được bổ nhiệm đi Hà Nội, Bắc Kỳ: gần biển, với độ cao tối đa 6 mét; nơi có khí hậu nóng và ẩm ướt nhất mà người ta có thể tìm thấy…

“In verbo tuo laxabo rete”, như thánh Phêrô sau khi nghe lệnh truyền của Đức Giêsu, Cha Seitz cũng trả lời ngay: “Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”(Lc 5, 5).

Vui quá – Tất cả cho Bắc Kỳ – miền truyền giáo đẹp nhất!

Hai tháng tiếp theo của vị tân linh mục trước khi đi Viễn Đông thật là bận rộn: làm phép đám cưới cho một người bạn ở Dieppe; thánh lễ mở tay trọng thể trong giáo xứ quê nhà, với đông đảo người thân và bạn bè; một thánh lễ trọng thể khác tại nhà thờ Thánh Anna ở tỉnh Havre, giáo xứ thời thơ ấu của Ngài; đi thăm Fontgombault để nói lời từ biệt với các giáo sư và bạn học ngày xưa trong năm đầu tiên ở chủng viện, những người mà Ngài vẫn giữ liên lạc; thăm người con gái đỡ đầu đang sống ở miền Bắc; sau hết, một thánh lễ cuối tại giáo xứ Criquetot, trong thánh lễ đó, từ trên bục giảng, Ngài đã để cho trái tim lên tiếng, mạnh mẽ thúc đẩy các tín hữu cùng trở nên những nhà thừa sai với mình, loan truyền đức tin, khơi dậy và nâng đỡ ơn gọi: tất cả mọi Ki-tô hữu đều được kêu mời đóng một vai trò trong việc rao giảng Tin Mừng trên toàn thế giới. Ngài đôi thúc:

Thưa các bà mẹ đạo đức đang muốn lắng tai nghe bài giảng đơn hèn của một linh mục trẻ, tôi xin nói như thế này: các bà đừng sợ nếu như một ngày nào đó Chúa ngỏ lời với một trong những người con của các bà. Hay đúng hơn, các bà hãy chú ý mà khám phá cho ra mầm sống thánh thiêng! Mong sao các bà biết được hồng ân của Thiên Chúa! Mong sao các bà biết được danh hiệu “bà cố – mẹ của một linh mục” cao trọng dường nào! Vì Đức Giêsu, trên Núi Sọ, đã muốn liên kết Mẹ Maria vào hy tế cứu chuộc của mình, nên từ đó, Ngài sẽ không bao giờ để cho một người con tiến lên bàn thờ trong Thánh lễ đầu tiên của mình mà không có người mẹ được liên kết với sự hy sinh của người con ấy – Hy sinh, vâng, nhưng là một thứ hy sinh ngọt ngào khiến cho tâm hồn thanh thản, mạnh mẽ, và tôi xin chúc các bà, một ngày nào đó, cũng được nếm sự ngọt ngào đó.

Lúc này, Cha rời khỏi nhà mà không ngoái cổ lại đằng sau, không hy vọng quay về: những lời cuối Cha nói với cha mẹ, mà Cha khen là đã giữ được bình tĩnh và tự chủ, cho thấy rõ cá tính của Cha: “Chúa yêu người nào vui mừng cho đi.”

 Lên đường thi hành sứ mệnh

Một buổi lễ cảm động đánh dấu ngày lên đường trọng đại: tất cả cộng đoàn các nhà thừa sai tề tựu trong nguyện đường của nhà mẹ; những người được sai đi ngồi trước bàn thờ, chân để trần và các đồng nghiệp của họ lần lượt quỳ gối trước mặt mỗi người, kinh cẩn hôn lên chân họ. Dấu hiệu của sự khiêm nhường, dấu hiệu của lòng tôn kính, dấu hiệu của tình yêu; người ta nghĩ tới cử chỉ của Chúa vào buổi tối Bữa Tiệc Ly; cũng là biểu tượng của những chuyến đi dài mà những người rao giảng Tin Mừng sẽ thực hiện cho đến tận cùng thế giới.

Xét bề ngoài, sự ra đi của các nhà truyền giáo có thể mang cái vẻ vui tươi của một chuyến du ngoạn trên tàu, hay vẻ trang nghiêm của một cuộc phiêu lưu, hoặc của một buổi chia ly đau đến xé lòng. Nhưng nhìn từ bên trong, sự ra đi ấy là dấu hiệu của một thực tại sống, bí ẩn hơn và bi thảm hơn. Nó ẩn chứa một chiều kích tâm linh chỉ có thể hiểu được trong mối tương quan giữa nhà truyền giáo với Thiên Chúa và thế giới. Phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa, lệnh lên đường được gửi tới những người mà Chúa đã chọn, đã gọi và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời.


Download file nghe: Chương III-1
Download file nghe: Chương III-2
Download file nghe: Chương III-3
Download file nghe: Chương III-4

 ************************************

CHƯƠNG IV
NHÀ TRUYỀN GIÁO TẠI BẮC KỲ


Ngày 17 tháng chín năm 1937, nhóm “Hải Thuyền”- biệt danh tự đặt của nhóm các thừa sai trẻ vừa thụ phong linh mục và sẵn sàng ra khơi, đến các vùng đất xa lạ- qui tụ tại Marseille và lên tàu Félix Roussel.

Mười một năm trước, vào tháng mười năm 1926, chàng trai Paul Seitz đã lên tàu cũng tại bến cảng này, với bộ quân phục, để đi về Bắc Phi, mà không hề mảy may nghi ngờ tiếng gọi của sa mạc ở đó sẽ chuyển thành tiếng gọi thiên triệu thừa sai…

Hôm nay, trước khi lên tàu, cha Paul Seitz đã nhất định dâng thánh lễ tại vương cung thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ (Notre Dame de la Garde), Người “Mẹ Hiền”luôn canh chừng thành phố, bến cảng và cả các thủy thủ, các du khách cập bến dưới mắt mẹ. Cha đã viết những hàng chữ cuối cùng này cho cha mẹ:

Con ra đi, nhưng con vẫn còn gần cha mẹ biết chừng nào, lúc này, hơn lúc nào hết, con cảm nghiệm được điều đó. Không, Thiên Chúa không hề tách biệt chúng ta, sự xa cách càng xích chúng ta lại gần nhau hơn. Và nhất là, nhất là Thiên Chúa lại ban cho mỗi người chúng ta ân sủng, sức mạnh để chúng ta hân hoan tuân theo thánh ý Người cách vẹn toàn. Thật là hạt giống cho cuộc sống vĩnh cửu! Thật là mầm sống tuyệt vời, ngay tại trần thế, cho các tâm hồn (…). Ơn gọi thừa sai là một trạng thái thánh thiện, cha bề trên đã nói với chúng con như vậy. Đúng, con tin chắc điều đó và con tin là đối với cha mẹ cũng vậy. Thiên Chúa không để chúng ta thắng Ngài về lòng nhân từ.

Qua Port-Said rồi kênh đào Suez, đến Biển Đỏ, rồi Djibouti, nơi sức nóng khủng khiếp bắt đầu hoành hành- trung bình 40o C trong bóng râm – tàu Félix Roussel đi vào Ấn Độ Dương.

Trên tàu tương đối tiện nghi: có đầy đủ vòi tắm bông sen, hồ bơi, giải khát. Những tuần lễ trên biển này là những ngày nghỉ ngơi, dễ chịu. Khác xa với những cuộc du hành của các bậc tiền nhân nổi danh thế kỷ XVII.

Chắc hẳn nhóm “Hải thuyền” đã nhớ lại những khám phá của những vị thừa sai tiên khởi ở Viễn Đông, đã được truyền tụng khi nhóm còn ở trong Chủng viện. Như Đức cha Pallu, đại diện tông tòa đầu tiên ở Bắc Kỳ, được bổ nhiệm ngày 13 tháng 5 năm 1658. Ngài phải mất 2 năm 3 tuần để đi từ Marseille tới Xiêm la (Thái Lan) qua ngã Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư và Ấn Độ: Marseille ngày 2 tháng giêng 1662  đến Xiêm La  ngày 27 tháng giêng 1664. Và trong những điều kiện rất ư khó khăn!…Đi bộ, đi ngựa, đi la, đi tàu, đi thuyền. Với biết bao phiêu lưu mạo hiểm, biết bao nguy khốn!..Ngài có thể kể ra mọi thứ gian khổ, tương tự như những gì  thánh Phao Lô tông đồ đã trải qua trước ngài.

Các nhà truyền giáo trẻ chắc đã phải mỉm cười về những kỷ niệm này. Họ đã đến Viễn Đông chưa đầy một tháng sau khi rời khỏi nước Pháp. Thực thế, sáng sớm ngày 15 tháng 10, con tàu Félix Roussel đã cập bến Hải Phòng, cửa ngõ của châu thổ Sông Hồng. Đa số các thừa sai trẻ sẽ xuống đây để chia đi nhiều hướng. Cha Seitz được một vị thừa sai ở Hà Nội đón tiếp. Rồi cha lên xe lửa để đi tiếp chặng cuối cùng của cuộc hành trình đưa cha về tới thủ phủ Bắc Kỳ ngay tối hôm đó.

Ở tuổi 31, cha khởi đầu cuộc sống thừa sai đích thực ở đây, kéo dài 38 năm.

Xứ Bắc Kỳ

Vùng đất mà cha Seitz đến, với lòng tràn đầy nhiệt huyết và ước muốn bao la chinh phục các tâm hồn, là vùng đất nào vậy? Bắc Kỳ là một phần của Đông Dương, mà nước Pháp đã bắt đầu chinh phục dưới thời hoàng đế Napoléon III. Nhưng việc rao giảng Tin Mừng đã có trước từ lâu, thậm chí từ thế kỷ XVII. Ngay từ thời đó, các nhà thừa sai cũng như giáo dân đã không ngừng bị vua quan bách hại. Đã có rất nhiều chứng nhân tử vì đạo: các linh mục, các thày giảng và cả giáo dân, sau nhiều cực hình, đã bị sát hại tàn nhẫn. Đức tin của dân Việt đã trổ sinh từ những cuộc bách hại này. Họ can trường và yêu thương chịu đựng. Một chỉ dụ của vua Tự Đức ngày 21 tháng 3 năm 1851 đã chỉ thị:

Các linh mục châu Âu phải bị ném xuống vực thẳm dưới sông, dưới biển. Các linh mục Việt nam thì bị chặt đôi. Ai tố cáo hay giao nộp một linh mục châu Âu sẽ nhận được một số tiền thưởng, cộng thêm nửa gia sản của những kẻ che giấu linh mục đó.

Vị tử đạo nổi tiếng nhất trong nước có lẽ là Théophane Vénard, một chú bé chăn chiên vùng Poitou. Ngay từ lúc 9 tuổi cậu đã tuyên bố là muốn trở thành thừa sai ở Bắc Kỳ và chết vì đạo tại đó. Ước nguyện của cha đã được Chúa chấp nhận, ngày 2 tháng hai năm 1861, đúng ngày lễ Đức Mẹ Dâng Con Trong Đền Thờ, trên bờ sông Hồng tại Hà Nội nơi mà cha Paul Seitz đã cập bến. Cha Vénard cũng 31 tuổi như cha Paul Seitz, cha cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, vị thánh sẽ được tuyên dương làm bổn mạng các xứ truyền giáo, có liên hệ rất mật thiết với cha.

Chính để bảo vệ các thừa sai công giáo châu Âu đã bị bách hại, tra tấn và kết án tử hình, nhưng cũng để giải quyết những vấn đề thực tế liên quan đến buôn bán giữa Trung quốc và châu Âu mà nước Pháp dưới thời Đệ nhị đế chế đã gởi một hạm đội đến chiếm Nam Kỳ rồi Bắc Kỳ, lúc đó còn là một tỉnh của vương quốc An Nam. Sông  Hồng, còn gọi là Sông Cái, là đường chiến thuật để vận chuyển binh sĩ và vũ khí từ Trung quốc cũng như để tiếp tế lúa gạo và thực phẩm lên. Năm 1883, hải quân đô đốc Courbet chiếm Huế, thủ đô của An Nam và triều đình Huế phải nhận quyền bảo hộ của Pháp. Trung quốc, nước có chủ quyền trên An Nam, giờ đây bị đẩy lui. Đô đốc Courbet phá hủy đoàn tàu Trung quốc, thậm chí còn chiếm đảo Đài Loan, buộc Trung Quốc ký hòa ước tháng ba năm 1885, nhận quyền bảo hộ của Pháp trên An Nam và Bắc Kỳ.

Mười năm sau đó, tới phiên nước Lào lân bang cũng gia nhập Bảo hộ Pháp. Như thế, một hợp thể đồng nhất được thành lập và được gọi là Đông Dương Pháp. Đứng đầu xứ bảo hộ là một vị toàn quyền. Ông này trao quyền hạn cho các giới chức địa phương và tìm cách đào tạo các cán bộ bản xứ cho guồng máy hành chính. Việc phát triển đất nước dưới thời đô hộ của Trung Hoa còn rất lạc hậu, thì nay đang được xúc tiến mạnh mẽ. Nhiều đường bộ, đường sắt và cầu cống được xây dựng. Nhiều thành phố thay đổi với những đại lộ xinh đẹp, rợp bóng cây. Những nhà cửa kiên cố thay thế những nhà tranh vách đất. Những khu vực dơ bẩn thiếu vệ sinh được chỉnh đốn lại. Bệnh viện được xây dựng khắp nơi, thường do các dòng tu nam hay nữ điều khiển và có khi còn tài trợ xây dựng nữa. Có những dòng khác xây dựng các trường tiểu học, trung học và đại học. Trong vài thập niên, đất nước đã thay đổi về lĩnh vực y tế và thực phẩm cũng như về lĩnh vực văn hóa. Tuy vậy, vẫn có sự bất hoà đối với một số thành phần dân chúng cũng như giữa thế lực dân sự và tôn giáo. Thậm chí đôi khi cũng có những nhân viên thuộc địa, thiếu khiếm nhã hoặc hủ hóa, đã sách nhiễu dân chúng. Cuối cùng, cũng có những thống đốc Tam Điểm hoặc một vài bộ trưởng xã hội cấp tiến, ở chính quốc, đã thọc gậy bánh xe, đưa ra những biện pháp thế tục hóa để hạn chế ảnh hưởng của Giáo hội .

Giữa những người dân bản xứ thông minh và lanh lẹ đã mau chóng xuất hiện một nhóm người trí thức, được theo học tại các trường đại học và những “trường lớn“ nổi tiếng của Pháp.Trong giáo hội, nhiều người Phật giáo và các giáo phái lương dân khác đã trở lại đạo. Các tiểu chủng viện, các đại chủng viện và nhiều tu viện chiêm niệm đã được xây dựng .

Tuy nhiên, còn bao nhiêu công việc phải làm khi cha Seitz đến Hà Nội. Cha đến với một xứ sở an bình và thịnh vượng, một thủ đô tuyệt vời và sung túc, với rất nhiều người Pháp, trong số đó có những gia đình đã định cư từ 2 đến 3 thế hệ, và người dân bản xứ luôn niềm nở và tươi cười.

Tuy vậy, cũng có những tiếng đồn về những cuộc nổi dậy đâu đó. Nhiều kẻ gây rối từ bên ngoài đã gây ra những sách nhiễu lẻ tẻ. Những lời đồn đại về chiến tranh đe dọa Âu châu cũng vang vọng đến miền đất Á châu xa xôi này. Các nhà thừa sai luôn đi sát thời cuộc. Nhưng lòng nhiệt thành và việc tông đồ của các ngài không hề bị chi phối. Các ngài tránh làm chính trị và không theo phe nào cả. Các ngài sống hoà mình với người Việt, tuy từ Bắc vô Nam, người Việt rất khác nhau, về nguồn gốc chủng tộc, về phong tục tập quán, về tôn giáo, cũng như về ngôn ngữ rất khác biệt từ miền này sang miền khác.

Hà Nội

Dĩ nhiên, các vị thừa sai ở Hà Nội chào đón cha Seitz rất nồng nhiệt. Cha đến để bổ sung cho nhóm linh mục giáo xứ đã khá đầy đủ. Người ta đưa cha đi thăm thành phố. Cha rất ngạc nhiên về dáng vẻ Âu châu của thành phố mà cha gọi là “Paris nhỏ của Đông Dương”, với những đại lộ rợp bóng cây, cùng những biệt thự duyên dáng và những cửa hàng sang trọng hai bên đường. 

Sau khi đến đây vài ngày, cha đã viết cho cha mẹ: Có lẽ con không cần phải nói cho cha mẹ biết rằng những người Pháp đầu tiên đặt chân đến vùng đất này là những vị thừa sai. Ta thấy vết chân của các ngài ở khắp mọi nơi. Đây là đường Nhà Chung, với những cơ sở truyền giáo san sát bên nhau: Nhà quản lý, Tòa Giám mục, các trường học. Xa hơn một chút là một bệnh viện hiện đại và rộng lớn đã do một nữ tu dòng Saint Paul de Chartres thiết lập. Rồi đến Dòng kín; cô nhi viện, nơi tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi hoặc khuyết tật; trường trung học Lacordaire, Đại Chủng Viện v.v..…. Thật là một công việc kỳ diệu mà các bạn tông đồ của con đã thực hiện ! Vô vị lợi và hy sinh biết chừng nào! Con vẫn còn kinh ngạc. Có đến xem mới biết được. Ở Pháp người ta không biết đến điều này .

Nhưng ở Hà Nội có một ngoại ô nhỏ, mang sắc thái địa phương. Nhiều người Việt từ các miền quê đến cắm lều bên cạnh thành phố lớn này. Chúng con đã đi qua những khu phố đông đúc và dơ bẩn, mang những tên hoa mỹ, như khu phố “đá quý”chẳng hạn. Họ là những người nghèo khổ mà có Chúa biết, họ sống bằng cách nào. Ở đó người ta chỉ thấy sự nghèo đói và dơ bẩn: những túp lều tồi tuỵ và vô số những đứa trẻ mình trần . Nhưng cũng ở đó, bước chân vị thừa sai đã đi qua: một tháp chuông nhỏ với thánh giá vươn lên trời cao: Nơi đây có người Ki-tô hữu, là có hy vọng, niềm hy vọng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn .

Chỉ hai ngày sau khi đến Hà Nội, cha Seitz đã được mời đến gặp Đức Giám Mục, Đức cha Francois Chaize, Đại diện tông tòa. Ngài cũng thuộc hội Thừa Sai Paris, gốc giáo phận Lyon. Lúc đó ngài 55 tuổi, làm đai diện tông tòa được 2 năm,  sau khi đã làm phụ tá đại diện tông tòa 10 năm. Cha Seitz đi gặp ngài trong một cánh rừng, nơi ngài đang đi thăm viếng mục vụ. Ngài liền bổ nhiệm cha vào nhiệm sở mới ở Kẻ Sở, cách Hà Nội khoảng 60 cây số về phía Nam .

Kẻ Sở: Nhiệm sở đầu tiên  (tháng 10/1937 đến tháng 7/1938)

Kẻ Sở, một ngôi làng mộc mạc, mất hút giữa những chân núi hoang dã, nhưng lại được toàn xứ truyền giáo biết đến. Đó là trung tâm và Tòa Giám mục trong thời Bách hại. Chỉ cần một báo động nhỏ là các giám mục và linh mục có thể lần trốn vào rừng rậm. Chính tại đó mà vị đại tông đồ, Đức cha Retord, đã chết trong khổ cực. Ngài đã yên nghỉ trong nhà thờ chính tòa nguy nga, mà một trong các đấng kế vị ngài, đã xây dựng.

Kẻ Sở đã giữ lại được không những nhà thờ chính tòa mà còn các trường học giáo xứ, một trường thầy giảng, một bệnh viện và một nhà may thêu, do một nữ tu dòng Saint Paul de Chartres điều khiển, với sự cộng tác của một vài nữ tu bản xứ. Tất cả đều hy sinh phục vụ người nghèo khổ và bệnh tật. Nơi đây vị thừa sai trẻ sẽ tìm được cách thỏa mãn đam mê làm tông đồ của mình. Nhưng trước hết phải bắt đầu bằng việc học tiếng Việt đã. Và điều này không phải là dễ …Người dạy cha là một thầy giảng trẻ luôn tỏ ra rất kiên nhẫn, như những thầy giảng khác. Không hề cau mày, ông lập đi lập lại, thậm chí đến 20 hoặc 30 lần một âm bướng bỉnh, mà cổ họng của học viên phải cố bắt chước. Có quá nhiều âm sắc trong những ngôn ngữ Á Châu này. Chỉ trệch một chút hay sai cung một chút có thể diễn tả những tình cảm hoàn toàn trái ngược nhau; và làm người ta cười sặc sụa hay giận dữ. Cha Seitz đã kể cho cha mẹ cách cha học phân biệt chữ mua, thêm dấu sắc là múa; nếu đổi dấu huyền, lại là mùa. Thêm dấu móc lại là mưa. Thêm dấu hỏi là mửa. Còn chữ mu là mu rùa, thêm dấu sắc lại là mú (cá mú), đổi dấu huyền lại là mù. Đổi dấu hỏi là mủ, dấu ngã là mũ, dấu nặng là mụ (đàn bà). 

Cha còn hài hước kể cho cha mẹ: Cha mẹ có thể tưởng tượng có lần con nhờ chú bé giúp việc giặt cái mũ. Nếu đặt sai dấu con có thể nói chú ấy giặt mụ (người đàn bà) hay mú (con cá) hoặc cái mu (mu rùa) của con…Dĩ nhiên chú bé cười nhạo con khoái chí…Sau khi được giải thích, con không biết làm gì hơn là đáp trả bằng một tràng tiếng lóng đặc Paris. Con đâu làm gì sai!

Cha mẹ tin con đi: học ngôn ngữ này giống như chơi một môn thể thao đích thực, một môn thể thao đầy hấp dẫn.

Sống với người Việt như người Việt, Cha Seitz tập sử dụng đũa ngay để ăn cơm, ăn bún, ăn đậu…chỉ dùng thìa để ăn súp. Cha hút thuốc từ lâu, nhưng cha cũng bắt đầu ăn trầu .

Gớm! cha nhận định: Thật gớm! Đúng thế, thật sự con không nói ngược với cha mẹ đâu. Không ngon lành gì khi trông thấy cảnh tượng người ăn trầu! Nhưng thực sự, con đã ăn trầu! Khi đi thăm một người Việt, thì phép lịch sự tối thiểu nhất là người ấy mời ta ăn trầu. Hộp trầu luôn để sẵn trên bàn; Và phép lịch sự tối thiểu là ta phải nhận. Đó, cha mẹ biết, con là đứa con được giáo dục đến nơi đến chốn mà!

Chúng tôi không muốn mô tả cho độc giả những cung cách, cũng như những diễn biến tiếp theo. Hãy ghi nhớ nhận định cuối thôi:

Hơi cay cay, hơi say say; một cái vị… khó tả.  Thực ra, nhìn thì thấy dơ hơn là ăn! Bây giờ bạn có thể mời tôi ăn trầu: Điềm nhiên và trịnh trọng trong lời nói cũng như trong cử điệu, tôi sẽ làm như mọi người… Và mọi người sẽ cảm thấy rất tự nhiên. Tuy nhiên, không cần phải nói với các bạn rằng tôi không có hộp trầu trong nhà, tôi vẫn thích hút điếu tẩu hơn.

NB: Những ai không yếu tim có thể đọc thêm: những lần đầu, tôi đã từ chối: tôi sợ ói… Tôi thấy cái miệng đỏ quạch của người Việt và nhất là họ nhổ nước trầu cách điệu nghệ trong một ống nhổ cổ loe, mà họ chuyền tay nhau. Bỏ qua vẻ lịch lãm của một người văn minh, quá tao nhã, một ngày đẹp trời nọ, tôi đã ăn trầu. Miếng trầu là một lá trầu xanh, phết qua 1 ít vôi, quấn quanh 1/4 quả cau và người ta nhai. Sau đó người ta thêm một ít thuốc lào. Khi nhai sẽ cho ra một ít nước đỏ như máu. Tốt nhất nên nhổ đi ngay, nếu không muốn bị ói .

Để hoàn tất việc Việt Nam hóa của cha, người ta đặt cho cha một tên Việt:  cha trở thành cha Kim, từ này dễ phát âm hơn từ tiếng Pháp. Cha là ông cha, Kim là vàng, có nghiã là cha “vàng “hoặc là “cha bằng vàng”. Điều này rất hợp với cha! 

Cha Kim phấn khởi dấn thân vào việc tông đồ. Cha mua một chiếc xe đạp đề đi trên những con đường sình lầy ở châu thổ Sông Hồng, ngập nước mênh mông…Trượt, ngã, vác xe nhiều hơn là đạp xe, đến nơi, lem luốc từ đầu đến chân. Tất cả đều không quan trọng gì. Cha bắt đầu giảng dạy ngay, chỉ e rằng giáo dân không hiểu hay phá lên cười … Nhưng không! Cha đi thăm những giáo xứ lân cận, gặp lại những anh em quen biết trước kia ở Rue du Bac.  Nơi nào cha cũng được tiếp đón vui vẻ và hào hứng. Cha rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một đức tin kiên vững, một lòng can đảm mãnh liệt nơi những người dân, mặc dù họ rất thiếu thốn về vật chất. Nơi đây gia đình được neo chặt và liên kết quanh người cha và người mẹ. Nơi đây người ta cầu nguyện, đi rước và đồng thanh ca hát. Các nhà thờ đông nghẹt trong các thánh lễ ngày Chúa Nhật, bắt đầu từ 4:30 sáng và ngay cả những ngày trong tuần, nơi một vài giáo xứ.

Lợi dụng một dịp may, đáp lại lời mời của cha Fourneuve, cha Seitz đã đi thăm vùng truyền giáo cho người Mường, những dân cư trên núi. Việc này đã cho cha một chút khái niệm về môi trường sống của cha mai sau, trong một tương lai gần. 

Cha kể cho cha mẹ rằng  dưới vùng châu thổ, đồng bằng bao la, lụt lội mênh mông, thiếu vẻ xinh đẹp bao nhiêu thì ở đây núi non hùng vĩ lại có những cảnh đẹp đặc biệt bấy nhiêu. Phần lớn vùng đất này ít dân cư hơn dưới vùng châu thổ. Đây là một chuỗi những đỉnh núi hoang dã, nham nhở  kỳ lạ và được bao trùm bởi cây cối xum xuê đến tận đỉnh. Thỉnh thoảng có những sườn núi thoai thoải, một thung lũng phì nhiêu xuất hiện và thường có một ông chủ người Pháp, chiếm cứ làm đồn điền. Đó là những đồn điền cà phê mênh mông, thẳng cánh cò bay. Chúng con đã đi qua những đồn điền đó .

Người Mường sống trong những miền núi này nói một thứ tiếng Việt khác với tiếng Việt dưới đồng bằng. Họ thường là những người hiền lành nhưng lại rất mê tín. Khí hậu rất độc hại. Tính khí của họ cũng chịu ảnh hưởng .

Cha Fourneuve đã sống giữa núi đồi này hơn 20 năm trong một cộng đoàn nhỏ bé cha đã thành lập. Từ chỗ này, cha ra đi phụ trách một vùng rộng lớn gồm hơn 30 cộng đoàn tín hữu khác nữa. Cơ sở của cha trong vùng này, nơi quỷ vương ngự trị, cũng đã gặp nhiều khó khăn… Một ngày nọ, một tù trưởng ngoại giáo, sợ rằng quyền lực của mình bị suy giảm, nếu cha không sớm biến mất, nên đã tìm cách đầu độc vị thừa sai trong thức ăn. Chú bé giúp việc đã bỏ thuốc độc vào món gà mà chú bưng lên cho cha. Và để cho chắc, chú đã bỏ vào một liều thuốc độc cực mạnh. Không một chút nghi ngờ, cha Fourneuve đã xắt con gà ra và đưa một miếng vào miệng. Nhưng vì liều thuốc quá mạnh nên miếng thịt đã có vị đắng ngắt. Cha không nuốt miếng thịt, cha nhổ ra và đi súc miệng. Cha cho rằng chú bé đã làm bể mật con gà! 

Con chó của cha vào trong phòng, ngửi miếng thịt ở dưới đất, và… dễ tính hơn chủ nó, nó đã nuốt ngay miếng thịt. Vài phút sau nó chết không kịp ngáp. Qua đó cha biết được thói quen và phong tục của người Mường. Cha hiểu ngay rằng đó chính là thuốc độc, chứ không phải là mật gà bị vỡ. Cha tự nhủ chắc chắn tôi cũng sẽ chết vì tôi đã nuốt một liều thuốc độc vừa đủ trong nước miếng. Cha ở một mình trong xứ của cha, cha bạn gần nhất cũng cách xa 20 cây số, không đủ thời gian để báo tin. Và cha cảm thấy chân tay cứng đờ.

Lúc đó cha tự nghĩ, vì tôi chết cho Chúa, nên tôi muốn chết dưới chân Ngài như một con chó trung thành. Cha vào nhà nguyện, nằm dài trên bậc bàn thờ và đợi chết. Chân tay tê cứng, cha bất tỉnh, nhưng nửa đêm cha tỉnh dậy… phải chăng là trong một thế giới khác? Không! Cha vẫn nằm trên bậc bàn thờ, cha quờ quạng, duỗi chân duỗi tay ra và nhìn quanh: không có vẻ gì như ở trên trời.  Đây vẫn là dưới đất, bây giờ là ban đêm. Hơi lúng túng vì đã mất dịp bay thẳng lên trời như một vị tử đạo, cha đứng dậy, lên giường và tiếp tục giấc ngủ bình an… 

Có lẽ, để cha mẹ sẵn sàng chấp nhận mọi bất trắc có thể xảy ra cho Paul, con mình, cha Kim cũng kể cho cha mẹ biết có những kẻ thù khác ở trong vùng: đó là cọp. Cha kể: cọp lố nhố trong rừng, nhiều khi chúng rất lỳ lợm. Có một con nhảy từ tảng đá cạnh nhà xứ lên mái nhà, nhảy thêm cú nữa, nó vào trong sân, bắt con chó của cha rồi cuỗm con mồi, chạy trốn mất.

Một lần khác, cọp chụp một đứa bé trong nanh vuốt của nó, rồi phóng đi. Khi đứa bé cảm thấy mình sắp chết, nó la lên Giêsu! Maria! Cọp liền buông đứa bé ra. Đứa bé thoát nạn, với mình đầy vết xước, và vẫn còn run vì sợ.

Cha thấy có bổn phận phải bảo vệ con chiên mình chống lại loài ác thú ghê gớm kia, và, con nghĩ, chắc hẳn cha đã giết gần hai chục con cọp. 

Để trấn an người thân, cha Seitz kể rằng cha đã được tặng một cây súng săn và cha sẽ không ngần ngại sử dụng nó. Cha cũng tả về khung cảnh sống của cha và nhờ đó, chúng ta biết được nguồn gốc sứ vụ của cha. 

Kẻ Sở là một ngôi làng lớn, có hơn 5.000 dân, toàn tòng Công giáo . Kẻ Sở có một lịch sử oai hùng trong tập san Ki-tô giáo. Việc mọi cư dân đều tìm về chân lý đúng là một phần thưởng Trời ban. Điều này không ai chối cãi được. Thực ra cách đây nửa thế kỷ (khoảng cuối thế kỷ 19) tình thế không tốt đẹp như bây giờ. Đó là thời kỳ bắt đạo khủng khiếp. Các thừa sai và các tín hữu bị lùng bắt, bị giam tù và bị giết chết. Tòa Giám mục – Nếu có thể gọi là Tòa Giám mục – thực ra chỉ là những lều trại tồi tàn dùng làm nơi trú ẩn. Tòa giám mục ở trong một ngôi làng khác giữa vùng châu thổ. Vua quan muốn dứt điểm “Tà đạo” một lần cho xong, nên một ngày nọ họ đã cho bao vây dân làng. Rất may là các thừa sai và phần đông giáo dân đã có thể chạy trốn kịp thời. Lính tráng đốt hết nhà cửa, chặt phá cây cối. Sau đó tất cả dấu vết của “ngôi làng ô nhục” bị xóa hết. Ruộng vườn của người Công giáo được chia cho Lương dân và trong cả nước người ta công bố làng nào dám che giấu “những con quỷ nước ngoài” cũng sẽ cùng chung số phận. Các vị thừa sai không biết số phận sẽ ra sao và tất cả đã có thể bị bắt ngay, nếu Kẻ Sở đã không tiếp đón các ngài, mặc cho lệnh cấm của vua quan. Thực ra, ngôi làng đã dám chơi trò chơi nguy hiểm này là nhờ vào vị trí tuyệt vời của nó. Được xây dựng dưới chân những dãy núi hoang dã, nên chỉ cần vượt qua một con sông là có thể tìm ngay được một nơi trú ẩn an toàn. Giáo dân canh gác cẩn mật. Ngay khi báo động, các thừa sai liền trốn mất dạng. Và các quan lùng sục chỉ tốn công vô ích! Trong nhiều năm, giáo dân trong làng, nhờ Chúa Quan Phòng rõ rệt, đã góp phần cứu nguy việc truyền giáo. Sau cuộc chinh phục của người Pháp, khi tình hình yên tĩnh trở lại, Đức Cha đã đặt Tòa Giám mục ở đây. Lúc đó những lương dân còn lại trong vùng cũng xin tòng giáo. Từ đó Kẻ Sở luôn là một trung tâm rất sùng đạo.

Nhưng còn có rất nhiều cuộc trở lại đạo cần đạt được trong vùng này và cha Seitz đang cố gắng thăm dò. Cùng với hai cha khác, cha đi thăm một ngôi chùa nằm sâu trong một hang động tự nhiên rộng lớn, giữa một khung cảnh tuyệt vời. Phải leo 100 bậc để lên tới nơi. Một vị sư trẻ, mà cha gọi là “một sư con dễ mến” cầm đuốc dẫn các cha xuống một hang sâu dưới đất. Nơi đây có nhiều tượng thần to lớn, khuôn mặt dễ sợ, có những tượng Phật to bụng, những bàn thờ, khói hương nghi ngút và những đèn chầu nhấp nháy. Cha ngạc nhiên về việc tiếp đón kính cẩn của các nhà sư và các chú tiểu.  Nhưng cha kinh ngạc về dáng vẻ khép kín của những khuôn mặt tối sầm, của những con mắt sợ sệt, phản ánh một tâm tư mờ ám mà người ta chỉ nhìn thấy nơi những người ngoại giáo tôn thờ các ngẫu tượng. Sau này các cha đi với cha kể lại cho cha như vậy. Điều kỳ diệu là các cha cũng nói với cha là chỉ cần ơn Thanh tẩy để xóa hết sạch những tâm tư này. Trong cộng đoàn Kẻ Sở cũng có một ông giúp việc già, rất đạo đức, đã từng là nhà sư hơn 30 năm…Đôi mắt ông rất trong sáng và nét mặt ông hoàn toàn bình thản. 

Chúng ta đang ở vào năm 1938, càng lúc càng có nhiều tin đồn râm ran về chiến tranh ở Âu Châu, nhưng cũng có liên hệ đến vùng Viễn Đông. Người Pháp sống trong tình trạng báo động. Người Nhật muốn tấn công Trung Quốc. Liệu họ có tính xâm chiếm Việt Nam không? Có lẽ người Việt thích người Nhật hơn người Tàu. Người Việt đã sống dưới ách nô lệ của người Tàu nhiều thế kỷ. Họ nhận ra rằng người Pháp đã đem đến cho họ một sự tự do cao quý và một sự phát triển chưa từng có. Vì vậy, chưa chắc họ sẽ vui vẻ đón tiếp người Nhật, mặc dầu hai nước rất gần nhau, xét theo khía cạnh chủng tộc. Nhất là vì người Nhật vừa xâm chiếm Triều Tiên cách trái phép và tàn bạo.

Những hiểm nguy sắp tới này không ngăn cản các thừa sai tiếp tục hoạt động. Trong các tháng hè cha Seitz đã tổ chức trại hè bãi biển tại Ba Làng. Sau đó cha đi Huế. Từ Huế, cha leo núi, ở độ cao 1300 mét, làm tuyên úy cho trại huấn luyện hướng đạo. Điều này rất hợp với cha. Cha len lỏi vào rừng rậm, khám phá rừng nguyên sinh. Rắn rết, gai nhọn, dây leo chằng chịt, những cây cổ thụ, những trận mưa lũ, những thung lũng, những ghềnh thác cao đến 300 m. Không gì có thể ngăn cản bước chân cha. Cha thích huấn luyện hướng đạo, đơn sơ giảng dạy những người chưa tin, giúp chuẩn bị lãnh phép rửa tội hoặc chuẩn bị tuyên hứa hướng đạo.

 Huế nằm ở phía Nam Hà Nội, cách xa từ 10 đến 15 giờ xe lửa, tuỳ theo ý muốn của người lái tàu. Huế là kinh đô và là nơi cư ngụ của hoàng đế Bảo Đại, xứ An Nam. Cha Seitz lợi dụng dịp ở Huế, để đi thăm thành phố và các cung điện nguy nga, sang trọng trước khi đi xe lửa về Mẫu Sơn (Lạng Sơn), nơi cha sẽ nghỉ ngơi 4 tuần lễ.

Cổ Liêu: nhiệm sở thứ hai 
(từ tháng 9/1938 đến tháng giêng 1939)

Vừa về đến Hà Nội, Cha Seitz đã được đại diện tông tòa vời đến và trao cho một nhiệm sở mới: Cổ Liêu, nằm giữa đường từ Kẻ Sở đi Hà Nội. Cha đã học cấp tốc, cả ngôn ngữ lẫn việc truyền giáo trong môi trường Việt Nam, và bây giờ cha phải một mình, đảm trách một giáo xứ riêng biệt. Một chiều tháng 9 năm 1938, cha đạp xe trên một con đê mờ mịt, gập ghềnh, chật hẹp, sình lầy. Đứng trên đê chỉ thấy những cánh đồng lúa bạt ngàn.

Giữa lũy tre xanh nhô lên một tháp chuông giáo đường. Chuông đổ liên hồi khi cha một mình bước vào nhà thờ. Một thầy giảng đã đến báo tin hôm trước, nhưng giáo dân chỉ tụ tập vào ngày chúa nhật hôm sau. Trước tiên họ tham dự thánh lễ, rồi buổi chiều từng đoàn thể lũ lượt đến gặp cha: các trùm trưởng, giới trẻ, giới các bà … mỗi nhóm đều mang theo một mâm đầy trái cây và trầu. Cha trịnh trọng mời mọi người ngồi. Người mang lễ vật nói lời chúc mừng. Cha lắng tai nghe và đáp lại bằng đôi lời cảm ơn chân thành. Sau đó mỗi người ăn một miếng trầu, người ta nói chuyện rôm rả, rồi đi ra, nhường chỗ cho đoàn thể khác và nghi thức thân thương lại bắt đầu lại. 

Nhưng cha tự hỏi phải làm gì với những trái cây họ biếu kia? A ! đơn giản thôi! Bọn trẻ biết rõ nghi thức này. Chúng tụ hop trong sân, ngồi xổm, chờ đợi thưởng thức những của ngon vật lạ mà cha mẹ chúng đã đem đến .

Mặc dù không phải là cha xứ chính thức, vị thừa sai trẻ vẫn thi hành nhiệm vụ, dưới sự giám sát yêu thương của một linh mục Việt Nam ở làng bên. Cha này được khuyến cáo dành tự do rộng rãi cho cha phó (cha Seitz), để cha phó tập bay bằng chính đôi cánh của mình, chỉ can thiệp trong những tình huống khó khăn. Cha Seitz đã giữ lại ông thầy giảng quý báu của cha. Ông này tiếp tục giúp cha học tiếng, điều này không thừa. Thời khóa biểu hằng ngày được sắp xếp ngay và kín mít từ 5 giờ sáng đến 21 giờ 30.

Đúng 5 giờ sáng chuông báo thức dậy, không những cho vị thừa sai mà còn cho cả cộng đoàn giáo xứ trong làng, khoảng 600 người. Mùa này trời vẫn còn tối. Trong những ngôi nhà tranh vách đất, họ duỗi tay duỗi chân trên những giường gỗ cứng. Họ thay quần áo và vệ sinh cá nhân vội vã, vì người Việt mặc nguyên quần áo khi ngủ và họ chỉ tắm những ngày trọng đại hoặc khi cảm thấy thực sự dơ bẩn. 

Mười lăm phút sau, những giáo dân đầu tiên đã đến nhà thờ. Chuông Truyền Tin vang lên. Người đứng đầu giáo xứ là ông trùm. Viên chức này vừa làm ông từ vừa dậy giáo lý. Ông bắt đầu đọc kinh và mọi người lớn giọng đọc theo, vì kinh nguyện chung nào cũng đọc lớn tiếng. Cha nhận thấy rằng, đối với trẻ em, đọc kinh to chính là dấu hiệu đạo đức rõ ràng nhất. Cha cũng cảm phục rằng đây không phải là buổi cầu nguyện ngắn cho những giáo dân nguội lạnh hay vội vã việc đời: người ta đọc kinh 45 phút vừa đọc kinh cầu vừa lần hạt đủ 50 kinh. 

Sau đó là thánh lễ. Một nhóm thiếu nữ dõi theo những cử điệu của linh mục và đối đáp, ca hát, xướng và đọc những kinh diễn giải (ND: thời đó thánh lễ còn bằng tiếng la tinh) lôi kéo cả cộng đoàn tín hữu. Cha ghi nhận lễ ngày thường có ít nhất từ 100 đến 150 người tham dự và hầu hết toàn bộ các trẻ em đều có mặt. Sau khi thánh lễ kết thúc, còn có đọc kinh cám ơn rước lễ cho những người đã rước lễ. Ít nhất có từ 50 đến 60 người. 

Cuối cùng giáo dân ra về, nhưng vẫn còn một số ông bà già tiếp tục đi đàng thánh giá hoặc cầu nguyện riêng.

Vị thừa sai tự nghĩ nếu có bắt đạo như ngày xưa, chắc chắn những người này sẽ là những vị tử đạo hiển vinh như bao nhiêu những vị tử đạo khi xưa. Cha tiếp tục chương trình trong ngày:

Mười hai giờ trưa: chuông truyền tin, không phải chỉ để báo: Này, trưa rồi- như thường xảy ra ở quê ta –  nhưng còn là để mời cầu nguyện. Ở trong làng, người ta quỳ gối và đọc kinh. Tuyệt nhiên không có vấn đề sợ dư luận. Vì căn bệnh này là của riêng người Âu châu, bên Đông Phương người ta không sợ dư luận.

17 giờ, chuông nhà thờ lại vang lên. Đây là buổi cầu nguyện đặc biệt của trẻ em. Nhà thờ vang vọng lời kinh sốt sắng và rung cảm.

19:30 trời tối. Khi nghe tiếng trống, giáo dân lại được mời đến nhà thờ để đọc Kinh Tối. Buổi cầu nguyện kết thúc lúc 20:15. Chuông lại vang lên báo hiệu giờ tắt đèn và mỗi người trở về nhà tranh của mình, tâm hồn an bình. 

Cha đã nhầm tính: chỉ trong vòng hơn 3 tháng, cha đã ban phát hơn 7000 Mình Thánh cho 600 giáo dân của cha. Đức tin của họ thật đơn sơ nhưng chân thành. Cha cũng thường đem Mình Thánh cho bệnh nhân. Nghi thức rất sốt sắng như trong sách luật.

Ông trùm đợi cha ở cửa nhà thờ, che lọng cho cha. Hai cậu giúp lễ, mặc áo đỏ, cầm nến sáng đi trước. Một người đánh trống đi trước, cách vài bước để dọn đường. Sau đó là một đám đông giáo dân đi theo và đọc kinh. Tại nhà bệnh nhân, tất cả được chuẩn bị chi tiết và chu đáo. Giáo dân vào nhà và quy tụ cả ở bên ngoài. Mọi người quỳ gối cầu nguyện và đoc kinh tạ ơn cùng với người bệnh. 

Những buổi rước lễ của các bệnh nhân thật rất cảm động – thường là những người hấp hối nghèo khổ, được rước Chúa vào lúc rạng đông trong những ngôi nhà nghèo khó và trống trải.

Nhưng Cổ Liêu chỉ là nhiệm sở trung chuyển. Ngày 18 tháng Giêng năm 1939 cha Seitz tham dự buổi tĩnh tâm chung tại Hà Nội do cha Valensin, Dòng Tên, thuyết giảng. Cha rất quan tâm buổi tĩnh tâm này và cha ghi chú cẩn thận: Cuộc tĩnh tâm nhấn mạnh đến bổn phận của linh mục, đặc biệt là việc dâng thánh lễ, đến các bí tích, nhất là bí tích hòa giải mà linh mục phải thực hiện, mặc cho những hạn hẹp về ngôn ngữ địa phương, đồng thời cũng cần nghĩ đến những sa ngã có thể xảy ra cho chính mình, đến ơn gọi thừa sai và nguyên do mình phục vụ: đó chính là Đức Ki-tô. Cuối cùng là thực hành sự hiện diện của Thiên Chúa, hiện diện đích thực và hữu hình, và về những thành quả của việc thực hành này trên chính chúng ta và trên các linh hồn.

Chính sau khi kết thúc cuộc tỉnh tâm này, ngày 25 tháng giêng năm 1939, mà cha Seitz đã được vị đại diện tông tòa, đức cha Chaize bổ nhiệm làm cha phó nhà thờ chính tòa Hà Nội. 

 Phó xứ nhà thờ chánh tòa Hà Nội
(Tháng Giêng 1939)

Hà Nội không còn phải là một giáo phận xa lạ đối với cha Seitz. Cha đã đi đi về về trong nhiều chuyến công tác và tất cả các thừa sai đều quen biết nhau. Cha xứ nhà thờ chính tòa, cha Villebonnet, cũng thường đi công tác. Thỉnh thoảng cũng có các cha, từ nhiều bộ phận công tác của các giáo phận lân cận, đến giúp ngài.

Không ai ngạc nhiên về việc cha Seitz được bố nhiệm ngay vào việc phụ trách giới trẻ, các hướng đạo sinh và đặc biệt là đào tạo các trưởng cũng như thiếu niên Công giáo tiến hành. Cha vui vẻ dấn thân vào công việc và được mọi người yêu mến. Vẻ hào hứng, nụ cười tươi, cũng như tính kiên quyết của cha đã làm mọi người khâm phục. Chưa kể bao nhiêu ý tưởng mà cha đưa ra trong mọi lãnh vực. 

Ba Vì

Trại hè tháng 7 năm 1939 sẽ là một hoạt động đặc biệt. Ba Vì sẽ là khởi đầu của việc đào tạo nổi bật dành cho giới trẻ. Nguyên tắc hành động đầu tiên của cha là phải bắt đầu vào việc ngay, không cần đợi đến lúc thời gian thuận tiện hơn hay chắc chắn hơn.

Thực ra, tôi đã hiểu rằng mọi cuộc sống sẽ nên vô ích, mọi hành động sẽ cứng nhắc trong chính nguyên tắc của nó, nếu, trước khi bắt đầu hành động, người ta muốn có trong tay mọi cơ may đề thành công. Để thắng đôi khi phải biết thua và… thường là phải biết liều. Phải chăng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như vậy trong Tin mừng khi ngài nói:“ Ai liều mất mạng sống thì sẽ giữ lại được”. Đây chính là sự liều lĩnh can trường của Đức Tin.

Nhớ về khung cảnh Ba Vì, nơi diễn ra trại hè hướng đạo vừa qua, cha như thấy trước việc phải tìm ra, trên những dãy núi cao hùng vĩ và hoang dã này, một nơi có thể dựng một vài căn chòi bằng gỗ, bằng tre, bằng lá để tiện việc cắm trại. Và thậm chí cũng có thể để trở thành trung tâm đào tạo và giáo dục các trưởng Công giáo tiến hành và thiếu nhi.

Cha trình bày dự án này với giám mục. Ngài tán thành nhưng rất thận trọng; Ngài bảo cha là đừng để việc đó ảnh hưởng đến bổn phận phó xứ của cha hay tốn kém ngân quỹ của giáo phận. Rồi Ngài để cho cha tự quyết định.

Và cha đã quyết định! Lợi dụng dịp may có được, cha mua một chiếc xe Simca cũ mà một cha thừa sai, sắp đi xa, để lại cho cha với giá hữu nghị là 8000 quan, trong khi có những người khác trả 15.000 quan. Cha Seitz chỉ có vỏn vẹn 1000 quan trong túi. Cha sở đồng ý trả 4.000 quan – với điều kiện ngài có thể sử dụng khi cần, tuy điều khoản này chẳng bao giờ được áp dụng. Cha đề nghị cha quản lý giáo phận ứng cho cha 3000 quan cha còn thiếu, dưới dạng thế chấp, với hy vọng cha sẽ không bao giờ bị đòi. Vậy là việc mua xe kể như xong.

Cha thở phào sung sướng: và thế là làm sao từ cuối năm 1939, tôi đã có phương tiện làm việc. Nhờ vậy, tôi có thể tiến hành công trình ở Ba Vì. Sau này cha nhận định: từ đó rất nhiều xe đã qua tay tôi và tôi đã lái hàng chục ngàn cây số. 

Chân dãy Ba Vì chỉ cách Hà Nội 63 cây số. Đi trong chốc lát là đến. Nhưng sau đó, khó khăn bắt đầu. Trong dịp trại Giáng sinh, cùng với bốn tráng sinh, cha đã khảo sát khu rừng chằng chịt, đã leo những dốc thẳng đứng, đã đi tới một điạ điểm khó vào như tổ đại bàng, nhưng cao và bằng phẳng. Dừng lại đó, leo lên một ngọn cây, cha phát hiện rõ ràng một bình nguyên bao la nằm 800m phía dưới. 

Đó! đó chính là nơi, từ trước ngàn đời, Thiên Chúa đã chuẩn bị để thành lập nơi cắm trại cho giới trẻ Đông Dương và để huấn luyện họ thành những người trưởng và nhất là thành những Ki-tô hữu. 

Dãy núi này thuộc quyền sở hữu của chính phủ toàn quyền Đông Dương. Rừng ở đây là rừng cấm, có nghĩa là không được chặt bất cứ một cây nào. “Không sao sốt”. Mua, khai phá rồi xây dựng – dĩ nhiên chẳng có xu teng nào – : vẫn “không sao sốt!” Thủ tục giấy tờ rất rắc rối, còn mệt hơn leo núi. Vị thừa sai can trường vượt trên mọi quy luật, đi gõ các cửa. Cha hỏi ý kiến người quản lý khu đất có núi Ba Vì.  Ông này ghé tai cha nói nhỏ:” Mặc kệ các ông công chức bàn giấy ở Hà Nội, cha cứ chặt cây, chặt cây và thực hiện kế hoạch của cha đi, họ không thấy những gì xảy ra ở trên đó đâu. Sắp về hưu, ông này không mấy quan tâm đến vấn đề, ông cũng chẳng để ý đến những phiền toái mà cha có thể gặp. Thấy lời khuyên hợp ý mình, và chẳng dám đòi giấy phép, cha tiến hành luôn. Cha tìm được một người Pháp cho cha mượn nhân công để mở đường, cắt dây leo, hạ cây cổ thụ để dùng vào việc xây dựng. Cha bắt tay ngay vào việc: dùng dao phát, cha hăng say khai phá, lôi cuốn người của cha làm theo. Trong vòng vài tháng một diện tích 2 mẫu tây đã được khai hoang, làm thành nơi đóng trại lý tưởng. Một chu vi có chiều dài gần 2000 mét được phác họa. Thật tuyệt diệu! 

Trước tiên, cha đặt tượng Đức Mẹ mà cha đã cõng từ dưới lên- như ngày xưa cha đã từng làm trong rừng Meudon. Cha đặt trên một bệ cao và tuyên phong Đức Mẹ Ba Vì. Cha dâng lễ trước tượng Đức Mẹ. Trại hè lớn gặt hái nhiều thành công. Trại sinh rất phấn khởi. Một bài báo của cha đã tường thuật cuộc trại này. 

Thật là một sự bất cẩn ghê gớm! Bài báo này đã lôi kéo sự chú ý của nhà cầm quyền và một buổi sáng nọ, chính lúc, ba lô trên vai, cha chuẩn bị rời trại thì một người khách lạ đến thăm.

Cha thuật lại: Hết sức ngạc nhiên, tôi thân mật chào anh ta:“Chào anh, ngọn gió lành nào dẫn anh tới đây?” Lúc đó tôi thấy rằng người thanh niên, khá vạm vỡ, ướt đẫm mồ hôi và gần như đứt hơi này, có vẻ bối rối. Tôi mời anh ta ngồi trên một khúc cây. Sau khi lấy lại hơi, anh ta nói với tôi:’Tôi là nhân viên kiểm lâm, đội trưởng tôi sai tôi đến để điều tra về Ba Vì. Cha đã viết một bài báo trên tờ “Tương lai xứ Bắc Kỳ”, thuật lại việc lập một trại hướng đạo trong khu rừng cấm Ba Vì, cha còn nói đến 2 hec ta rừng được khai phá. Mà cha không phải là chủ đất và vụ việc của cha được qui định theo rất nhiều khoản của bộ luật dân sự. Cha bị truy tố về tội phá rừng bất hợp pháp. Tôi đến để xem khu rừng công cộng này thiệt hại đến mức nào”.

Sau những lời dài dòng đó, anh ta đứng dậy, liếc nhìn quanh “chiến trường” bằng đôi mắt nhà nghề. Thực thế, có hàng trăm mét khối gỗ đã bị hạ…một sự tàn phá đúng nghĩa! Tôi không thể nào chối tội. Thật tình, tôi cũng chẳng nghĩ tới. Thay vì đó, tôi thích đương đầu hơn. 

Tôi nhớ đến người quản lý khu đất và lời cho phép của ông ta. Tôi đã bị lừa. Kệ! Đó là một bài học, lần sau tôi sẽ đòi giấy phép. Lúc này hãy cố thoát rắc rối đã. 

Tôi nói với anh ta:”Nhưng làm sao các anh muốn tôi có thể trình dự án cho chính quyền, nếu tôi không khai phá khu rừng này? Anh thử nghĩ coi! Tôi không có lỗi, nhưng là luật lệ của các anh… hoặc là cách áp dụng luật của các anh!  Đàng khác, công trình chúng tôi thực hiện có tính cách ích lợi chung. Vị công sứ toàn quyền và công sứ Sơn Tây đã biết rõ điều đó và đã cho rằng, trên nguyên tắc, tôi được quyền hỏi mua. Tôi đã có thể làm giấy chủ quyền, bắt đầu khai phá và thậm chí có thể cắm trại. Tại sao, từ đó, kiếm chuyện và áp dụng tùy tiện luật kiểm lâm với tôi?” 

Người điều tra tôi, thực lòng, là một người tử tế. Việc anh ta phải đi điều tra là một việc quá vất vả. Anh ta vẫn còn tháo mồ hôi! Nhưng anh ta cũng tìm được cách phản pháo:“Cha có lý đấy. Đó là một thanh tra cấp dưới, vừa mới được thăng chức, nên muốn tỏ ra năng nổ. Riêng tôi, tôi không thể làm khác được. Nhưng dù sao đi nữa, cha hãy tin tôi, tôi sẽ báo cáo nhẹ nhất có thể”.

Cuối cùng, sau nhiều vận động và can thiệp về phương diện hành chánh, vụ việc được giải quyết ổn thỏa: khu đất 8 hecta 89 được bán với giá, theo nguyên tắc, là…10 quan. Nhưng chi phí đăng ký lại gấp… 12 lần: 120 quan… Đức Mẹ Ba Vì đã khéo chăm lo cho lãnh địa, đã được cung hiến cho Ngài. 

Trở về Hà Nội, cha Seitz phải bán chiếc xe Simca đi: cha bán được gấp đôi giá mà người chủ trước đã nhượng cho cha và như thế cha có thể trả hết nợ nần cho những công việc của cha. Sau đó, tâm hồn bình thản, cha trở lại với những sinh hoạt của nhà thờ chính tòa: giáo lý, hướng đạo sinh, thanh sinh công, các lễ sinh, giảng dạy và giải tội …Ba Vì được gác sang một bên. 

NB:Trong khi đang viết những dòng này (2013), chúng tôi được biết qua internet: Cao Nguyên trên đỉnh núi Ba Vì này chưa hề có ai đặt chân đến, trước khi cha Seitz mở lối băng rừng. Nhưng ngày nay, được quy hoạch thành một công viên giải trí tuyệt đẹp dành cho những du khách giàu có. 

Cuộc xâm lăng của Nhật Bản
(Tháng chín năm 1940)

Từ lâu đã có nhiều “biến cố” bên Trung Quốc. Không tuyên chiến với Trung Quốc, nhưng, xảo trá và khéo léo cách tàn bạo, Nhật Bản đã lợi dụng sự suy yếu của quốc gia lân bang rộng lớn này do Pháp gây nên, để hình thành cái mà họ gọi cách hoa mỹ là “Vòng đai thịnh vượng chung”. Theo nghĩa là khẳng định quyền bá chủ của Nhật Bản trên tất cả các dân da vàng, trong khi chờ đợi họ thực hiện sứ mạng của “Thiên Tử” là bá chủ toàn thế giới. 

Được trang bị hùng hậu, quân đội Nhật đã đốt phá và chém giết nhiều người ở Trung Quốc. Có thể nói, người Nhật cũng giống người Đức thời Hitler; họ mang một đầu óc cuồng tín tập thể, sâu đậm và mãnh liệt. Niềm tin của họ mãnh liệt đến độ họ có thể liều lĩnh mọi thứ, hy sinh mọi thứ và làm mọi điều điên dại. 

Tháng 9 năm 1940. Người ta lo lắng theo dõi bước chân chiến thắng của quân đội Nhật. Hải quân của họ lượn lờ sát bờ biển; Bộ binh dồn về biên giới. Nhiều vụ xung đột xảy ra. Một vài đồn bót bị tấn công và dĩ nhiên, người ta không hề tuyên chiến. Làm gì bây giờ đây? … Nước Pháp hùng mạnh vừa sụp đổ trước những đợt tấn công của quân Đức. Quân đội Đông Dương không sẵn sàng đánh trả. Sẽ không có sự trợ giúp nào từ bên ngoài. 

Thình lình, ngày 23 tháng 9, người ta được biết đông đảo quân đội Nhật đã tràn vào Đông Dương. Lính Pháp chiến đấu, thành phố Lạng Sơn bị bao vây, tấn công và bị chiếm đóng. Quân đội rút lui. Lệnh của bộ chỉ huy thì chần chừ, trái nghịch và khó hiểu. Nước Pháp ở mãi xa. Từ Lạng Sơn về Hà Nội chỉ cách 130 cây số. Thủ đô hốt hoảng; trên trời máy bay gầm réo. Mọi người hốt hoảng, dân chúng đổ xô lên xe lửa, xe cộ tắc nghẽn mọi ngã đường. Tất cả trốn chạy về hướng Nam. Sự kiện này lập lại y chang như tại chính quốc cách đây 3 tháng. 

Trong giáo xứ hoang vắng của cha, cha Seitz không muốn khoanh tay đứng nhìn. Cha không có thể phục vụ như tuyên uý quân đội sao? Người ta giết nhau ngoài mặt trận và không có linh mục.  Đức Cha Chaize và cha Villebonnet, cha sở của cha, đều đồng ý. Ngày 25, được gợi ý, tướng Cazin, chỉ huy trưởng sư đoàn Bắc Kỳ, đã bổ nhiệm cha ngay, phái cha đến trung đoàn 9 bộ binh thuộc địa. Và ngay sau đó, ông ta giao cho cha một chiếc xe rất mạnh, đế cha sử dụng. Ngay buổi chiều, cha đã đến Đồng Mô, cách Lạng Sơn 30 cây số, nơi binh sĩ lui quân để lập phòng tuyến kháng cự. Nếu phòng tuyến này vỡ thì Hà Nội và cả Bắc Kỳ cũng sẽ thất thủ. 

Cha kể lại: Khi tôi đến bộ chỉ huy của đại tá Cadoudal, chỉ huy trưởng trung đoàn 5 Lê Dương, tôi gặp một vài sĩ quan, khuôn mặt căng thẳng, nhưng vẫn hiện rõ ý chí quyết thắng. Tôi trình giấy bổ nhiệm tuyên úy. Tôi cảm thấy rằng viên đại tá sung sướng vì có một tuyên úy hiện diện. Ông ta nói với tôi: cha sẽ không thiếu việc. Sau đó ông ta mời tôi cùng ăn một bữa cơm thanh đạm. Ông ta không giấu tôi sự lo lắng của ông ta: Quân Nhật đóng rất gần đây, chỉ cách 3 đến 4 cây số là cùng. Rất có thể họ sẽ tấn công chúng ta đêm nay. Khoảng 21 giờ lính Lê Dương đã đánh sập cầu xe lửa, cách bộ chỉ huy vài trăm mét. Người ta rỉ tai nhau những tin đồn ác độc, đặc biệt là sự hung dữ của quân Nhật. Chúng không tha chết cho bất cứ người Âu châu nào. 

Nhưng binh lính ở đây nhận được lệnh – dĩ nhiên một thứ lệnh khó hiểu và trái nghịch – là phải chặn đứng áp lực của lính Nhật, nhưng lại không được nổ súng!

Hôm sau người ta thấy một đoàn người, thoát nạn từ Lạng Sơn, lũ lượt kéo về. Pháp có, Việt có. Tất cả đều mô tả quân Nhật thật là khủng khiếp và người ta đang đợi một cuộc tấn công. Địa thế rất lý tưởng cho một cuộc chiến bất ngờ và đánh du kich. Thật vậy, chiến thuật của quân Nhật là không bao giờ đánh trực diện, nhưng vòng qua những vị trí đóng quân để tạo thế bất ngờ; Họ khéo léo dựa vào địa hình. Những đồn biên giới ở Lạng Sơn đã bị chiếm đóng theo cách đó.

Thật ngạc nhiên, ngày 27 tháng 9 những toán tuần tiễu đi trước nhận ra rằng lính Nhật đã rút lui: chúng bày ra chiến thuật gì mới vậy?..Nhưng đến chiều, một chiếc xe hơi từ Hà Nội đến, chở theo 2 đại diện toàn quyền, thông báo rằng từ hôm qua Tokyo đã ra lệnh cho binh lính ngưng chiến đấu.

Chuyện gì đã xảy ra?..Mãi sau, người ta mới biết rõ sự thật, nhờ một tài liệu do tướng Martin, tổng chỉ huy lực lượng Đông Dương đưa ra : 

Ngày 30 tháng 8 năm 1940 Chính phủ Pháp, trong tinh thần hòa giải và thực tế, đã ký với Nhật một hiệp ước, thỏa thuận cho cường quốc này một ít dễ dãi để tiếp tục hoạt động tại miền Nam Trung Quốc. Đổi lại, Nhật chính thức cam kết tôn trọng sự toàn vẹn của liên bang Đông Dương và chủ quyền của Pháp tại Đông Dương. 

Không đánh nhau nữa nhưng tất cả vùng biên giới phía Bắc đều xáo trộn.

Cha Seitz ghi nhận: Cướp bóc khắp nơi. Ở Lạng Sơn, nơi quân Nhật chiếm đóng, một cuộc bạo loạn của Cộng sản (do Nhật bí mật hỗ trợ) đã bùng lên. Rất may, cuộc bạo loạn chỉ giới hạn trong khu vực.

Lúc này binh lính Pháp ở yên tại chỗ. Tôi cũng vậy. Từng đoàn quân đông đúc đã vượt biên giới và Nhật đã nhẹ nhàng đặt chân lên Đông Dương. Chúng tôi thấy liên tục những xe nhà binh, chất đầy những người lính, hôm qua còn là kẻ thù, hôm nay đã nối đuôi nhau, diễn hành trên phố. Chẳng ai ảo tưởng về hiệp ước đã ký. Đó chỉ là thỏa thuận, là sự hợp tác bó buộc. Có thể vẽ nên một sự song song với những biến cố ở bên Pháp, nhưng với chúng tôi, thì có sự khác biệt rõ rệt và thuận lợi này, là người Nhật vào Đông Dương nhưng không đi đến chiến thắng toàn bộ. Cơ quan tuyên truyền của Pháp coi nhẹ sự cố tại Lạng Sơn. Vì họ nghĩ rằng điều quan trọng nhất là làm sao kéo dài thời gian.

Dù sao thì chúng ta cũng bị mất mặt. Uy tín của chúng ta đã bị suy giảm. Người Việt không lầm, họ cho rằng nếu người Pháp đã phải ký hiệp ước, chính là vì họ không phải là những người mạnh nhất. 

Các vị thừa sai trước kia đã nhập ngũ trong quân đội, giờ được trả lại tự do và trở về nhiệm sở cũ. Một phòng tuyên úy quân đội chính thức được thành lập. Cha Seitz nghĩ rằng bây giờ mình có thể trở về giáo xứ Hà Nội của mình và ngày 8 tháng 10, cha kết thúc thời gian mà cha gọi là “chiến dịch chiến đấu thứ hai” của cha. Cha sáng suốt phân tích tình hình.

Người Nhật hiện diện khắp nơi. Tại Hà Nội họ cài người vào tất cả các khu phố. Nhiều ngôi nhà lớn bị quân Nhật chiếm đóng. Họ thiết lập nhiều đồn bót bên cạnh những dịch vụ thiết yếu như điện, nước… Trong thành phố, những cuộc xung đột gia tăng. Lính Pháp, sau khi nhậu xỉn, thường kiếm chuyện với lính Nhật; đôi khi còn cả với sĩ quan. Những người dân thường, không nắm rõ tình hình, cũng hay càu nhàu và tỏ ra xấc xược. Nhưng đánh một người Nhật đồng nghĩa với việc xúc phạm cá nhân Thiên Hoàng, là một việc gây chiến. Phản ứng của người Nhật thường tàn bạo và quyết đoán. Đã có những người bị thiệt mạng. Phải mất nhiều tuần lễ tình hình sôi động này mới dịu đi. Những người biết điều tìm mọi cách để duy trì an bình trong danh dự. 

Lúc đó chính đô đốc Decoux nắm trong tay vận mạng Đông Dương. 

Một tình huống rất khó xử đặt ra cho đô đốc, ngay khi thảm họa xảy đến cho nước Pháp: ông nên theo phe De Gaulle hay phe Pétain? Tôi biết ông đã tự đặt câu hỏi cho mình. Đô đốc là một người có phẩm giá, người của bổn phận. Tôi đã tiếp cận với ông ta nhiều lần trong những năm gần đây. Ông ta đã chọn con đường mà ông cho là bổn phận và danh dự: Ông vẫn trung thành với chính quyền của Pétain, chính  quyền duy nhất mà ông cho là hợp pháp. 

Cha Seitz nói tiếp: nhưng rồi, xét theo lý, ai  dám trách cứ ông ta. Nếu tháng 6 năm 1940 ông ta theo De Gaulle, thì, tức khắc, Đông Dương đã trở thành kẻ thù của Nhật. Và làm sao để có thể chống lại cường quốc lân bang này? Ông ta chỉ có thể đẩy xứ thuộc địa vào chiến tranh và thất bại chắc chắn. Sau những biến cố ở Lạng Sơn, nơi chủ quyền của Pháp chỉ được duy trì trong tấc gang, không cần gì phải bàn cãi thêm nữa.

Tất cả chính sách của đô đốc là nhằm duy trì cuộc sống ở Đông Dương và tránh né những đòn công kích mà chủ nghĩa đế quốc đắc thắng của Nhật liên tục đưa ra, đồng thời cũng để xác nhận và duy trì những quyền lợi và quyền lực của Pháp tại xứ này. Thật là một phép lạ là ông đã thành công cho đến mãi năm 1945 và điều này chỉ mất đi, khi chính người Pháp đã hoàn thành việc ngầm phá hoại quyền lực của đô đốc. Thật là một điều đáng tiếc.

40.000 người Pháp ở Đông Dương còn sống là nhờ ông ta. Nước Pháp nợ ông ta việc đã cứu xứ thuộc địa khỏi thảm họa trong suốt 5 năm. Người dân Đông Dương nợ ông ta việc đã tránh khỏi chiến tranh ghê gớm cho đến giây phút cuối cùng. 

Đô đốc Decoux thuộc dòng họ những người như Gallieni và Lyautey! Nhờ vào sự khôn khéo của chính quyền Đông Dương mà một thỏa hiệp đã được dàn xếp, những xung đột ít xảy ra, đời sống kinh tế và xã hội gần như trở lại bình thường. Đông Dương có thể sống tự lập về kinh tế trong một thời gian: người ta chưa thấy thiếu thốn gì.

Sinh hoạt giáo xứ cũng trở lại bình thường: trường học, giáo lý, hội họp thanh sinh công, dã ngoại và cắm trại hướng đạo với những nhóm Pháp và Việt, tuyên úy nhà tù và nhiều thứ khác.:

Thời khóa biểu của tôi kín mít, nhưng tôi đã rất quen với việc này. Tôi say mê làm việc. Tôi tận lực làm việc. Với tôi, đây chính là nguồn mạch của một niềm vui rõ rệt và sâu đậm không bao giờ xa rời tôi. Không, tôi chẳng có gì cho Chúa: Chính Ngài đã đổ đầy lòng tôi và tôi chỉ còn biết tạ ơn Ngài đã tuyển chọn tôi.

Tôi thành thật thú nhận rằng tôi làm việc không biết mệt. Tôi đã hoàn toàn thoát khỏi mọi lo lắng về sức khỏe ngay từ lần tĩnh tâm linh mục đầu tiên ở Đông Dương năm 1938: Tôi hoàn toàn phó thác cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đàng khác, tôi có quá nhiều việc phải làm. Xin Ngài rủ lòng chăm sóc sức khỏe của tôi và điều mà Thiên Chúa gìn giữ thì Ngài gìn giữ rất cẩn thận. Tôi không bao giờ gặp trở ngại nghiêm trọng về sức khỏe. 

Cùng với cha Cras, dòng Đa Minh và cha Gastine, tu hội Xuân Bích, cha mở nhiều lớp Giáo lý cao cấp dành cho mọi thành phần: sinh viên, giáo dân, gia đình, tín hữu từ mọi nơi, tất cả những ai muốn đào sâu giáo lý Ki-tô giáo và muốn tìm tòi chân lý. 

Cha nhận xét:  Thành công lớn!  Nhờ “ thói đua đòi học làm sang: ai tự cho là trí thức, đều tha thiết muốn theo những khóa học này “.

Chắc hẳn tiếng vang thành công này đã dội đi rất xa, vì cha được mời giảng tĩnh tâm cho những học sinh lớn ở Couvent des Oiseaux, một cơ sở lớn do các nữ tu dòng thánh Augustino ở Đà Lạt điều khiển. Đà Lạt là nơi nghỉ hè tuyệt vời ở độ cao 1000 mét trong miền Nam Việt Nam, gần Sài Gòn. Vừa đi vừa về ba ngàn cây số! Và đây, lại một lời mời khác: Khâm sứ tòa thánh mời cha nói chuyện trên đài phát thanh Huế 15 phút: 1.400 cây số nữa, vừa đi vừa về. 1400 cây số để nói chuyện 15 phút, có vẻ như không tương xứng… Các bề trên của cha khuyên cha chấp thuận. Cha gộp hai chuyến đi này làm một và sẽ soạn bài giảng tĩnh tâm và bài nói chuyện trong chuyến du hành hai ngày rưỡi trên xe lửa.

Nhưng đôi khi triều thiên nguyệt quế cũng có gai. Chàng trai Paul Seitz đã thừa hưởng việc huấn luyện hướng đạo tuyệt vời ở Havre. Cậu biết cậu mắc nợ Baden Powell và cha Sevin rất nhiều. Khi đến Hà Nội, cha Seitz rất sung sướng được giao ngay trách nhiệm tuyên úy hướng đạo và cha đã hết sức nhiệt tâm, nhưng cha sớm nhận ra tinh thần quá tự do của những vị hữu trách địa phương trong một Liên Đoàn qui tụ cả người Công giáo lẫn người ngoại giáo, người Pháp hay người Việt. Trong những điều kiện đó, không thể hoạt động tốt theo tinh thần công giáo. Có quá nhiều ảnh hường trung lập, thế tục và ngoại giáo. Người ta muốn thành lập một liên minh – điều này rất tốt – nhưng người ta đã tạo nên một pha trộn tạp nham, và điều này thật tai hại. Rất khác xa với danh xưng đẹp đẽ và phong phú của “Hiệp Hội Hướng đạo Pháp”, một tổ chức đã hoạt động rất thành công.  

Người thành lập Liên Minh Đông Dương này đã nhận được sự đồng thuận của các giám mục và của chính Đức Khâm sứ tòa thánh. Cha tổng tuyên úy lúc đó là cha Lefas, cư ngụ tại Huế và là bạn cũ của cha Seitz thời còn ở Paris. 

Cha Seitz chia sẻ với người này người kia về những suy nghĩ của cha, và làm dấy lên một cuộc phản đối toàn diện. Từ Bắc chí Nam Đông Dương vị thừa sai được mang tiếng là một nhà cách mạng, một người ly khai. Từ đó bắt đầu những tranh cãi, những bàn luận, những thư từ, những báo cáo không ngớt, những chuyến đi, đến tận Huế, để trình bày quan điểm của cha với cha Lefas và với khâm sứ tòa thánh. Vô ích, cuối cùng người ta dịu dàng báo cho cha là phải im lặng và vâng lời. Điều mà cha vâng phục không kỳ hà, vì cha tranh cãi không để tìm phần có lý, nhưng chỉ bởi vì cha xác tín rằng phương pháp được đưa ra là một sai lầm.

Than ôi! Tương lai đã chứng minh cha có lý. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, phong trào hướng đạo đã sụp đổ vì đã không được nắm giữ chắc chắn trong hàng ngũ lãnh đạo công giáo và cũng bởi người ta không biết đào tạo các trưởng thực sự neo chặt vào đức tin. 

Tuy nhiên, năm 1941 Đức cha Chaize đã tin tưởng đặt cha làm tuyên úy hướng đạo giáo phận. Cha cám ơn Đức Cha và chấp nhận công việc. Như vậy cha có thể gây ảnh hưởng trên toàn bộ các nhóm tại địa phương. Về sau, cha còn được bổ nhiệm làm phó tổng Tuyên uý cho toàn bộ Bắc Kỳ.  Mỗi tháng cha viết một bài báo trong tờ Montjoie, nguyệt san của hướng đạo.  Cha còn thành lập một Tập san liên kết các trưởng và các tuyên úy.

Bồn phận chất nặng đôi vai, nhưng cha không hề nản chí.  Không gì làm chậm bước tiến của cha. Thậm chí, dưới sự thôi thúc của chính quyền Pháp, cha còn tổ chức một buổi trình diễn toàn quốc thật xuất sắc trong dịp lễ thánh Jeanne d’Arc. Có thánh lễ long trọng, có các phong trào trẻ diễu hành, có trình diễn văn nghệ Màu nhiệm Jeanne trên sân vận động lớn Hà Nội, có 600 diễn viên; rất sốt sắng. Đó là một thành công to lớn! 

Khu cắm trại nổi tiếng Ba Vì không vì thế mà bị lãng quên. Nếu nó đã tạm ngủ yên trong những tháng khó khăn, lúc quân Nhật xâm chiếm, thì nay an bình trở lại cho phép tiếp tục tiến hành công việc để có thể tiếp đón hàng trăm bạn trẻ vào những kỳ nghỉ tới. Việc khai phá tiếp tục và bây giờ phải nghĩ đến việc xây dựng kiên cố. Dĩ nhiên cha không có một xu dính túi để bắt đầu! Vận động với giám mục. Liên lạc với một người bạn chủ thầu. Cha khám phá ra một xưởng máy bay mà việc xây dựng đã bỏ bê vì lý do chiến tranh – và xưởng máy tràn ngập những vật liệu chưa được sử dụng: sắt bê tông, xi măng, gỗ làm mộc và ván cốp pha, sắt vụn, cát…: tất cả trị giá khoảng 60.000 quan – một số tiền khổng lồ đối với cha! Cha chỉ có nụ cười để thuyết phục. Người ta muốn nhượng cho cha tất cả với giá… 10 quan. Ngang bằng giá tiền khu đất! 

Nhưng bây giờ làm sao vận chuyển hàng trăm tấn vật liệu này? Không sao sốt! Tướng Cazin, chỉ huy sư đoàn Bắc Kỳ, chấp nhận cho cha mượn một xe Ford nhà binh tuyệt đẹp và rất mạnh, có thêm tài xế và phụ xế. Cha chỉ cần chi tiền xăng: Cha nghĩ đó là chuyện nhỏ. Đồng ý! 

Như vậy, vật liệu xây dựng cần thiết sẽ được vận chuyển đến chân núi ở cao độ 400. Nhưng làm sao đưa lên cao được 400 m nữa, qua bốn cây số đường mòn khó khăn tồi tệ…Cha liều hỏi mượn ông tướng một đội la để vận chuyển tất cả lên độ cao 800.

“Cha cần bao nhiêu?”   – 50 con, thưa thiếu tướng”.  -“ Được, đồng ý, tôi cho cha mượn”.

Nhưng một năm rưỡi sau đó, người ta nhận ra rằng bộ phận kế toán trong quân đội đã quên gửi hóa đơn tiền xăng: số tiền lên tới 13000 quan. Đây là một chuyện gây nhiều xôn xao trong công sở! Từ bộ phận kế toán, sự việc đã được trình lên tất cả hệ thống quân giai. Ai chịu trách nhiệm? Ai là thủ phạm một việc cẩu thả đến vậy? Tướng Cazin đã trở về Pháp. Người kế nhiệm cho rằng tốt hơn nên xếp hồ sơ đó lại! Cha hết sức ngạc nhiên về cách thức đặc biệt và hết sức hài hước mà Chúa Quan Phòng đã giúp đỡ cha.

Công trường Ba Vì lại sôi động trở lại: để mở trại vào tháng bẩy 1941 thì phải xây dựng một nhà gỗ dài 25 m rộng 6 m, dành cho 50 trại sinh, một nhà bảo vệ, một lò bánh mì và dĩ nhiên một nhà nguyện, dự kiến có thể chứa được 150 người. Tất cả phải được xây dựng kiên cố, nhưng cũng cần phải có 5 căn chòi bằng gỗ tròn nữa. Rõ ràng Đức Mẹ rất tha thiết với lãnh địa của mẹ; Vì Mẹ dùng năng lực của cha, một thứ năng lực vượt xa mọi thứ ta có thể tưởng tượng được. Vì, cùng một lúc, cha có thể là trưởng công trình, là người tuyển mộ, là người huấn luyện thợ trẻ và sắp xếp các tổ trưởng. Cha còn quản lý thực phẩm và các phương tiện vận chuyển, là giám đốc và tổ chức các hoạt động. Là cha linh hướng, giảng dạy và giải tội… mọi thứ đều sẵn sàng đúng lúc. 

Chính lúc này một sự trợ giúp bất ngờ và vô giá được gửi đến: Caroline. Nhưng hãy để cha giới thiệu về Caroline. 

Tôi rất xúc động khi viết tên “Caroline”. Caroline thân thương của tôi! Một người bạn can trường và trung thành!… Không đẹp lắm, nhưng, rất tận tụy, rất ân cần làm theo ý tôi. Phải, Caroline đã có một chỗ đứng trong đời tôi, và tất cả những ai quen tôi ở Hà Nội đều biết rằng hai chúng tôi không hề xa rời nhau. Caroline không có tôi, tôi không có Caroline, không, tôi sẽ không phải là cha Seitz nữa! Chỉ một mình Chúa biết Caroline chia sẻ những phần nào trong công việc của tôi! Chắc hẳn những tình cảm dạt dào này có thể gây gương mù gương xấu cho các bạn? Hãy nghe đi và các bạn sẽ thấy rằng không có gì đáng lo. 

Hai ngày trước khi lên Trại Ba Vì, tôi đang ở nhà, tại giáo xứ, đang ngập lặn giữa đống bao bị, thùng két, thúng mủng, chuẩn bị chuyên chở lên trại. Người ta báo cho tôi là có một phụ nữ và một người đàn ông muốn gặp tôi. Tôi hơi càu nhàu với những người khách không- mời- mà-đến này, và trong lúc thấm mồ hôi lã chã trên khuôn mặt, tôi tìm lại được một nụ cười khá dễ thương để mời họ vào.

Người phụ nữ nói:”Thưa cha, chúng tôi đến để tặng cha một món quà, chắc hẳn sẽ làm cha hài lòng….”Tôi tự nghĩ cái gì có thể làm tôi vui lòng? Họ giúp tôi một tay để xếp xong hành lý chăng? A, phải rồi, được vậy thì quá tốt! Tôi giữ lại trong đầu những suy nghĩ vu vơ này và đứng lặng câm. Thật may cho tôi! 

“Thưa cha, chúng tôi đến để tặng cha một món quà, một chiếc xe hơi.(1) nếu cha muốn?” -”Sao? Cái gì? Một… một chiếc xe hơi?”. Tôi nhìn thật kỹ người phụ nữ. Không, hẳn nhiên là bà ta có một nụ cười ranh mãnh, nhưng không có vẻ gì là chế giễu tôi. Đàng khác, người phụ nữ này, tôi rất quen. Đó là vợ góa của một ông chủ gara. Bà ta tiếp tục điều khiển công việc đó. Người đàn ông đi theo bà ta là trưởng xưởng của bà. Lúc đó tôi nhận ra ngay bàn tay quan phòng của Chúa. – “Thưa bà, chính Chúa đã gởi bà đến. Thực sự tôi đang rất cần một chiếc xe hơi. Và Thiên Chúa đã gợi lên trong bà ý tưởng tốt lành và hào hiệp kia. Dĩ nhiên tôi đón nhận và tôi cảm ơn bà”. Tôi khá xúc động. 

Hôm sau, người ta giao xe cho tôi. Không lãng phí một phút, vì thời gian cấp bách, tôi tiến hành ngay các thủ tục để có giấy phép lưu hành và sáng ngày 1 tháng 7 các trại viên la lên “hu ra” khi thấy tôi đang cầm vô lăng xe. “Xí quá! -”Xe tồi!”- “Xe cùi!” Mạnh ai nấy góp ý, các cậu bé vô lễ này tự tiện đưa ra nhận xét. Một anh diễu: “Đó là một chiếc xe cổ lỗ sĩ, một chiếc ”Caroline”! Vậy là chiếc xe của tôi được đặt tên, và giữ mãi tên ấy. Kể từ lúc đó cả Hà Nội đều biết người ta nói về ai, khi người ta nhắc đến đến “Caroline”! 

Thực ra, các trại viên cũng có lý, vì bên cạnh những chiếc xe V.8 của cha họ, Caroline mang dáng dấp của một cụ tổ, một động vật tiền sử. Đó là một chiếc Citroen cũ, mẫu mã rất xưa, được chế tạo từ năm 1924: Như vậy nó đã lăn bánh hơn 20 năm; nó đã lỗi thời. Nhưng đó là một chiếc xe phi thường: sau 300 000 cây số trên các nẻo đường Trung Quốc và Đông Dương, nó vẫn chạy tốt. Thực sự Citroen là một đại nhân! Tôi không nghĩ rằng có một nhãn hiệu nào trên thế giới – trừ Ford- đã chế được một chiếc xe bền bỉ như vậy. 

Tốc độ tối đa của nó cũng không quá 60 cây số 1 giờ. Đây đích thực là xe của ông cha: một dụng cụ làm việc giản dị, không phải là thứ xa xỉ hay để ăn chơi. Đó là một chiếc Torpedo 3 chỗ, nhưng thường chúng tôi chở 8 người. Và thậm chí đến 15 người, chưa kể một đống hành lý! Tôi không nói ngoa chút nào! 

Caroline cũng có một số lần trục trặc nổi tiếng; Nhiều lần bắt tôi cả ngày cả đêm nằm lại trên đường. Tôi không hề giận nó, cũng như nó không bao giờ oán tôi đã bắt nó làm những việc nặng nhọc, vượt quá điều kiện và tuổi tác của nó. Nói tóm lại, đó là một chiếc xe huyền thoại, đã đồng hành với tất cả những cuộc thám hiểm của tôi từ bốn năm qua.[Thư được viết năm 1945] Tôi nhất quyết rằng tôi sẽ không bao giờ rời xa nó. Thậm chí, tôi nghĩ rằng nếu có một thiên đàng cho xe cộ, thì chúng tôi cũng sẽ ở chung trên đó. 

Cuộc trại thành công và được người ta bàn tán dài dài. Hai tháng sống mãnh liệt, hai tháng mạo hiểm, cùng những trách nhiệm nặng nề. Cha Seitz chẳng sợ gì cũng chẳng ngại ai. 

Đầu tháng 9 cha trở về Hà Nội, tạ ơnThiên Chúa và Đức Mẹ, với lòng tin sâu sắc là mình đã hoàn thành một việc làm hữu ích. Cha đã gieo và Thiên Chúa sẽ thương cho đơm hoa kết trái, biến tâm hồn những người trẻ nên xinh đẹp và trong trắng hơn. 

NB(1) Chúng ta nhớ lại Cha đã bán xe Simca của cha 15.000 quan đế thanh toán nợ nần. 
Tuyên úy trường Trung học.Giám đốc các tổ chức xã hội
 chín 1941)

   Dịp tựu trường năm 1941, Nha học chính, theo lệnh của chính quyền của thống chế Pétain, đã viết thư cho Giám Mục Hà Nội để xin một cha tuyên úy cho trường trung học của thành phố. Trường Albert Sarraut này mang tên một cựu bộ trưởng xứ thuộc địa, đồng thời cũng là toàn quyền Đông Dương. Trường lúc đó có 1000 học sinh Pháp và 500 học sinh Việt. Từ nay, giáo lý sẽ chính thức được dạy cho những học sinh nào muốn học. Vị tuyên úy sẽ thuộc Ban giảng huấn, ngang hàng với các giáo sư khác, theo cấp bậc và mức lương của một giáo sư cử nhân bậc nhất; cha phụ trách 16 giờ lớp / 1tuần.

Đức cha đã chia sẻ với cha Seitz về ý định ngài muốn bổ nhiệm cha.

– Không được! Cha đã không có thì giờ chu toàn bổn phận cha phó nhà thờ chính tòa, làm tuyên úy nhà tù, tuyên úy hướng đạo và còn nhiều công tác khác nữa. Hơn nữa, cha không đam mê cũng không có thiên hướng về nghề giáo. Vậy làm sao có thể chuẩn bị 16 bài mỗi tuần? 

Cha sở thân tình mời cha chấp nhận, bằng cách giảm nhẹ công việc giáo xứ cho cha. Cha vâng thuận theo điều mà cha thấy là ý Chúa. Và cha sẽ không hối tiếc, vì cha nhận ra là cha đã quen biết hơn nửa số học trò và công việc mới của cha có lợi thế to lớn giúp cha gây được rất nhiều ảnh hưởng sâu xa và liên tục hơn trên giới trẻ xứ thuộc địa.

Cha thở dài: Than ôi! Có biết bao chuyện đáng buồn trong vấn đề này. Cha nhận ra một số lớn các học sinh trẻ có năng khiếu, bản chất tâm hồn ngay thẳng và trong sạch, nhưng đã quá sớm bị hủ hóa, suy đồi do ảnh hưởng của xã hội thuộc địa. Cha cảm nghiệm được dụ ngôn người gieo cỏ lùng trong ruộng của Thiên Chúa: Xa hoa, kiêu căng, bồ bịch, tất cả những thói hư tật xấu của một xã hội băng hoại, đã hủy diệt, bóp nghẹt tất cả đà vươn lên hào hiệp và lâu dài. Tuy nhiên cha không bao giờ thất vọng, cha luôn lập lại: “Không nhất thiết phải có hy vọng mới bắt tay vào việc, phải có thành công mới kiên trì”. Chính Chúa sẽ đến để gặt. 

Cha có một văn phòng trong trường, nơi cha tiếp đón học sinh để trao đổi và để giải tội. Lương tháng của cha là 4.500 quan, đến năm 1944 và 1945 tăng lên thành 9000 quan. Cha mỉm cười khi đề cập đến những con số này. Cha nhớ lại những ngày đầu tiên thực tập nông nghiệp trong nông trại Paillette, gần Havre, chỉ kiếm được vỏn vẹn 100 quan mỗi tháng! Cha cũng nhớ lại lời thầy chí thánh: “Ai bỏ cha mẹ, nhà cửa …sẽ nhận lại gấp trăm và được sự sống đời đời”. Nhưng đến Bắc Kỳ nghèo khó, cha cũng muốn chết ở đây khó nghèo. Vài ngày sau khi lãnh lương, cha chẳng còn một đồng xu dính túi: tất cả đã để giúp người nghèo và chi vào công việc bác ái từ thiện. 

1942-1945
Những năm tháng “chiến tranh ngầm”


Lúc này cha Paul Seitz đã đạt tới đỉnh có thể gọi là “chín chắn chuyên nghiệp”. Cha đang ở vào tuổi sung sức. Cha cảm thấy hoàn toàn thoải mái. Cha bung hoạt động ra mọi hướng và làm chủ những tình huống khó khăn nhất. Rõ ràng Chúa Quan Phòng mỉm cười với cha trong mọi công việc. Dĩ nhiên, không có vấn đề ngủ quên trên giường nệm êm ấm, mà ngược lại. Cũng không được say men chiến thắng bằng những vòng nguyệt quế nặng trĩu trên đầu. Khéo léo, khôi hài, cha coi nhẹ tất cả những thứ đó và dâng tất cả cho Chúa và Đức Mẹ. 

Trại Đức Mẹ Ba Vì khiến người ta nói nhiều về cha, đến độ mà vị toàn quyền và vị thống sứ đã chính thức đến thăm cha. Cả hai quan chức cao cấp nhất Đông Dương này đã tỏ ra rất hài lòng với những gì hai ông phát hiện. Cha giải thích cho các ông về chương trình mở rộng có khả năng đón tiếp từ 150 đến 400 trại sinh, trong khi cha không có một đồng xu và thậm chí cũng còn chưa xây xong nhà nguyện đang dở dang. Các quan chức lấy danh dự hứa giúp đỡ công trình này: một vị giúp 300000 quan để nới rộng các tòa nhà, một vị hứa xây dựng một con đường xe ô tô dài 3 cây số và dẫn một đường dây điện cao thế lên.

Vượt quá mọi mơ ước! Chỉ cần bắt tay vào việc ngay…Như thói quen, cha Seitz luôn biết đi gõ những cửa cần gõ và gia tăng gấp bội khả năng ngoại giao của mình. Ngoài chiếc xe nhà binh đang được trưng dụng lâu dài ra, cha còn nhờ quân đội cho các tân binh trong công ty cơ giới, từ nay, được thực tập lái xe trên đoạn đường lên núi Ba Vì. Như thế, không tốn một xu, 20 xe nhà binh có thể, mỗi tuần, vận chuyển được 60 tấn vật liệu lên đó. Đội 50 con la, cha có trước kia, được tăng lên gấp đôi, rồi gấp ba. Thử tưởng tượng một đoàn 150 con la cùng với 400 công nhân leo lên leo xuống triền núi dốc thẳng, trên những con đường sình lầy đã được khai mở trước đây. Trong khi đó 600 công nhân khác, là những tù nhân Việt Nam, bắt đầu xây dựng con đường. Việc xây dựng đường dây điện cao thế 10 cây số gặp nhiều khó khăn do địa thế hiểm trở và rừng rậm chằng chịt.

Trên cao nguyên, có đến 10 công trường cùng một lúc: nhóm thợ rừng, nhóm thợ mộc, nhóm thợ làm khung nhà, nhóm thợ xây, nhóm thợ lợp, nhóm khuân vác… Như một tổ kiến lúc nhúc hối hả, dưới sự điều hành của vị thừa sai. Nhờ vào Caroline, cha luôn hiện diện hằng tuần, ra chỉ thị, sửa những sai sót, khuyến khích những người yếu, chăm sóc những người bị thương. Tất cả đang chạy đua với thời gian để hoàn tất vào ngày 1 tháng 7 năm 1942, dự kiến đón tiếp 400 bạn trẻ. 

Và các bạn trẻ sẽ có mặt, tuy ở trong một khu cắm trại còn thô sơ, nhưng sẽ hoàn thiện trong những tuần lễ đầu tiên, nhờ vào sự năng nổ của mọi người, và vào sự khuyến khích của các trưởng, những người biết tra tay vào công việc. Cha Seitz cũng mời được năm sĩ quan, trong đó có 2 đại úy, vào trong ban trại trưởng. Năm cha Tuyên úy sẽ giúp việc linh hướng và đạo đức. Tất cả làm thành một ê kíp thực sự hợp nhất và vững mạnh, sống ở trên đó những tuần lễ khó quên.

Cha nói: Đi trại là một thử thách, một điều gì đó rất vất vả, nhưng nó phát triển khả năng chịu đựng và nhân cách. Các chàng trai của tôi đã trải nghiệm điều đó. Họ thật tuyệt vời! 

Dĩ nhiên cũng đã có những chuyện bất trắc xảy ra! Nhưng người đứng đầu đã được phú ban cho khả năng biết giải quyết tình huống cách bất ngờ và đột xuất, biết lợi dụng mọi thời cơ để thăng tiến các tâm hồn. Chẳng hạn, một ngày nọ, mọi người đều đi thám hiểm, trong khi chín bạn lớn tuổi lại ở nhà và trốn trong lều… Đến trưa, cha Seitz, khuôn mặt nghiêm khắc, nói với những chàng trai lì lợm này:

“Pierre, sao con không đi thám hiểm?” – Con không có gìầy và con không muốn đi chân không!…- Còn con, Jean? – Con đau chân…- Còn con, Jacques?- Con mệt!

Còn con, Charles? – Con không thích!  … 

- Cảm ơn. Tất cả những lý do của chúng con đều hay. Nhưng nói thẳng cho cha đi, nếu chúng con muốn, thì dù sao đi nữa, chúng con cũng sẵn sàng đi chứ? – Thưa cha, vâng!   – Được, vậy thì tối nay lúc 9 tất cả chúng ta sẽ đi thám hiểm đêm, một cuộc thám hiểm vất vả, kéo dài, và nguy hiểm. Chắc chắn chúng ta sẽ phải chịu đựng. Cha không muốn nói dài hơn nữa. Đi đâu, không quan trọng chứ? Chúng con sẵn sàng để khởi hành chứ? – Thưa cha, vâng”

Những lời trao đổi đó diễn ra dưới lều trại, trong khi mưa như thác đang đổ xuống trên lều bạt và sấm sét ầm ầm trên đầu. Đi trong đêm sao?… Đi trong thời tiết này à?…. Câu hỏi thậm chí đã không được đặt ra. Quá rõ ràng: đã quyết định là thi hành, dẫu trời mưa như trút nước. 

Một sợi dây thừng 40 mét, bền chắc được chuẩn bị để mọi người đều bắt buộc phải bám vào dây để đi theo nhau. Tuyệt đối cần thiết, và dĩ nhiên cha đi đầu. Lúc 9 giờ, ba lô trên lưng, mọi người tiến bước! về hướng nhà nguyện. Tất cả đoàn dây dừng lại một lúc, trước Thánh Thể và nguyện xin Đức Mẹ phù giúp: 

Cha cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con khá điên dại, khi ra đi như thế này trong đêm. Nhưng chúng con có một ý định, đó là đền tội. Chúng con dâng trước cho Chúa những vất vả, những cơ cực của chúng con. Chỉ cần xin Chúa giúp chúng con kiên trung đến cùng. Bao lâu chưa cho hết là chưa cho gì hết.

Các trại sinh quỳ một chân, lãnh phép lành của cha. Họ xuất hành với hai đèn pin, đi theo một đường mòn dốc đứng, rồi leo qua một bức tường gần như thẳng đứng, giữa một mớ hỗn độn những dây leo chằng chịt, những cây nhọn, những cỏ sắc. Sau đó đến một lùm cây rậm rạp không thể vào được mà phải bò trong gần 3 giờ. Những con vắt lợi dụng để tấn công những bắp chân trần.

Cha nói: đừng chửi thề. Nếu chúng con té ngã, nếu chúng con đau đớn, hãy nghiến răng lại, đừng nói gì. Dĩ nhiên, không được cãi vã. Đi trong đoàn dây, phải nghĩ đến người đi trước, đến người đi sau, đừng bao giờ nghĩ tới mình. 

Chỉ có một lần, một câu chưởi thề vang lên chớp nhoáng và không phải không có lý do …Vào lúc 12 giờ đêm kém 4 phút, một tiếng hô vang: “Dừng lại!”.

Này các con, cha đang mang trong balô của cha những thứ cần thiết để dâng lễ, khi chúng ta đến nơi.(1) Cha nghĩ rằng nhiều người trong chúng con ao ước tuyên dương cuộc thám hiểm này khi chúng ta đạt đích, bằng việc rước lễ. Cha muốn báo với chúng con rằng chúng ta chỉ còn 4 phút, nếu chúng ta muốn ăn uống gì. Sau đó chúng ta “phải nhịn ăn nhịn uống” để giữ chay rước lễ. Ai hiểu được thì hiểu! (2)

Bi đông cà phê được chuyền tay nhau. 12 giờ đêm: lên đường! Cuộc leo núi tiếp tục, vừa chán, vừa mệt mỏi hết cỡ! 

2:30: Chiến thắng, vui mừng, phấn khởi. Đỉnh núi – 10m đường kính – đã được chinh phục – sau năm giờ nhầy nhụa. Mọi người đều mệt lử, nhưng tinh thần thì sảng khoái. Có thể nằm dài và ngủ ở đây chăng? Không được, bây giờ còn phải đi xuống nữa. Không đơn giản chút nào. Xuống lối nào đây? Không nhìn thấy gì! Không nhận ra gì hết! Mò mẫm, may rủi, nhưng rồi họ đã đi sai lối. Phải trở lại, phải lên lại. Họ tìm phía khác. Sự kiên trì đã được thưởng công. Họ lướt đến một đường mòn và ngay sau đó họ tìm ra khu đất quen thuộc. Tạ ơn Chúa!

Đã 4:30 sáng. Đoàn đã đi, đã bò, đã trượt, đã té 7 tiếng rưỡi. Nhưng khi bình minh ló rạng, họ không còn cảm thấy mệt nữa. Bàn thờ dâng lễ được dựng lên. 

Chúng con thân mến, cha nghĩ rằng chúng con đã hiểu được ý nghĩa của việc chúng ta vừa làm. Sự cố gắng đó, việc tập luyện thân thể đó, chính là hình ảnh của một cố gắng đạo đức và thiêng liêng khác mà chúng con phải làm. Đó là bằng chứng rằng chúng con có thể hoàn thành được. Ngọn núi mà chúng con đã tìm cách leo lên đó chính là hình ảnh của một ngọn núi khác, ngọn núi của Thiên Chúa và chúng con cũng phải leo lên: đó chính là sự thánh thiện. Thế kỷ chúng ta cần các thánh nhân và các anh hùng: chúng con vừa chứng minh cho chính chúng con rằng chúng con có khả năng để nên thánh và anh hùng – nếu chúng con muốn.

Ite, missa est. Thánh lễ đã kết thúc. Họ mở ba lô thực phẩm ra. Và ăn ngấu nghiến.

Trời sáng. Họ nhìn nhau. những khuôn mặt phờ phạc, nhưng trong đôi mắt, một ánh lửa bừng sáng. Mỗi người kiểm tra những vết thương vẻ vang của mình. Trên một trong những vết thương đó, người ta đếm được 15 con vắt. Áo quần rách bươm, dính máu, vương đầy bùn đất.

Giai đoạn chót; đoàn người leo núi lấy lại dây cột, bây giờ họ đi xuống trại rất mau, gần như dễ dàng. Họ sẽ không bao giờ quên! Suốt cuộc đời, họ sẽ hiểu thế nào là ý nghĩa của kỷ luật, của việc làm theo nhóm và của sự vượt qua chính mình.

Riêng Cha cũng hết sức sung sướng. Công thức của trại giới trẻ Ba Vì nay đã hoàn chỉnh, không ai còn bàn cãi. Mọi thành phần: phụ huynh và giới trẻ, thầy cô và các bề trên đều ưa thích và tin tưởng. 

NB: 1.Thử tưởng tượng sức nặng của những thứ này! Để dâng lễ, cha cần có đá thánh, khăn bàn thờ, và tất cả những những vật dụng cần thiết như chén thánh, sách lễ, nến ….
2.Giáo Luật về việc giữ chay Thánh Thể thời đó:“ không được ăn uống thứ gì hết từ nửa đêm, nếu muốn rước lễ vào buổi sáng”.

“Trở lại cộng đoàn Ki-tô giáo”

Trong Ngôi sao Ba Vì (L’Étoile du Ba Vì), cơ quan ngôn luận của trại sinh hội trại Đức Bà, cha đã tóm tắt lý do tồn tại của những hội trại này:

Đó là mục đích đầu tiên, là tham vọng của chúng ta. Là mục tiêu tối thượng của chúng ta vì nó chứa đựng, chi phối và hoàn tất tất cả những mục tiêu khác.

Đây là đặc điểm của riêng hội trại chúng ta: tái tạo, tái khám phá ra bầu khí của cộng đoàn tín hữu đầu tiên. Nếu cảm nghiệm này không được thực hiện, cha nghĩ rằng mọi thành công bên ngoài đều là bất khả thi. Hội trại của chúng ta giống như một ngôi đền rộng lớn, có nhiều cột trụ vững chắc mà mỗi ngày, chúng ta đều phải cùng nhau xây dựng.

Cột trụ thứ nhất, đó là Niềm vui.

Đúng thế, trước tiên là niềm vui, vì Ki-tô hữu không phải là người u sầu, buồn bã. Niềm vui làm giãn nở con tim, làm rực rỡ khuôn mặt, làm cuộc sống trở nên êm dịu và biến những nghịch cảnh nên nhẹ nhàng. Niềm vui đến từ tâm hồn không phải là một cảm xúc được thỏa mãn. Niềm vui hoàn toàn khác với thú vui. Niềm vui của kẻ biết rằng điều mình làm là lớn lao, là xinh đẹp, là chắc chắn… và không có gì so sánh được. Cuối cùng niềm vui của con người tự vượt qua chính mình, tự vươn cao, và cảm thấy trong sáng hơn, gần gủi Thiên chúa hơn, trong ân sủng và trong tình thân với Ngài.

Côt trụ thứ hai của đền thờ chúng ta, đó là Yêu thương.

“Xem kìa, họ yêu thương nhau dường nào!” Người ta đã nói về những Ki-tô hữu đầu tiên như vậy. Trại sinh đích thực chính là người biết quên mình để phục vụ, biết nghĩ đến người khác. Đó là người biết tha thứ dễ dàng và không ngần ngại, điều xấu mà người khác có thể làm cho mình. Đó là người dịu dàng và kiên nhẫn với những người khác, nhưng lại cứng rắn với chính mình. Sau cùng, đó là người lấy nguồn tình yêu cho anh em mình từ tình yêu đối với Thiên Chúa. Vì điều răn thứ nhất và thứ hai chỉ là một. Người ấy yêu mến và phục vụ Thiên Chúa, chu toàn bổn phận Ki-tô hữu cách đơn giản, mạnh mẽ và không phô trương, cũng như không e sợ dư luận; vì điều đó cần phải như vậy. 

Cột trụ thứ ba, đó là vâng lời.

Con Thiên Chúa đã vâng lời một người đàn ông và một người phụ nữ. Mỗi sáng, Con Thiên Chúa vâng nghe lời mời gọi của linh mục. Người ngự xuống trên bàn thờ. Chính vì thế cả vâng lời lẩn kỷ luật giúp vươn lên, giúp nâng cao phẩm giá thay vì giảm giá trị, củng cố và tăng sức hơn là làm suy yếu. Trong hội trại của chúng ta, chúng ta đòi hỏi, tìm kiếm, và quý chuộng hai đức tính này. Tuân theo một nội quy. Tuân theo một trật tự cấp bậc, phục tùng người chỉ huy, biểu lộ sự kính trọng, như người ấy đáng được kính trọng. 

Cô nhi viện Thánh Têrêxa

Mỗi công việc, mỗi thành công đối với cha Seitz chỉ là cầu nhún để nhảy xa hơn, cao hơn và mạnh hơn. Lúc này việc tông đồ của vị thừa sai hướng về những người nghèo khó nhất, những người bị bỏ rơi nhất. Cha đi vào những khu vực ngoại ô của thủ đô Bắc Kỳ. Cha phát hiện một số dân sống trong cảnh bần cùng và bẩn thỉu nhất: họ sống trong những chòi gỗ, mái rạ, cạnh những con đường bùn đất lầy lội, nơi người ta hiển thị tất cả nào trâu nào heo và cả những chú gà hiếm hoi mà lại ốm nhách ốm nheo; những cụ già ngồi trên những khúc gỗ, lũ trẻ ốm yếu vây quanh, nằm ngay trên nền đất, trong số đó rất ít đứa sẽ sống đến 5 tuổi, do thiếu vệ sinh, thiếu nước sạch và thiếu sự chăm sóc y tế sơ đẳng. Một cuộc điều tra lúc đó kết luận rằng 9/10 dân chúng ở châu thổ Bắc Kỳ sống trong hoàn cảnh nghèo khó và thiếu ăn.

Dĩ nhiên, nhiều cộng đoàn dòng tu, từ một thế kỷ qua, tùy theo phương tiện của họ, đã dần dần cải thiện khá tốt tình hình; xây dựng nhà đón tiếp trẻ em, bệnh nhân, người già; nuôi nấng và chăm sóc tất cả những ai đến gõ cửa; giáo dục các thiếu nhi trong các trường tiểu học và trung học. Giới chức dân sự cũng cố gắng hết sức để giúp đỡ các nhân viên bản xứ và gia đình của họ; nhưng vẫn luôn không thấm vào đâu so với nhu cầu rộng lớn của đám dân chúng luôn luôn sống dưới sự đe doạ của thời tiết khắc nghiệt, của cuồng phong, động đất, các dịch bệnh chết chóc và tất cả những nạn đói, mà trẻ em là những những nạn nhân đầu tiên. Từ đó số hành khất gia tăng cũng như số tội phạm thiếu niên, và sự mất đạo đức cũng gia tăng gấp bội. 

Cha Seitz quyết định giải quyết vấn đề này ngay. Đối với cha, không thể chấp nhận nhắm mắt lại: đó là sự thoái thác trách nhiệm của con tim và của trí thông minh. Mọi vấn đề đều phải có một giải pháp. Ngay từ năm 1943, cha đã dự kiến một dự án “nhà tiếp đón” trẻ em bất hạnh, bị bỏ rơi, mồ côi, nghèo đói hoặc hư đốn; nhưng cũng dành cho những em tàn tật hay thiểu năng. Ở đâu bây giờ? Để khởi đầu, có thể ở Ba Vì, vì khu vườn địa đàng này – được cha tạo nên từ số 0 – chỉ được sử dụng vào mùa hè thôi.

Ngay sau khi dự án được chấp thuận trên nguyên tắc, cha liền dẫn khoảng 100 em lên. Cha nhận ra ngay sự tiến triển của các em: tất cả các em, như những cây non úa vàng, được bứng đi trồng đúng lúc trong một thửa đất và một khí hậu lành mạnh hơn, đã triển nở mau chóng và, trong một thời gian rất mau, đã xóa đi những dấu vết nghèo đói và tệ đoan. Tất cả các em mau chóng biểu lộ những dấu chỉ tình cảm và xúc động: đó là những bằng chứng không thể chối cải của một thể xác và một tinh thần lành mạnh. Được đào tạo theo phương pháp hướng đạo mà cha đã thực hành từ lâu, các em làm việc trong lớp hay trong xưởng thợ, tập thể dục, chơi thể thao, ca hát và cười giỡn trong những buổi lửa trại.

Nhưng kinh nghiệm cho thấy ngay tính thất thường mãn tính của các em, chỉ quen chạy rông ngoài đường phố, không có điểm tựa gia đình, đạo đức hay nghề nghiệp gì, cũng như không có một triển vọng tương lai trước mắt. Vậy, điều cần phải mang lại cho chúng chính là cái chúng đã luôn thiếu hụt: tình cảm của một mái ấm gia đình – cái ăn lúc đói – một nền giáo dục vững chắc – một định hướng cho cuộc đời. 

Mục đích của trung tâm “tiếp đón”, chẳng mấy chốc trở nên chật hẹp, là tái tạo cuộc sống bình thường của một thị xá nhỏ, trước tiên bằng khung cảnh tự nhiên của một gia đình; chính gia đình tạo nên bầu khí yêu thương, vui vẻ mà đứa nhỏ cần có để phát triển bình thường, bằng những chăm sóc ân cần và tận tụy, mà nếu thiếu đi thì đứa trẻ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Thế nên trong trung tâm tiếp đón này có những “gia đình” gồm một anh cả là “trưởng gia đình” và khoảng 20 hoặc 30 em được phân bố thành từng nhóm, trong đó những anh lớn nhất và những anh khéo léo nhất sẽ tự nguyện làm anh lớn, bên cạnh những em yếu đuối và nhỏ bé hơn.

Bên cạnh gia đình và để hỗ trợ gia đình là trường học, nơi các em bắt buộc phải học đọc, học viết, học đếm và học những khái niệm căn bản về vệ sinh, về đạo đức và về lịch sử. Một số em không thích học, chỉ thích đi chơi rừng; nhưng một số khác rất chăm chỉ và về sau có thể học lên cao hơn .

Cũng có những nhà xưởng, nơi mỗi em có thể khám phá ra những ngành nghề khác nhau, có ích cho cuộc sống ở thị xá, và nơi đó các em học cách sử dụng những năng khiếu thủ công, như nghề mộc, chế tạo bàn chải, đóng sách, nghề dệt và đan lát. 

Cuối cùng, có những công việc lợi ích chung như: nấu ăn, lau dọn, giặt ủi và những công việc khác mà các em được mời gọi thay phiên nhau tham gia. Những công tác này được chỉ cho các em thấy như là những bổn phận của mọi thành viên trong thị xá.

Đường lối giáo dục này bao quát và uyển chuyển hơn một cô nhi viện, một trường trung học, hay một cộng đoàn. Không có bảo vệ, không có tường rào. Nếu có những em bỏ trốn, thì đa số sẽ xin trở lại ngay, sau những trải nghiệm thương đau mới ở ngoài phố .

Cha Seitz nhìn xa. Cha dự kiến đồng hành với các em sau việc đào tạo ban đầu ở Ba Vì: bằng việc học nghề, nghề chuyên môn và việc thành lập một xí nghiệp nhỏ. Nhưng nhất là để nâng đỡ tinh thần các em: tiếp tục cuộc sống gia đình và giúp tâm hồn các em vươn lên mãi. 

Lúc này, như thông lệ, cha phải đối mặt với những chi phí sắp tới; những chi phí chắc hẵn sẽ làm bất cứ ai mất ăn mất ngủ, nhưng cha Seitz thì không. Cha cũng có được ít nhiều trợ cấp của nhà nước; quân đội cung cấp cho cha nhân công và vật tư. Cha cũng có một ít lợi nhuận do việc bán những sản phẩm các em làm ra. Nhưng nhất là cha phải nhờ vào lòng hảo tâm của nhiều người, sẵn sàng mở rộng hầu bao, nhờ tài gây thiện cảm của cha.  Nơi nào cha cũng được tiếp đón nồng hậu, và những ân nhân lâu dài đã nhận nuôi một số em, mỗi tháng trả một phần chi phí ăn ở của các em. Cha nhắc nhở các em cầu nguyện liên lỉ cho các ân nhân.

Nhưng nhìn về tương lai thì sao?… Cha đã dự kiến 300 học sinh mới cho năm học 1944 -1945. Cho các em ở đâu và làm cách nào bây giờ? Ba Vì không thể mở rộng được nữa. Phải cấp tốc tìm một nơi khác. Ý tưởng này đã luôn giày vò cha vào thời điểm mà chiến tranh lạnh lên cao độ, lúc mà quân chiếm đóng Nhật càng lúc càng tỏ ra hung hãn. Cha không chấp nhận hàng tỷ đồng đổ vào chiến tranh, cũng như không chấp nhận một số người làm giàu quá mức, dựa vào những biến cố hỗn độn của thời cuộc. Trong khi chỉ cần một vài triệu đồng để cứu giúp hàng ngàn cuộc sống trẻ em. 

Bao kế hoạch được triển khai trong tâm trí không bao giờ biết ngưng nghỉ của cha. Sau khi xem xét toàn bộ vấn đề, và với kinh nghiệm năm đầu tiên, cha dự kiến làm lớn hơn nữa cái mà cha đã làm nhỏ ở Ba-Vì- nếu có thể nói như thế: trước tiên là thành lập một nơi “trú ẩn” cho những đứa trẻ ăn xin và mồ côi, với những chăm sóc, dạy dỗ và huấn luyện đầu tiên trong vòng nhiều tháng.

Sau đó chúng sẽ được đưa sang một “thị xá”, đặt dưới sự bảo trợ của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, những “mái ấm gia đình” sẽ được xây dựng kiên cố, có nhà thờ ở ngay trung tâm, trường học và xưởng thủ công ở bên cạnh, một trạm xá, một sân vận động và những sân chơi. Tất cả những thứ đó cần ở khá xa Hà Nội để các em không bị cám dỗ trở lại phố thị rồi tiếp tục cuộc sống ăn xin và ăn cắp vặt.

Cuối cùng, những năm sau đó, cần có một trung tâm dạy nghề để các em học nghề và có việc làm.
Nhưng cha có sẵn phương tiện tài chính đề bắt đầu công việc này không?- Hoàn toàn không! 

Ngày 1 tháng 12 năm 1944 cha Seitz thú nhận rằng tất cả sự giàu sang mà chúng tôi có, chỉ là niềm hy vọng. Nói đúng hơn: đó là niềm xác tín sâu xa rằng Chúa Quan Phòng sẽ thúc giục đủ các nhà hảo tâm giúp đỡ công trình yêu thương và cứu thoát này, để nay mai nó trở thành một thực thể còn năng động hơn nữa. Vấn đề cứu giúp đám trẻ con – đã từng bị coi như là đồ phế thải, hư đốn vô phương cứu chữa – luôn thúc bách và giày vò chúng tôi không ngừng. Nếu không ai lên tiếng biện hộ cho chúng, nếu chúng ta không giang tay cứu vớt, thì cảnh khốn quẫn tai tiếng, to lớn này sẽ tiếp tục đè nặng trên xã hội chúng ta như một lời khiển trách. Hãy yêu thương hằng ngàn đứa trẻ đang chờ chúng ta cứu giúp! 

Chắc hẳn Chúa Quan Phòng nghĩ rằng chưa đến lúc công trình vĩ đại này được thực hiện cách hoàn hảo vì Đông Dương đang trải qua những tháng ngày khủng khiếp; bị tàn phá và đè bẹp nặng nề do ba cuộc khủng hoảng cùng lúc: khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị và khủng hoảng tôn giáo. 

– Khủng hoảng kinh tế: Lúc này, chiến tranh tiếp diễn bên Âu châu, đưa đến những hậu quả tai hại trong các xứ thuộc địa. Sự nghèo khổ gia tăng, do giá sinh hoạt vọt lên bất ngờ. Một loạt những thiên tai ập đến, làm cho tình huống càng thêm trầm trọng: Hai cơn cuồng phong, một mùa đông dài khắc nghiệt, mà người dân Bắc Kỳ chưa từng thấy. Tháng Hai là khởi đầu của một nạn đói khủng khiếp, kéo dài 5 tháng, tàn phá xứ Bắc Kỳ. Cùng với nạn đói, bệnh sốt ban và kiết lị tăng thêm sức tàn phá. Các vị thừa sai đã phải trả một giá rất đắt cho thần chết; chỉ trong vài ngày chiếc hái tử thần đã cướp đi sinh mạng cha Villebonnet, cha sở nhà thờ chính tòa Hà Nội, mà cha Seitz là cha phó. Ngài đã mắc bệnh sốt ban khi đi thăm các bệnh nhân. Cha Seitz phải cố gắng gấp 10 để cứu giúp những đứa trẻ mà ngài không muốn thấy chúng, cũng như gia đình chúng, phải chết – bất kể họ là công giáo hay dân ngoại -Những nồi cháo bình dân nuôi đến 5.000 người khốn khổ trong nhiều tuần lễ; nhưng số người cần phải nuôi ăn lên đến hằng triệu. 

Đến tháng 6 người ta tính được một triệu nạn nhân – khoảng 1/9 dân số Bắc Kỳ – và còn biết bao nhiêu người khác nữa sẽ còn ngã xuống. Một số giáo xứ miền quê chỉ còn lại một nửa.

Khủng hoảng chính trị có lẽ còn nghiêm trọng hơn khủng hoảng kinh tế. Vì nó lâu dài hơn, thâm hiểm hơn và tai ác hơn. Việc quân Nhật cưỡng chiếm Đông Dương, bất kể những hiệp ước đã ký, là nguyên do đầu tiên làm cho xứ sở này nghèo đi. Xung đột lại không ngừng gia tăng.

Tàn bạo, bất ngờ, theo một kế hoạch phối hợp khéo léo và che giấu kỹ lưỡng, trong đêm mùng 9 rạng mùng 10 tháng 3 năm 1945, nhiều đạo quân Nhật đã thình lình tấn công cùng một lúc những pháo đài lớn nơi đồn trú của quân đội Pháp tại Đông Dương. Bị bất ngờ khi đang ngủ, hầu như tất cả các đội quân Pháp đều phải đầu hàng sau vài giờ chiến đấu, với một số quân bị tử vong. 

Cướp bóc, khủng bố, đột kích: lợi dụng sự hoảng loạn và sự vô tổ chức của các phòng ban, nhiều băng trộm cướp đổ xô vào các trang trại và các làng hẻo lánh, không người bảo vệ; chúng phá hủy các cửa hàng, các đại lý lương thực còn sót lại, không ngần ngại đốt phá hoặc chém giết .

Lúc này Nhật đã làm chủ Đông Dương và hứa cho Đông Dương độc lập đối với Châu Âu, trong khuôn khổ “Đại Châu Á”. Các chính quyền địa phương được thành lập dưới sự kiểm soát của quan chức Nhật. Công việc truyền giáo của các cha thừa sai gặp nhiều trở ngại, quyền hạn bị tranh cãi và bị đã kích kịch liệt.

Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng chính trị kéo theo khủng hoảng tôn giáo. Từ bài ngoại, phong trào quốc gia chẳng mấy chốc trở thành chống tôn giáo. Các chiến dịch báo chí đã định hướng dư luận, bằng cách đả phá công giáo, cho là đạo ngoại bang, phản dân tộc, góp phần làm đất nước lệ thuộc vào sự đô hộ của Pháp, gây chia rẽ trong đầu óc người dân và tỏ ra chống đối ý tưởng độc lập. Nhiều vu khống khác nhau và dai dẳng được tung ra chống lại không những các vị thừa sai, mà cả các linh mục và giáo dân Việt Nam. 

Qua lá thư đề ngày 10 tháng 8 năm 1945, giám đốc nha học chánh Nhật đã cho cha Seitz biết là cha “được coi như đã ngưng nhiệm vụ tuyên uý ở trường trung học”, nhiệm vụ mà cha đã thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 1941. Điều này kéo theo việc cha cũng phải ngưng chức tuyên uý hướng đạo giáo phận, chức vụ cha đã đảm nhiệm được 4 năm 4 tháng. Cũng vậy, cha cũng phải từ nhiệm chức giám đốc công giáo tiến hành giáo phận sau 3 năm 8 tháng hoạt động. 

Nhưng một trách vụ nặng nề hơn nhiều được trao cho cha lúc đó. Cha được bổ nhiệm làm cha sở nhà thờ chính tòa Hà Nội, thay thế cha Villebonnet, qua đời trong khi thi hành nhiệm vụ.

 Download file hoặc nghe: Chương IV-1

 Download file hoặc nghe: Chương IV-2
 Download file hoặc nghe: Chương IV-3
 Download file hoặc nghe: Chương IV-4

 *************************************************

CHƯƠNG V
CHA SỞ NHÀ THỜ CHÍNH TÒA HÀ NỘI
(1945-1951)

 
Giữa cơn bão kinh tế, chính trị, tôn giáo dồn dập, lại còn bị đàn áp khốc liệt, việc được bổ nhiệm vào một vị trí quan trọng và đầy thách đố như chức vụ chánh xứ nhà thờ chính tòa Hà Nội, chắc hẳn làm cho con tim của “Cha Paul can trường” hân hoan vui mừng!

Đó có phải là một sự thăng chức không? Ngài không có thời gian để quan tâm! – Ngài sẽ có nhiều việc hơn? Ngài không từ chối! – Một sứ vụ tông đồ rộng lớn hơn? Điều này cần thiết cho bầu nhiệt huyết cháy bỏng của Ngài. – Gặp gỡ giới trẻ? Vâng, sẽ ngày càng mở rộng. – Nhiều khó khăn hơn? Chắc chắn sẽ không thiếu, nhất là khi có thể nói Ngài hầu như tìm kiếm khó khăn để dễ dàng khắc phục hơn. – Một cha sở nhà thờ chính tòa cần phải có tài ngoại giao vì Ngài tiếp xúc với nhiều giới chức. Ngài đã có dịp chứng tỏ điều này với các tướng lãnh hay các nhà lãnh đạo. Về phần đời sống chiêm niệm của Ngài, nó chỉ càng sâu xa hơn, bởi vì chính nhờ cầu nguyện và cử hành thánh lễ mà Ngài có thể lấy được nguồn ân sủng để làm cho công việc của mình sinh hoa kết trái. – Còn lại là vấn đề Caroline …Đúng là một sợi dây cột chân, mà Ngài đã hứa trung thành; tuy nhiên có cần phải giữ lại chiếc xe cà tàng huyền thoại này không, trong cương vị cao trọng của một cha sở nhà thờ chính tòa? … Để tính sau!

Tình hình chính trị biến chuyển với sự đầu hàng của Đức và ký kết hòa bình ở Âu châu, ngày 8/5/1945. Tuy nhiên chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Thái Bình Dương. Nước Nhật tuy đơn độc, nhưng vẫn duy trì cuộc chiến tranh xảo trá và dã tâm bành trướng. Phải đợi đến hai quả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, ngày 6 và 9/8/1945, với gần 150 ngàn người chết, và một số lượng người bị thương còn nhiều hơn thế, mới làm cho Nhật Bản quỳ gối trước Hoa Kỳ và bắt buộc phải đầu hàng. Nhưng 100 ngàn lính Nhật vẫn còn chiếm giữ Đông Dương. Chính phủ Pháp hình như hiểu được hiểm hoạ mà Đông Dương phải đối diện trong lúc này, sau 5 năm vắng bóng, một thuộc địa phồn vinh mà nước Pháp đã gầy dựng, nay có nguy cơ rơi vào tay các thế lực nước ngoài: Trung Quốc ở phía bắc; một số nước Châu Âu đang thèm muốn tài nguyên của vùng đất này; nhưng nguy hiểm nhất là Việt minh, một nhóm đấu tranh quan trọng đòi giành độc lập bằng mọi giá, đã từ nhiều năm nay lén lút tập luyện ráo riết theo đường lối cộng sản, với mục tiêu lật đổ chính quyền; họ còn thành lập một chính phủ song song, với Hồ Chí Minh là chủ tịch, ngày càng gia tăng đánh đuổi người Pháp. Trung Quốccùng Việt Minh đang chờ ngày quân Nhật ra đi, và sẽ  thông đồng với nhau để đạt được mục đích đó — có lợi cho họ.

Họ cũng đạt được– và đây sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, do sự hèn nhát nguy hại của tinh thần dân chủ tây phương – sự thoái vị của hoàng đế Bảo Đại, người được dân chúng thần phục và là người đảm bảo sự thống nhất của nước Việt Nam.

Can thiệp quân sự của Pháp

Để hành động nhanh chóng và cứu vớt quyền lợi, cũng như sinh mạng người Pháp, đô đốc Thiery d’Argenlieu được chỉ định làm toàn quyền và chỉ huy tối cao, với tướng Leclerc làm tổng chỉ huy lực lượng quân sự Pháp ở Viễn Đông.

Được bổ nhiệm ngày 14/8/1945, tướng Leclerc bay liền vào ngày 18 và phát huy ngay nhiệt huyết cùng tài ngoại giao của mình, ông đã tạo lập được một sự hợp tác thân hữu với đô đốc Mountbatten, chỉ huy tối cao các lực lượng đồng minh ở vùng Đông Nam Á, và với đại tướng người Mỹ Mac Arthur, thuyết phục hai vị này vừa công nhận quyền của nước Pháp trên đất nước Việt Nam, vừa cung cấp các tàu chiến, tàu chuyên chở, vũ khí và quân dụng cần thiết cho chiến dịch. Ngày 29 tháng 8 năm 1945, hành động quan trọng đầu tiên: ông ký kết nhân danh nước Pháp, văn kiện đầu hàng của Nhật Bản. Với chiếc máy bay riêng Tailly của mình, ông bay từ thành phố này đến thành phố khác, kết nối liên lạc, nghiên cứu tình hình chính trị, nhân sự và quân sự. Các cánh quân của sư đoàn 2 Thiết Giáp, vốn đã nổi danh ở chiến trường Phi Châu, Pháp và Đức, đã đổ bộ với xe thiết giáp và đại pháo, giải phóng các tỉnh thành quan trọng của Nam Kỳ khỏi tay các phần tử Việt Minh nổi dậy, và Leclerc luôn là người đi đầu. Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 3 năm 1946, các chiến dịch tiếp diễn liên tục. Miền Lục Tỉnh được giải phóng, các cánh quân tiến về phía Miền Trung, cắt đường liên lạc với Hà Nội, nơi Trung Cộng tiếp tế cho Việt Minh.

Tại Hà Nội, nơi hết quân Nhật, rồi quân Tàu và Việt Minh đang thực tế bắt người Châu Âu làm con tin, bắt đầu từ các quan chức dân sự, quân sự và tôn giáo, mọi người hồi hộp theo dõi từng bước đường tiến quân của quân Pháp. Tướng Leclerc muốn giải phóng Miền Bắc, nhưng liệu có thành công được không với bao kẻ thù ở phía trước? Quyết tâm mạnh mẽ, sự bình tĩnh và tài ngoại giao của ông, nhất là sự kiên định và danh tiếng huyền thoại luôn đi cùng ông sẽ đưa Tàu và Việt Minh vào bước đường cùng.

Phải đợi đến ngày 15 tháng 8 năm 1946 thì quân đội của Leclerc mới tiến vào Hà Nội, hoàn toàn được giải phóng. Họ được hân hoan đón chào bởi 15,000 người Pháp. Đám đông tràn ra đường reo hò tung hô vị tướng giải phóng họ khỏi cơn ác mộng suốt một năm dài. Tươi cười, tự mình lái xe jeep, ông vẫy tay chào. Nhiều lúc, ông phải dừng lại vì đám đông xen lấn quanh ông. Nụ cười xen lẫn nước mắt, giây phút thật cảm động.

Cha Seitz đã viết như sau: “Binh lính của sư đoàn 2 Thiết Giáp chưa bao giờ thấy một sự chào đón nồng nhiệt như thế kể từ năm 1944 ở Paris. Sự giải phóng này được thực hiện không một tiếng súng, nhờ có các ký kết giữa các chính phủ Trung Hoa và Pháp, và  giữa Việt Minh và Pháp.”

Thực ra tướng Leclerc đã ký kết thành công, vào ngày 13 tháng 3, một thỏa ước với nước Tàu của thống chế Tưởng Giới Thạch, cũng như với phái bộ của chính phủ Hồ Chí Minh trên chiếc tàu chiếncủa ông.

Cha Seitz viết tiếp: “Vai trò chánh xứ chính tòa đã cho tôi cơ hội gặp gỡ với mọi người. Cùng với Đức Cha Chaize và 2 giám mục khác đang tản cư tại Hà Nội, tôi đã được tiếp kiến tướng Leclerc 4 ngày sau khi ông vào Hà Nội. Một cuộc gặp gỡ đầy khích lệ và thân tình.”

Mỗi  thánh lễ trọng thể đều được cử hành tại nhà thờ chính tòa. Với một niềm vui sâu đậm, tôi đã gặp lại các huynh đệ của tôi từ thời còn ở chủng viện đường Du Bac trong nhóm các cha tuyên úy đi theo đoàn quân. Nhờ họ tôi mới có một cái nhìn về” lịch sử nước Pháp” từ năm 1940. Bốn người trong số các cha tuyên úy ấy sẽ ở lại phục vụ trong giáo phận Hà Nội. Chúng tôi đang cần sự trợ giúp này vì giáo phận đã chịu nhiều mất mát do tuổi tác và chết chóc.”

Sự hiện diện của quân đội Pháp đã cải thiện được tình hình tiếp tế, nhưng giá cả của thực phẩm và các đồ dùng đủ loại còn ở một mức giá vượt khỏi tầm tay của dân chúng và của các người nghèo như các linh mục thừa sai. Cha Seitz, dù vẫn  trấn an cha mẹ là còn mạnh khỏe và tinh thần vững mạnh, cũng phải thừa nhận mình chỉ còn 64 kg, tức là mất 20 kg so với lúc nghỉ dưỡng trên núi Alpes; nhưng Ngài là một trong những người có thể chất chịu đựng tốt nhất khí hậu Đông Dương.

Ngược lại, Ngài biết tin, rất trễ về sau, gia đình mình đã chịu đựng rất nhiều thiếu thốn trong cuộc chiến, và vẫn còn chịu đựng lâu sau Ngày Giải Phóng. Hậu quả của đói kém và lạnh lẽo đã làm cho Suzanne, vợ của Pierre, bị sưng phổi, và sau đó có một vết nám ở phổi. Còn Jean, con trai của Suzanne, thì bị viêm màng tim. Cả hai phải được chuyển đi Pau để được điều trị đúng mức, giống như Ngài lúc trước phải đi dưỡng bệnh trên núi Alpes. Và còn biết bao nhiêu người khác, cũng bị như thế trong thời buổi chiến tranh ở Pháp, và họ đã chết, vì lúc đó chưa có thuốc kháng sinh.

Pierre nhấn mạnh: “Tuy nhiên dân Pháp vẫn thản nhiên. Hình như chúng ta không màng đến câu “hãy tự giúp mình, rồi Chúa sẽ giúp”. Thống chế Petain, hôm nay đã bị kết án chung thân, đã nói: “Người ta tự phục vụ mình nhiều hơn là phục vụ người khác: đó là một trong những nguyên nhân nỗi bất hạnh của chúng ta.” Tôi nghĩ rằng Chế Độ Cộng Hòa là một chế độ bất tài và lừa dối, và tôi chưa sẵn sàng thay đổi ý kiến.”

Cha Paul Seitz đã rất đau khổ khi biết những gì dân Pháp tại bản quốc đã phải trải qua, đặc biệt gia đình mình. Ngài còn đau khổ hơn khi nhận được những tấm hình của thành phố Le Havre thân yêu, các đổ nát nó đã gánh chịu, nhất là ngôi nhà nơi Ngài sinh trưởng, đối diện nhà ga.

Ngài viết: “Lòng đầy cảm xúc, con nhìn những cảnh vật quen thuộc; con nhận ra các nơi chốn của thời thơ ấu: biết bao nhiêu là đổ nát chồng chất! Quả thật nhân loại đã bị hằn sâu bởi vết thương của tội nguyên tổ, quả thật phải tin rằng nhân loại đang ở trong trạng thái điên khùng mới có thể vận dụng hết trí thông minh, nghị lực, tài sản của mình vào sự dữ, sự phá hoại! Biết bao tiền bạc của cải đổ sạch một cách vô ích! Bao nhiêu cuộc đời bỏ phí, lạy Chúa! Trong khi con thấy bao nhiêu điều tốt lành, bao nhiêu hoạt động vì tình thương có thể được thực hiện, những việc cần thiết, gấp rút phải làm, con cảm thấy choáng váng. Hay đúng hơn: con thấy, con chạm đến thực tế khủng khiếp do hậu quả của tội lỗi trên thế giới, tội lỗi của con người. Chỉ có thể nói rằng sự rối loạn đạo lý là nguyên nhân duy nhất dẫn đến một rối loạn về vật chất như thế. Quả thật con hạnh phúc được làm linh mục để không có một mục đích, một tham vọng nào khác ngoài đem lại chút tình yêu thương cho nhân loại này, đang chết dần chết mòn vì thói xấu và hận thù!”

Đầu mùa hè 1946, Đức Cha Chaize nghĩ rằng vài tuần lễ nghỉ ngơi bên Pháp sẽ đem lại sức khỏe cho cha sở nhà thờ chính tòa và Ngài có thể thoát khỏi sự khó chịu của gió mùa để hưởng mùa hè vùng Normandie; Ngài cũng có thể nhân dịp này gặp lại gia đình, tất nhiên, và nhất là mua sắm nhiều thứ vật dụng tối cần cho nhà máy in không thể tìm thấy ở Bắc Bộ, cũng như sách vở cho hoạt động của nhà sách. Do đức vâng lời, Ngài đã mau mắn chấp nhận lời đề nghị của Đức Cha, và nhờ các phương tiện vận chuyển của quân đội, Ngài đã thực hiện một chuyến đi nhanh chóng. Sau 7 năm xa cách: các cuộc gặp gỡ với cha mẹ, với Pierre và Annette thật là cảm động; nhưng sự chia ly sắp tới còn đau hơn lần trước: có phải đây là lần cuối Ngài gặp mẹ, mẹ đã yếu đi nhiều vì những năm tháng thiếu thốn trong chiến tranh?

Dù sao, vào tháng 11, Ngài cũng hạnh phúc quay về sứ vụ của mình ở Hà Nội, nơi đây Ngài cảm thấy là nhà mình, dẫu rằng tình hình vẫn còn rất mong manh.

Nếu chúng ta chứng kiến sự điêu tàn của một thời kỳ đã qua, ít nhất chúng ta cũng đặt niềm hy vọng vững chắc rằng công việc của Chúa vẫn được thực hiện cách thầm kín trong các tâm hồn, nhờ hiệu quả của các thử thách và của khổ đau cứu chuộc. Đây là cơn bão, nhưng chính cơn bão lại làm ngây ngất người thuỷ thủ thực thụ; nơi sâu thẳm tâm hồn, niềm vui và hy vọng vẫn còn đó.

Ngài nói đến «sự điêu tàn của một thời kỳ». Đó chính là điều đang xảy ra. Nhiều cuộc mặc cả chính trị trong năm 1946 đã dẫn đến thỏa ước ký kết tại Fontainebleau: nước Pháp, bị đặt trước việc đã rồi vì những cuộc nổi dậy lẻ tẻ của người Việt được Trung Cộng chiêu mộ, đã chấp thuận sự tự trị của vương quốc Cam Bốt, Lào và Việt Nam – Việt Nam bao gồm Trung Phần, Bắc Phần và Nam Phần – từ nay trở thành các quốc gia liên minh trong Liên Hiệp Pháp. Một phiên chợ lừa …. Phong trào Việt Minh, với Hồ Chí Minh đứng đầu, được Trung Cộng hỗ trợ, đã nhanh chóng đòi quyền độc lập hoàn toàn và tiến hành chiến tranh công khai với Pháp. Các hành động thù địch nổ ra nhanh chóng và cuộc chiến Đông Dương chỉ kết thúc sau thảm bại nhục nhã tại Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954, sau đó đến lượt Hoa Kỳ. Cuộc chiến ấy đã lấy đi tinh hoa của quân đội Pháp – trong đó có trưởng nam của tướng Leclerc và con trai duy nhất của tướng De Lattre de Tassigny, người được bổ nhiệm làm Cao Ủy Đông Dương – kéo theo sự điêu tàn của đất nước này khi hoàn toàn rơi vào tay của chế độ cộng sản trong vòng hơn nửa thế kỷ.

Phải nói rõ rằng từ đây các vị thừa sai Công giáo và các tín hữu sẽ là những nạn nhân bị bách hại nhiều nhất của chế độ đã được thiết lập công khai từ cuối năm 1946…

Từ đầu, Cha Seitz đã nhận định rằng, mặc dù quân Pháp vẫn còn hiện diện để bảo đảm an ninh cho đồng hương của mình, 80% tín hữu của Ngài phải chạy khỏi thủ đô Bắc Bộ, hoặc vào Nam sinh sống, hoặc trở về mẫu quốc, bỏ lại đàng sau sản nghiệp của mình trong những điều kiện tồi tệ nhất, mặc cho người ta cướp phá. Cha ủy lạo các quân nhân đến tham dự thánh lễ và Ngài tái kích hoạt sứ vụ tuyên úy với các dòng nữ, đã bị đối xử tàn tệ trong các tháng qua; Ngài tổ chức lại nhà sách, nhà in, viện mồ côi, đương đầu với muôn vàn khó khăn tưởng như không thể vượt qua, bởi vì lúc ấy chỉ có thành phố Hà Nội là được giải phóng, còn các vùng lân cận luôn làm mồi cho bọn khủng bố, các thành phần cực đoan đòi độc lập, và đám cộng sản, những kẻ không gớm tay ám sát và lột sạch người Da Trắng nào dám mạo hiểm đến các vùng đó. Như thế, Ngài không thể đi ra và thực hiện các sứ vụ bên ngoài. Ngài nhận thấy rằng dân Việt chỉ theo Việt Minh do sợ hãi và họ cũng biết mình đang rơi vào một cái bẫy. Ngài đã viết cho cha mẹ vào ngày 1 tháng 12 như sau:

“Những gì con đoán trước đang xảy ra y chang: một sự thỏa hiệp với Việt Minh, một đảng cộng sản trá hình, chống Pháp quyết liệt, là một việc bất khả thi. Dưới ánh sáng của các “đụng độ” càng ngày càng gia tăng từ hơn một năm nay, sự thật đã được phô bày hiển nhiên.

Hiện tại, Hải Phòng và Lạng Sơn đã hoàn toàn được Pháp chiếm lại. Hà Nội coi như là một thành phố bị bao vây – hoặc ít nhất trong tình trạng báo động. Các cơ quan hành chánh đã sẵn sàng dời vô bưng. Bộ đội Việt Minh chuẩn bị phòng thủ. Dân chúng tản cư. Hà Nội mang một bộ mặt ảm đạm. Mọi người đều biết rằng sắp có chém giết. Tuy nhiên quân đội viễn chinh luôn canh gác: suốt ngày đêm, các toán lính và thiết giáp tuần tiểu liên tục trên các đường phố. Từng giờ từng phút, bất kể ngày hay đêm, chúng con chờ đợi sự cố, một tia lửa sẽ châm thùng thuốc nổ. Chúng con đang sống lại những giờ phút bi thảm của tháng 3 năm 1945 và tháng 8, tháng 9 năm 1945. Một cuộc sống nguy hiểm trong tất cả sự huy hoàng của nó – hay đúng hơn là sự xấu xa của nó.

Tất nhiên, bọn đầu trộm đuôi cướp, bọn “sát thủ” của Đảng đã nhăm nhe cơ sở Nhà Chung. Người ta báo rằng chúng sẽ hành động vào giờ “H”. Chúng con không nghi ngờ gì về ý định của chúng: Giáo Hội là kẻ thù số 1. Tuy nhiên chúng sẽ có ít cơ hội hơn năm trước, lúc mà tất cả đều thù nghịch với chúng con. Năm nay, một phần đông dân Việt đứng về phía chúng con, và lực lượng Pháp đang nắm giữ thành phố, ngoài ra chúng con cũng đã chuẩn bị cẩn thận.”

Bức tranh mà Cha đã mô tả trong bức thư này chỉ càng ngày càng đen tối hơn qua các ngày và tuần lễ kế tiếp, sự chia rẽ giữa Pháp và Việt Minh đã lên đến đỉnh điểm: Việt Minh ép buộc tất cả dân bản xứ tản cư; chúng dựng các chướng ngại vật trên đường phố, gây cản trở lưu thông; nhiều đường phố bị gài mìn. Các lực lượng Pháp tránh tất cả mọi hành động gây hấn, nhưng luôn sẵn sàng ứng chiến. Các cha thừa sai cũng nhận được lời cảnh báo phải thủ sẵn vũ khí, điều này cho thấy rằng các Ngài cũng sẵn sàng tự vệ chính đáng nếu bị tấn công tại nhà. Biện pháp quyết liệt này khiến cho dân cư các vùng lân cận an tâm, và nhiều người đã tìm đến lánh nạn trong Nhà Chung, nơi đã có sẵn 70 trẻ mồ côi tá túc.

Vào chiều tối ngày 19 tháng 12 năm 1946 nổ ra cuộc khởi nghĩa Việt Minh, lặng lẽ, xảo trá và đãđược chuẩn bị kỹ lưỡng từng chi tiết nhỏ. Điện bị cúp trong toàn thành phố, tiếng súng bỗng nổ rền trên tất cảc các phố phường. Chỉ 5 phút sau, trong toàn thành phố, các xe thiết giáp Pháp đã xuất hiện và phản công. Với súng đại bác, súng đại liên, họ đã bắn bay và triệt hạ những ngôi nhà tình nghi, đánh sập các rào chắn, tấn công các khu phố mà Việt Minh đã biến thành chiến lũy. Cả một sự náo động kinh hồn.

Cả đêm các cha thừa sai canh thức và cầu nguyện, khí giới cầm tay, sẵn sàng bảo vệ các trẻ em và các gia đình mà các Ngài đã nhận che chở. Các gia đình này cũng đã báo cho các Ngài biết là có một nhóm 50 “cảm tử quân” quá khích đang trốn trong một ngôi nhà bên cạnh, nhận nhiệm vụ đặc biệt để tàn sát các cha trong khu Nhà Chung; chúng chỉ đợi một đợt yên ắng để mở cuộc tấn công.

Một đêm canh thức buồn thảm, trong tiếng xe thiết giáp đang gầm vang trên phố, các vũ khí đang khạc đạn, các ngôi nhà đang đổ sập hay bốc cháy, tiếp theo là tiếng la hét kinh hoàng của dân cư. Cuộc chiến diễn tiến cả ngày hôm sau và đêm sau nữa. Sáng ngày 21, người ta nhìn thấy 2 tên “cảm tử quân” vừa leo lên tường khu Nhà Chung và lọt vào vườn, lưng mang lựu đạn. Chúng đã bị một chốt quân đội Pháp đang giữ an ninh cho một gara bên cạnh phát hiện, lập tức can thiệp: một tên bị bắn hạ, tên còn lại chạy thoát – và làm cho toán còn lại khiếp vía.

Đến ngày 23, mới dỡ bỏ các rào chắn gần nhà thờ Chánh Tòa, khu Nhà Chung được bảo vệ an toàn. Cha sở mạo hiểm đi ra ngoài phố, để khám phá một cảnh tượng tiêu điều: nhà cửa đổ sụp, đồ đạc áo quần vương vãi tứ tung, cây cối bị đốn ngã, cống rãnh phơi bày gan ruột vì Việt Minh chui trốn trong đó: người ta không còn nhận ra thủ đô mới ngày nào đây còn rất thân thiện nữa. Khủng khiếp hơn: cha đã nhìn thấy nhiều gia đình, Pháp có, lai có, Việt theo tây có, đã bị tàn sát dã man, không phân biệt đàn ông, đàn bà, hay người già, trẻ con, chẳng một ai được nương tay trong cơn giận dữ điên cuồng của bọn Việt minh bài ngoại. Nhiều người khác đã mất tích, có thể bị bắt làm con tin, không biết bị đưa đi đâu.

Thành phố, dù đã được giải phóng, còn lâu mới an toàn. Hệ thống chiến tranh du kích, được Việt Minh khởi phát tài tình trong những tháng ngày mà chúng “diễn tuồng” bằng các buổi tranh luận đánh lạc hướng, những nụ cười gian xảo, đã trở thành một vũ khí khủng khiếp. Kẻ thù ẩn núp khắp nơi trong những chỗ không ai ngờ tới, chúng thuộc lòng tất cả các ngõ ngách, qua đó chúng có thể xuất thủ bất ngờ, không sợ bị phát hiện. Chúng không thể bị bắt. Công việc của binh lính với nhiệm vụ tảo thanh đường phố phải luôn bắt đầu lại hàng ngày trong một trận chiến đầy mê cung mà các điểm phục kích thì có thể xuất hiện bất cứ đâu.

Cuộc viếng thăm đầu tiên của Cha Seitz là bệnh viện. Ngài tìm thấy nơi nhà quàn thi thể của 15 người Pháp, bị xà xẻo một cách dã man, họ đã bị tàn sát ngay trong nhà họ.

 Ngài viết: “Tôi không thể hiểu được tại sao sự tàn bạo, thú tính con người có thể đi xa đến thế, thấp hèn đến thế! Thật là thiếu khiếm nhã nếu phải tả thêm chi tiết…”

Trong lúc Ngài đang thăm các phòng bệnh, thì có tiếng chuông báo động: bệnh viện đang bị tấn công từ 3 phía.

Ngài kể tiếp: “Thật là một buổi diễn xiếc đẹp đẽ! Bệnh nhân hồi sức còn mặc đồ ngủ; những người bệnh nhẹ thì tay cầm súng, núp sau cột, nã đạn; trong vườn các xe thiết giáp, vừa chạy tới giải cứu, xả súng liên hồi. Nhưng kẻ thù ở đâu? Kia kìa, trên cành cây … trên tháp nước … trên mái nhà…; người ta nhìn thấy chúng, tưởng là nhìn thấy chúng khắp nơi, nhưng thật ra chẳng biết chúng ở đâu cả. Chỉ có một điều chắc chắn là đạn đang réo ngang tai.”

Giáng Sinh đến rồi! Một đài phát thanh đã được lắp đặt tạm thời tại Nhà Chung, lúc này đã trở thành một hầm trú ẩn và người ta yêu cầu cha sở nhà thờ chính tòa cho một thông điệp:

“Giáng Sinh, ngày lễ của sự dịu dàng và thanh khiết! Giáng Sinh, ngày lễ của yêu thương và hòa bình! Giáng Sinh, ngày lễ mà tình thân càng ngọt ngào thêm trong mái ấm trước cảnh sum vầy con cái! Cuối cùng, và trên hết, Giáng Sinh là lúc mà Trời, qua tiếng của Hài Nhi Giêsu, nhắc lại cho thế giới sứ điệp khẩn thiết của tình yêu, hòa giải và hòa bình!

Làm sao có thể nói lên những tâm tình cao đẹp và thanh khiết đến ngần ấy, giữa lúc các đám cháy thê lương đang đỏ rực cả bầu trời, và thay cho tiếng hát thánh thót, là tiếng súng liên thanh đang át đi tiếng nói của chúng ta và con tim chúng ta đang trĩu nặng nỗi lo về một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã trở thành hiện thực cần thiết ! Oái oăm thay!

Thật vậy … lúc đầu tôi cho rằng mình không thể nói chuyện với anh chị em được. Nhưng rất nhanh sau đó, tôi đã nghĩ lại, vì sứ mệnh của tôi là phải trở nên tiếng vọng của Đấng mà hai ngàn năm trước đã hô vang lần đầu tiên trên thế giới, tiếng vọng ấy phải trấn áp tất cả mọi sự khốn nạn nhơ bẩn của con người, và bất chấp tất cả, tiếng vọng ấy phải được lắng nghe mọi nơi, mọi lúc.

Đúng thế, tôi phải và tôi muốn lập lại rằng Giáng Sinh là ngày tưởng niệm cuộc cách mạng không tưởng nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến: cuộc cách mạng của tình yêu. Và cuộc cách mạng này, không nghi ngờ gì nữa, đã bắt đầu từ máng cỏ Bê Lem, chưa bao giờ ngừng và sẽ không bao giờ ngừng lan tỏa trên khắp thế giới. Tất nhiên, có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, một cuộc cách mạng khác, cuộc cách mạng của hận thù, dường như chôn vùi tất cả, phá hủy tất cả. Nhưng cuối cùng nó sẽ không thể chiến thắng, vì không có cái gì được xây dựng trên hận thù lại có thể tồn tại lâu dài; nó sẽ chỉ gây ra đổ máu, nước mắt và sự hủy diệt!

Cuộc cách mạng duy nhất có tính cách xây dựng, đó chính là cuộc cách mạng đã khởi nguyên cách đây 20 thế kỷ, bởi Đức Ki–tô. (…) Vì vậy, ước gì cả chúng ta nữa, chúng ta cũng trở nên những nhà cách mạng nhiệt thành và kiên vững: những nhà cách mạng bằng tình yêu, những nhà cách mạng của Đức Ki–tô (…)”

Trong nhiều tuần lễ dài sau đó, cuộc chiến du kích vẫn tiếp tục, việc tảo thanh ở Hà Nội vẫn tiếp tục, từng căn nhà, từng con đường, từng khu phố; quân đội Pháp, dù sức mạnh vượt trội, cũng mất 300 binh lính, và có cả nhiều thường dân bị giết.  Về phía Việt Minh, số người chết còn nhiều hơn nữa; nhưng nó giống như một ổ kiến mà nguồn binh lực không bao giờ cạn, và luôn được bọn Trung Cộng ngay sát bên tiếp tế. Cần phải có nhiều lực lượng hơn – mà nước Pháp không thể cung cấp – mới có thể dẹp được cuộc nổi loạn này.

Thiệt hại vật chất thì vô kể; không một ngôi nhà nào của người Pháp được bỏ qua: nếu không sụp đổ thì cũng đầy thương tích; còn nhà của dân bản xứ, cũng bị phá hủy đến 80%. Thủ đô của Bắc Bộ điêu tàn. Dân số trên 150 ngàn trước đây, giờ chỉ còn khoảng 15 ngàn người Việt. Những người đã không bỏ chạy trước cuộc chiến, rồi cũng phải trốn đi vào phút cuối – hay đã chết. Còn các làng mạc chung quanh, Việt Minh đã thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến: không còn bóng dáng sự sống, nhà cửa bị cào bằng hoặc thiêu rụi, đường sá bị cắt khúc bởi giao thông hào.

Họ đang nghĩ gì, những người bản xứ mà cha Seitz bắt đầu biết rõ tính tình và ước vọng? Một thành phần ưu tú đã hiểu rằng họ phải cộng tác với Pháp và kẻ thù của quê hương, chính là Việt Minh, những kẻ muốn thống trị bằng sự sợ hãi. Nhưng khối bình dân hình như xa dần, vì họ đã bị lôi cuốn theo tuyên truyền chống Pháp cực đoan, và các nhượng bộ mà chính phủ Pháp đưa ra chỉ làm tăng thêm uy tín cho Việt Minh, bởi chúng cho thấy Pháp thật sự đang bất lực. Vị thừa sai, với kinh nghiệm non trẻ của mình, khuyến khích áp dụng điều mà Ngài gọi là

‘Cẩm nang của các bô lão và các “nhà thực dân” vĩ đại (từ này không nên làm cho chúng ta sợ hãi!), các nhân vật tiếng tăm như Gallieni, Lyautey: “Hãy đập dập cái đầu và trấn an quần chúng.” Trong khi đó, ở đây, hôm nay, đám đông vô tội đang bị nghiền nát, còn cái đầu vẫn tồn tại. Phải cấp tốc thay đổi chiến thuật và theo đuổi đến cùng cuộc chiến chống những nhà lãnh đạo Việt Minh. Người dân Việt trông chờ điều đó.’

Cái đầu, xin đừng quên, chính là Hồ Chi Minh. Cha Seitz khẳng định: rõ ràng, họ còn trông chờ một việc khác nữa: hoàng đế Bảo Đại tái lập nền quân chủ. Đại danh của hoàng đế, bị ép thoái vị bằng vũ lực, hay ít nhất vì miễn cưỡng vào tháng 8/1945, đang còn trong tâm trí mọi người. Dân Việt là một dân bảo thủ; Việt Minh đã đảo lộn truyền thống cha ông;  viện cớ của lòng yêu nước và độc lập, họ đã làm lung lay tất cả các tầng lớp xã hội và kêu gọi lập ra một phương thức mới; nhưng dân chúng không hề mong muốn một sự đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ, như là Việt Minh chủ trương. Một nền quân chủ lập hiến được định hình cách khôn ngoan sẽ được đón nhận và rất phù hợp.

Còn tình hình các giáo khu thì ra sao? 6 linh mục người Pháp của chủng viện Xuân Bích Hà Nội, 1 nữ tu người Pháp và 4 nữ tu người Việt, đang ở vùng ngoại ô và không được giải thoát kịp thời, đã bị Việt Minh bắt đi làm con tin. Tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ ở Nam Định, một giáo khu bên cạnh, đã mất tích; nhiều nhà thờ bị đốt cháy. Còn các giáo khu xa hơn, chẳng có tin tức gì.

Bây giờ ở Hà Nội có 2 ngàn dân tản cư đang được Nhà Chung cứu giúp, phải lo chỗ ở, cái ăn cái mặc, giữ gìn vệ sinh và duy trì kỷ luật. Cha Seitz có mặt ở khắp nơi, lao mình vào giữa đám đông hỗn tạp, tuy ôn hoà, và đảm nhận toàn bộ hoạt động cứu trợ: đúng là công việc mà Ngài ưa thích vì rất phù hợp với cá tính của Ngài.

Nỗi lo lắng về cô nhi viện thánh Têrêxa, mà Ngài lập ra cách đây 3 năm, đã xuất hiện trở lại một cách bất ngờ. Trong số 300 trẻ mồ côi mà Ngài phụ trách, có 270 em đang bị kẹt tại Sơn Tây, cách Hà Nội 40 km: Ngài không có tin tức gì về các em cả, và điều đó làm Ngài lo lắng. Tình hình các em bây giờ ra sao? Các em không có tiền, cũng chẳng có gạo ăn; cũng có thể chúng đã bị Việt Minh dẫn vô bưng và đang “được cải tạo” theo cách của họ. Ngài cầu xin thánh Têrêxa bảo vệ các em và đưa các em trở về nguyên vẹn.

Ở Hà Nội, đám trẻ mà Ngài chăm sóc đã tăng lên cấp số do cuộc chiến thảm khốc đã lấy đi mạng sống của biết bao cha mẹ – và kể cả em bé. Ngài tụ tập những đứa còn sống sót trong trường Puginier mà các sư huynh dòng La San đã phải rời bỏ: gần đến 500 em. Ngài phải tổ chức lại trường học, xưởng thợ, bệnh xá, vườn trẻ, nhà giặt, nơi chốn học nghề, v.v. Nhưng làm sao nuôi ăn tất cả mọi người đây? … Thịt giá 2,500 quan một ký, rau cỏ không có, gạo thì hiếm … Phải đi ăn xin thôi. Ngài đi ăn xin để 500 đứa trẻ của Ngài khỏi phải đi ăn xin, trong những hoàn cảnh đầy hiểm nguy: đó là một lý luận mạnh mẽ của Ngài đối với những ai ngạc nhiên thấy Ngài đi ngược lại nguyên tắc “sàng lọc tự nhiên” hay “chiến đấu mà sống”. Tất nhiên, đối với một người ngoại giáo, hoạt động của “Cha Kim”, hay “Cha Vàng”, như các em vẫn gọi, là không thể nào hiểu được. Vào những giờ phút bi thảm nhất, Ngài vẫn luôn táo bạo và không bao giờ nản chí.

Các hoạt động này đối với Ngài vẫn chưa đủ, Ngài còn tổ chức lại nhà sách công giáo, và điều hành một nhà in ở sát bên. Cả khu này được đặt tên là “Trung tâm tiếp nhận trẻ em Việt bị bỏ rơi”. Vẫn còn một vấn đề khó khăn: tuyển dụng nhân sự, ban quản trị, tìm thầy giáo. Ngài có thể khởi đầu công việc, nhưng Ngài cần phải có người giúp Ngài và nhất là hiểu được thấu đáo tinh thần mà Ngài muốn áp dụng trong tất cả các công trình Ngài thực hiện.

Ngài nói: “Điều tôi quan tâm nhất, đó là sự giáo dục đúng nghĩa của các em để  khơi dậy nơi các em tính nhân bản, lòng đạo đức và cuộc sống thiêng liêng. Thứ còn lại, tất cả các thứ còn lại tất nhiên cũng cần thiết, bởi vì cần phải sống, và sẽ đến ngày có hàng ngàn trẻ tôi phải lo. Nhưng tôi vẫn muốn ở trên cương vị của tôi: “linh mục, cha các linh hồn”.

Và Ngài tiếp: “Tôi lại dấn bước đến cùng vào tháng 2/1947 này. Nhưng cuộc chiến đấu còn cam go hơn trước. Có lúc tôi cảm thấy mình như một kẻ đang gồng mình chống giữ cho một toà nhà đang sập xuống. Khi không biết ngày mai sẽ như thế nào, hay nói đúng hơn, ngay giây phút kế tiếp. Mặc kệ: phải chiến đấu trong đêm khuya, phải kiên trì. Chúa đòi hỏi chúng ta thể hiện bằng chứng đức tin và đức mến này.

Trong lần phát thanh chủ nhật vừa rồi, tôi đã nói với thính giả rằng các Ki-tô hữu thời nay phải phục vụ Đức Ki-tô, bằng một nghị lực dữ dội, một lòng tận tâm hoàn toàn, coi thường sự sống lẫn cái chết, như các chiến binh cộng sản thực thụ. Ở đây, chúng ta chứng kiến tận mắt việc họ làm: thật đáng kinh ngạc! Con cái ánh sáng phải chiến đấu ít nhất ngang bằng con cái của bóng tối. Nếu đức tin và đức mến không đủ sức vận dụng được chúng ta, ít ra bản năng sinh tồn cũng phải thúc đẩy chúng ta. Và nếu chúng ta vẫn không lãnh hội được điều này, thì thôi, thây kệ! Chúng ta sẽ chết và chúng ta đáng chết!”

Rồi Ngài kết luận: “Điều tôi nói có thể không hùng hồn, nhưng tôi chẳng quan tâm đến chuyện hùng hồn hay không, tôi chỉ hy vọng được thấu hiểu.”

Quân đội Pháp tiếp tục công việc tảo thanh các chốt Việt Minh và Trung Cộng còn bám trụ ở trong và chung quanh Hà Nội; bao vây các điểm đối kháng, giải thoát dân chúng, tịch thu các kho súng ống và đạn dược của bộ đội Việt Minh, lúc này đã bị phân tán, đẩy lùi và mất tinh thần: tuy nhiên bọn này vẫn thực hiện các cuộc tấn công du kích và khủng bố, đuổi dân ra khỏi làng mạc, đẩy họ lên vùng rừng núi bưng biền, nơi họ chết dần chết mòn do không nhà, không lương thực ngoài rễ cây và lá rừng. Cha Seitz quả quyết có hàng trăm ngàn dân nghèo lang thang rải rác trên các vùng Bắc Bắc Bộ:

“Đúng là một thảm họa khủng khiếp. Xứ sở nghèo nàn này hoàn toàn trống rỗng, kiệt quệ. Chúng tôi đang chứng kiến một thảm họa lịch sử mà nhiều người còn chưa lường được nó sâu rộng thế nào. Sự sụp đổ công trình xây dựng của cả 1 thế kỷ.”

    Tháng 3 năm 1947, cùng với đức giám mục, Ngài mạo hiểm thực hiện một chuyến viếng thăm các làng mạc vùng ngoại ô, nơi mà nhiều người công giáo đã có thể quay về: đó là một niềm vui lớn lao cho Ngài và cho tất cả mọi người – họ đã tìm lại được nụ cười đôn hậu, mặc cho các khổ đau đã gánh chịu; nhưng các nhà thờ và nhà cửa bị phá hủy thì phải mất nhiều năm mới xây dựng lại được.

“Nhờ ơn Chúa, khó khăn và đổ nát chỉ làm bừng lên ý chí kiên định của tôi; tôi cảm thấy trong tôi luôn nảy sinh niềm hy vọng. Chúng ta sẽ vượt qua. Điều quan trọng là phải giữ cho đầu mình thật tỉnh táo, không để cho bất cứ điều gì làm mình nản chí, và lúc nào cũng sẵn sàng phản công. Nhờ suy nghĩ vậy nên tôi dám nói rằng cuộc đời vẫn đẹp và vẫn đáng sống. Nếu như không phải lúc nào cuộc đời cũng đẹp và đáng sống tự thân nó và cho riêng nó, thì nó vẫn đẹp và đáng sống vì nó là sự cộng hưởng và nối dài tới Cuộc Sống Đời Sau. Tất cả đều tùy thuộc vào đời sống vĩnh cửu.”

Mẹ Ngài qua đời

«Vĩnh cửu!» Vậy là sau khi thấy cái chết của biết bao nhiêu con cái Việt Nam chung quanh Ngài, sự chết đã lần đến trước cửa nhà Ngài, vào mùa hè năm 1947. Người mẹ mà Ngài rất đỗi yêu thương và luôn chia sẻ tình cảm, tâm sự, và niềm đam mê đối với cuộc sống thiêng liêng, người mẹ ấy đã về trời ngày 23 tháng 8, hưởng thọ 69 tuổi. Một bức thư vào tháng 4 đã cho Ngài biết là bà bị bệnh, nhưng bà đã khỏe lại và Ngài viết:

“Con cám ơn Chúa đã gìn giữ tất cả gia đình ta và giúp cho mẹ hồi phục. Nhưng, thưa mẹ kính yêu, bây giờ chắc mẹ đã yếu nhiều. Con không dám nghĩ đến điều đó! Cầu cho ý Chúa được thể hiện …

Dù sao đi nữa, xin mẹ hãy tin rằng, tất cả các lời cầu nguyện và hy sinh của mẹ, trong những tháng ngày bi thảm này, là tấm khiên bảo vệ con. Con có thể nói rằng con đang cảm nghiệm mỗi ngày tín điều các thánh thông công và sự chuyển hồi công phúc: mẹ là vị thừa sai trong con. Sở dĩ con đã được gìn giữ và đã có thể kiên vững trong nhiệm vụ được giao phó, đó là vì mẹ luôn ở bên cạnh con.”

Một bức điện được gửi đến hôm 24 tháng 8, tức chưa đầy 24 giờ sau khi được phát đi, lúc đó Cha Seitz vừa kết thúc buổi lễ trọng ngày chủ nhật ở nhà thờ chính tòa. Càng xa gia đình, Ngài càng thấm nỗi đau chia cách. Ngài viết cho cha, anh trai và chị gái:

“Người mẹ thân yêu của chúng ta không còn nữa. Mẹ không còn ở với chúng ta dưới thế gian này. Nhưng giá như mọi người biết được là con luôn cảm thấy Mẹ thật gần bên. Hình như con chưa bao giờ thấy Mẹ thật gần bên con như lúc này. Nỗi đau, nỗi buồn của con được giảm nhẹ bởi một cảm giác an bình và niềm tự hào mà con không biết diễn tả ra sao. Mẹ không còn nữa, nhưng chúng ta sẽ gặp lại Mẹ, Mẹ là của chúng ta hơn bao giờ hết, vì Mẹ đang ở trên trời, và ngày mẹ mất cũng là ngày mẹ được tái sinh trong ân sủng và niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Con đã được Mẹ tâm sự nhiều lần và con biết Mẹ khao khát Chúa dường nào. Niềm khao khát này là một ân phúc từ Trời, một tiên báo cho sự tiếp đón mà Chúa dành cho Mẹ. “Con sẽ chẳng tìm kiếm Ta, nếu như con đã không đã gặp thấy Ta trước”.

Phải, con cũng buồn với cha, anh và chị, nhưng niềm hy vọng Ki-tô giáo làm dịu nỗi đau của con và con muốn rằng mọi người cũng có những cảm xúc như vậy để có thể giúp và nâng đỡ nhau trong thử thách hiện tại. Nguyện xin Chúa ban ơn này cho mọi người qua sự cầu bầu của Mẹ! (…) Cuộc hội ngộ êm đềm của gia đình ta ở Criquetot năm ngoái, theo con nghĩ, là bảo chứng cho một cuộc hội ngộ khác, đầy đủ hơn, của tất cả chúng ta một ngày gần đây trên Thiên Quốc. Hãy vững tin!”

Trong dịp này, cha Paul Seitz được an ủi bởi tình thương yêu tế nhị của đức giám mục và các anh em đồng môn, cũng như các trẻ mồ côi thân yêu: tất cả đều tỏ dấu cảm thông khiến cho Ngài thấy mình được nâng đỡ nhiều. Ngài dâng lễ tang ở cô nhi viện và tất cả các em đã hiệp ý để cầu nguyện cho thân mẫu của người vừa là cha thiêng liêng vừa là dưỡng phụ của các em.

Ngài viết cho cha mình như sau: “Các cậu bé tội nghiệp này thật rất dễ thương, và con nghĩ rằng lời cầu nguyện của các con trẻ bị bỏ rơi này – nay chúng không còn bị bỏ rơi nữa nhờ sự hy sinh của bà mẹ vị thừa sai – đã đi thẳng tới Trái Tim Chúa và chắc hẵn đã làm vui lòng Mẹ.

Thứ ba 26 – là ngày chôn cất mẹ ở Criquetot, nếu con không lầm, – con đã dâng lễ trọng thể cầu hồn cho mẹ, nhưng lần này ở nhà thờ chính tòa Hà Nội, có sự hiện diện của Đức giám mục của con, với tất cả các vị thừa sai và đông đảo bổn đạo Việt Nam.”

Với nhiều cảm xúc, vài tuần sau Ngài nhận một bức thư của mẹ, viết từ đầu tháng 8, nhưng vì thư gửi đường hàng hải nên Ngài chỉ được đọc lâu sau khi mẹ mất. Bức thư quý giá biết bao đối với Ngài! Thật không may hầu như tất cả thư từ gửi cho Ngài đều đã bị mất trong cơn loạn lạc chiến tranh nhiều năm liên tục. Chỉ còn sót lại một lá thư khiến chúng ta chú ý: lá thư của cha sở giáo xứ Criquelot, đề ngày 15 tháng 9 năm 1947, kể lại những ngày cuối đời của Bà Cụ Seitz.

“Cách đây 1 tháng, người mẹ thân yêu của Cha vẫn thường xuyên dự lễ trong nhà thờ của tôi; Bà là một gương sáng cho tôi, như mọi lúc, bởi sự thánh thiện sâu sắc, lòng khiêm nhường chân thành, và tinh thần sẵn sàng phục vụ của Bà. Bà hay nói với tôi về việc quyên tiền cho hoạt động truyền giáo, mà bà đang đảm nhận để các vị thừa sai không phải chịu khổ sở quá nhiều. Bà cũng nói với tôi về vị thừa sai của riêng bà, mà đã lâu không có tin tức, nhưng Bà vẫn cầu nguyện dâng Ngài cho Chúa Quan Phòng. Bà đã cho biết về chuyến hành trình của ông Thảo[1]. Bà nói rằng sẽ vui mừng biết bao khi gặp, tiếp đón ông ấy và nói chuyện với ông ấy về Cha. Nhờ đó Bà sẽ có những thông tin nóng hổi về các hoạt động tông đồ của Cha. Bà cũng đề cập với tôi về gói quà Cha gửi cho chúng tôi, và khi tôi nói với bà về sự tinh tế của Cha, bà không cầm được nước mắt, những giọt nước mắt hạnh phúc, như lời bà nói, vì có được một người con như vậy. “Chúa đã ban ơn dồi dào cho con biết chừng nào!” Bà hay nói với tôi như vậy. ”Một người con linh mục, một người con thừa sai!

Tôi không ngờ được rằng chỉ một vài ngày sau đó, bà mất nhanh như vậy, và chính tôi sẽ đón nhận linh cữu của Bà trong ngôi nhà thờ mà bà vẫn lui tới mỗi ngày (bà là một trong số ít người trong họ đạo đến viếng Mình Thánh Chúa đều đặn).

Cha Duval kể tiếp về lần viếng kẻ liệt thăm Bà lần cuối của cha:

“Chúa đã cho người mẹ thân yêu của Cha còn biết nhận ra mình và còn rất minh mẫn sáng suốt. Bà đang ngồi trên ghế, và khi tôi nói đến việc xưng tội, Bà đã muốn quỳ xuống, nhưng tôi không cho, Bà đã được chịu phép giải tội với đầy đủ ý thức, và Bà đã trả lời kinh nguyện phép xức dầu một cách rất rõ ràng thánh thiện, khiến tôi, một lần nữa, lại được đánh động sâu xa. Tôi cũng rất cảm động khi nghe Bà dâng sự sống của mình để cầu cho vị thừa sai của Bà và gia đình Bà. Vài giờ sau Bà nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, sau khi đã vui mừng nhận biết và ôm hôn từ giã anh trai của Cha, người anh này đã kịp đến không lâu sau khi tôi có được vinh dự thiêng liêng là dâng lên Thiên Chúa linh hồn xinh đẹp của người mẹ thánh thiện của Cha.

Cha đã biết tính đơn sơ và lòng khiêm nhường của Bà, vì vậy Bà chỉ muốn một đám tang của người nghèo. Chúng tôi không nghĩ phải làm trái ý Bà. Bà được liệm trong hòm bằng gỗ thông như Bà muốn, một thánh lễ cầu hồn bình thường, không rình rang hát xướng, sự đơn sơ của những linh hồn cao đẹp suốt đời chỉ sống vì Chúa. (…) Bây giờ, Bà yên nghỉ trong nghĩa trang của giáo xứ, ở khu thường, theo như ý nguyện của Bà, dưới một mô đất trơn, với một cây thánh giá gỗ, như bà đã yêu cầu.”

Như vậy “người cha của trẻ mồ côi”, tới phiên mình cũng trở thành mồ côi, các việc tông đồ Ngài đang đảm nhận dường như đè nặng hơn trên vai và Ngài xin đức giám mục miễn cho mình nhiệm vụ làm cha sở nhà thờ chính tòa: Ngài nghĩ rằng mình không thể gánh vác nổi nhiều trọng trách như vậy; tuy nhiên bây giờ đang thiếu nhân sự và Ngài phải tiếp tục, đương đầu với mọi thứ. Nhà sách và nhà in đang phát triển, cô nhi viện chiếm gần hết thời gian của Ngài vì Ngài phải dời cô nhi viện ra khỏi trung tâm thành phố, nơi bọn trẻ lánh nạn từ sau những biến cố hôm 19/12 vừa qua, để đến thiết lập trong một cơ sở rộng thuộc dòng Đa Minh, gọi là Nhà Lacordaire, cách Hà Nội 5 cây số.

Một cơ sở tuyệt đẹp, nhưng Việt Minh đã phá hủy bình địa trước khi rút đi: một đống điêu tàn, tất nhiên là có thể xây dựng lại được, nhưng công trình sẽ phải mất nhiều tháng, có thể là nhiều năm, vàtốn hằng bao nhiêu triệu bạc.(…) “Còn tôi chỉ có một mình, với gần 200 đứa trẻ đường phố, trong một mớ hỗn độn, một ngôi nhà đổ nát, dơ dáy, lộn xộn. Tôi đã sống nhiều tuần lễ như trên một con tàu mắcnạn. Nhiều lần tôi tự hỏi đây có phải là một thử thách cuối cùng trước khi nhìn thấy sự sụp đổ của công trình mà mình từng tha thiết gắn bó!  Vậy là tôi đã đặt tổng hành dinh của mình tại chỗ, ở giữa bọn trẻ và từ 2 tháng nay, tôi đương đầu cầm cự. Tôi đã phải làm đủ thứ nghề: từ khuất phục những đứa trẻ “cứng đầu”, cho đến làm cu li, thợ nề, thợ mộc và tài xế xe tải. Sau những ngày mệt mỏi, trong cái nóng ngột ngạt, khoảng 5 giờ chiều, tôi chạy về Hà Nội, thăm nhà in và nhà sách, rồi ra nhà thờ chính tòa cho phiên trực mỗi ngày. Đêm đến, tôi quay về cô nhi viện. (…) Nếu như tôi thích thú viết lách, tôi tin rằng mình có thể phát hành cả một bộ sách chưa từng có về bọn trẻ này: vừa là bi kịch, mạo hiểm phiêu lưu, vừa là hài kịch, và đôi khi cả thảm kịch, tất cả đan xen vào nhau và biến tác phẩm này thành một câu chuyện thật hấp dẫn. Đúng là công việc của người khai hoang!”

Mỗi buổi chiều, Ngài gần như kiệt sức, nhưng nhờ ơn Chúa, sáng hôm sau Ngài lại sẵn sàng vào cuộc, và Ngài kiên vững. Ngài giữ một tinh thần thật cởi mở, sắp xếp các vấn đề và giải quyết tuần tự từng việc một; Ngài thú nhận có một bao tử cực tốt có thể tiêu hóa cả gạch ngói. Ngài thực sự cảm nghiệm mỗi ngày sự trợ giúp đặc biệt của Chúa – mà nếu không có ơn nầy, Ngài sẽ chẳng thành công trong việc gì cả. Điều này không mới, nhưng càng ngày càng hiện rõ hơn bao giờ hết. Ngài đã tâm sự với Annette, chị gái Ngài rằng khi mẹ còn sống thì Ngài nhờ vào lời cầu nguyện và hy sinh của mẹ, vì mẹ “chắc chắn là vị thừa sai hơn em nhiều”! Bây giờ, Ngài đoan chắc rằng mẹ vẫn còn tác động trong công việc của mình.

“Từ ngày Mẹ mất, em đã đạt được những thành quả và nhiều niềm an ủi, mà em cho rằng là do Mẹ. Mọi sự ở đây đều thuận lợi cho em, nhờ có Mẹ.”

Tổng kết thành quả 10 năm cuộc sống thừa sai

Đầu năm 1948, nhân dịp tĩnh tâm năm, được rảnh rang khỏi lo lắng chuyện vật chất, Cha Seitz lại lấy nhật ký ra, ghi lại những cảm nghĩ thầm kín, nhờ vậy mà nay chúng ta được nhờ:

“Đã nhiều năm rồi – gần 10 năm – tôi chưa ghi được dòng nào vào cuốn nhật ký này. Bây giờ tôi cố gắng, trước mặt Chúa, làm một bảng tổng kết chính xác.

Nhìn lại 10 năm làm linh mục và tông đồ, tôi có nhiều cảm xúc khác nhau như sau: Niềm vui và lòng biết ơn đối với hồng ân bao la Chúa đã ban. Đó là niềm vui và hy vọng, sự bạo dạn to lớn và lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, những tâm tình đã lay động tôi ngày tôi chịu chức linh mục

Hôm nay sau 10 năm, tôi có thể thành thật viết rằng niềm hy vọng của tôi đã không lầm. Trong tương lai, tôi cảm thấy niềm hy vọng ấy vẫn luôn mới trong tôi.

Chúa đã ân cần lo lắng cho tôi biết bao. Tôi vừa trải qua một đoạn đường làm cho tôi choáng ngợp bởi sự tốt lành của Chúa. Tôi đã nghiệm ra hằng ngày lời hứa của Đức Ki–tô với môn đệ Ngài: “Về phần anh em, (…) anh em sẽ nhận được gấp trăm lần ngay dưới thế này.” Chúa đã nói thật thế. Và linh hồn tôi tràn ngập tâm tình thán phục và biết ơn.

Chúa đã cho tôi thực sự nếm trải hầu như mỗi ngày niềm vui được làm chứng tá của Chúa nơi các linh hồn, và cũng là chứng tá cho tác động kỳ diệu và âm thầm của Chúa trên các linh hồn. Đó luôn là chủ đề làm tôi kinh ngạc. Tâm tình thán phục, tâm tình được chạm đến thần linh, thánh thiêng. Cũng vừa là tâm tình bối rối, vì khi cảm nghiệm quyền năng, sự cao cả, lòng thương xót của Chúa, tôi đồng thời nhận ra sự hư không của tôi, sự bất lực của tôi. Vậy mà Chúa vẫn sử dụng ngay cả sự hư không và bần cùng ấy của tôi! Chính vì thế, tôi vui mừng và cảm tạ Chúa.

Chúa đã gìn giữ tôi, ôi biết bao nhiêu lần! Ngài đã gìn giữ tôi khỏi cả hằng ngàn hiểm nguy, cả thể xác lẫn tinh thần. Cả hằng ngàn lần đáng ra tôi gục ngã, vì những sự bất cẩn, bất trung và nguội lạnh của tôi. Ngài đã gìn giữ tôi. Chúa ơi, Ngài thật trung thành! Và nếu như cảm nhận về sự bất xứng của tôi làm tôi bối rối, thì chính niềm vui và lòng biết ơn sâu xa lại thắng thế trong tôi vào lúc này. Misericordias Domini in æternum cantabo: Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng (Tv 89,2).

Chúa đã gìn giữ cho linh hồn và thể xác tôi luôn trẻ trung khiến tôi phải kinh ngạc. Tôi sắp 42 tuổi. Tôi đã chịu đựng được biết bao mệt mỏi và thật tình mà nói thì tôi cũng không bao giờ biết tiết kiệmsức khỏe là gì. Tôi đã đến Đông Dương 10 năm trước với một sức khỏe không mấy tốt. Dù vậy chưa bao giờ tôi mắc bệnh nặng; chưa bao giờ các hoạt động của tôi bị ảnh hưởng vì sức khoẻ yếu kém. Trái lại, tôi đã tìm lại và vẫn giữ được một sức lực khiến tôi kinh ngạc. Trong khi đó, khí hậu hình như đi ngược lại với chỉ dẫn của các bác sĩ. Chúa thật đáng kính phục! Chúa luôn trung thành!

Tôi đã chịu đựng, nhất là trong suốt 3 năm qua, nhiều nghịch cảnh – như các thừa sai khác ở Đông Dương. Chúng tôi đã trải qua sự bách hại, hiểm nguy, và gần như sự khủng bố. Như mọi người khác, tôi đã cảm thấy sự tởm lợm và nỗi buồn trước sự hèn hạ của tâm hồn con người, sự vô ơn của họ. Cá nhân tôi, tôi đã đo lường được chiều sâu của tâm hồn ngoại đạo. Ôi! lạy Chúa! Nhiều lúc con cảm thấy sự khủng khiếp và ghê tởm tột cùng! Phải, con đã học được sự hiểu biết về người Việt, vì họ đã vàđang làm cho con đau khổ.

Nhưng, lạy Chúa, niềm vui của con cũng lớn, vì con thấy con còn có thể – nhờ ơn Chúa giúp – yêu thương họ, với tất cả cái xấu và cái tốt nơi họ, để tận tâm và tận lực phục vụ họ, cho đến chết vì họ.Con vẫn còn cảm thấy trong con tấm lòng tươi trẻ và sự hăng say của những năm ban đầu.

Còn hơn nữa: dù bao nhiêu bất trung, bao nhiêu lỗi lầm mà thường ra thì đã phải làm cạn nguồn hồng ân của Chúa, dù bao nhiêu sự lạm dụng đủ loại, bao nhiêu bất cẩn và thiếu tế nhị của con, Chúa vẫn làm vang vọng trong lòng con lời kêu mời không mệt mỏi về tình yêu, tình thân, tình bạn với Chúa. Tóm lại, lời kêu gọi nên thánh.

Đó chính là điều làm cho tôi bối rối, nhưng cũng làm tôi tràn ngập niềm vui và hy vọng.

Sự hổ thẹn và sự hối hận cũng đang chiếm đoạt trái tim tôi
Tôi phải thật tình nhìn nhận là tôi đã không trung thành với giấc mộng lớn của đời tôi, lý tưởng lớn của tuổi trẻ tôi là nên thánh.

Trong lương tâm, tôi có thể nói rằng mình không phải là một linh mục xấu, một kẻ phản lại lời thề, một kẻ trốn chạy trách nhiệm (Chúa đã giúp tôi tránh xa những sa ngã quan trọng). Những ai xét đoán bề ngoài còn có thể nhận xét tôi là một linh mục tốt.

Nhưng tôi, trước mặt Chúa, tôi biết tôi như thế nào, và tôi khiếp sợ. Hổ thẹn và hối hận, vì thật ra tôi là một người bạn bất trung, bởi vì trong suốt 10 năm tôi đã không tiến bộ như tôi đã có thể và phải thực hiện, nhất là với bao hồng ân mà Chúa đã ban cho tôi.

Tôi đã nhiều lần mạo hiểm tới giới hạn cho phép một cách bất cẩn; tôi đã tự đặt mình vào trong những hoàn cảnh mà, lẽ ra, đã phải làm Chúa bỏ rơi tôi: bao nhiêu lần tôi chểnh mảng với một trong các bổn phận chủ yếu của tôi: kinh nhật tụng!

Nhìn chung, không thể chối cãi rằng tôi đã đổ sức quá mức cho các hoạt động tông đồ, và do đó chểnh mảng phần nhiệm vụ thiết yếu của việc thờ phượng. Tôi gần như lúc nào cũng để mình bị ám ảnh bởi các mối lo vật chất. Hoạt động vật chất đã chiếm lĩnh một phần quá lớn trong cuộc sống của tôi. Tôi đã luôn luôn dành thời gian, những khoảng rãnh rỗi, và sức lực cho nó. Ngày qua ngày trôi đi theo một nhịp điệu đáng kinh ngạc, đầy nặng những hoạt động và lo âu, rồi chiều về, tối đến, thật trễ, tôi đi ngủ, và Chúa không có gì hết – hoặc gần gần như vậy.

3°. Trong tâm hồn tôi, tôi luôn cảm thấy một ước muốn cấp bách. Nhiệm vụ tôi chưa được hoàn thành. Chương trình của tôi chưa được thực hiện. Chúa đang kêu gọi và thúc giục tôi. Tôi cầu xin Chúa hoán cải tôi. Tôi vẫn muốn và lúc nào cũng ao ước được nên thánh. Tôi vẫn muốn và lúc nào cũng muốn bắt đầu lại.

Lạy Chúa, ngoài biết bao ơn lành mà Chúa đã đổ xuống trên con từ ngày thơ bé, nếu như Chúa không ban thêm một ơn thật đặc biệt là lòng hoán cải; nếu như Chúa không xách nách con, thì khốn thay, con sẽ trở nên nguội lạnh, nghèo nàn, ích kỷ, hèn hạ; con sẽ chẳng bao giờ trở thành nhân chứng hoàn hảo của tình yêu Chúa và sự thánh thiện của Chúa như Chúa muốn, giữa muôn người.

Lạy Chúa, con khẩn khoản nài xin Chúa, hãy hoán cải con! Con cảm thấy sâu xa đó mới là điều thiết yếu, và thế giới chỉ cần điều đó, và chỉ cần điều đó cho vinh danh của Chúa! Nỗi buồn sâu đậm và ước muốn cháy bỏng! Xin thương xót con, lạy Chúa!”

Ngày hôm sau cuộc suy niệm ấn tượng này, trong đó người ta cảm thấy một linh hồn đang bị giằng xé bởi ước muốn hoàn thiện giống như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng của các xứ truyền giáo, hay của thánh nữ Elisabeth Ba Ngôi, trong cuốn “Nâng hồn lên về phía Ba Ngôi”, Cha Paul Seitzđã quay lại cuốn nhật ký của mình, lòng thanh thản hơn:

“Tôi đã chìm đắm trong thời đại của tôi! Tôi đã chìm đắm quá sâu vào thời đại của tôi! Hoạt động say mê, hoạt động tràn trề và, về một phương diện nào đó, đáng phục – là dấu chỉ cho thời đại của chúng ta. Chưa bao giờ nhân loại lại xây dựng, phát minh, sản xuất nhiều như vậy. Các phương tiện hiện đại đã đưa cho nhân loại một sức mạnh mới mẻ đáng kinh ngạc. Như một đứa trẻ mà người ta vừa cho một món đồ chơi kỳ diệu, và đang say mê với món đồ chơi mới ấy, nhân loại ngày nay cũng mải mê hoạt động và đâm đầu vào đó, sung sướng và sửng sốt khi nhìn thấy biết bao điều kỳ diệu xuất hiện dưới tay mình.

Nhưng cũng chưa bao giờ nhân loại lại phá hủy, tiêu diệt những của cải trên thế gian này và các công trình của mình một cách dễ dàng, với một mức độ rộng lớn như vậy mà không một chút hối tiếc.

Trước khi bắt đầu thế kỷ của hoạt động bùng nổ này, Thiên Chúa đã đặt, như một ngọn hải đăng, một vị thánh – một vị thánh tu kín và không hoạt động – Thánh Têrêxa. Đó là một lời nhắc nhở rất rõ ràng và không thể phủ nhận về các giá trị đích thực.

Vì vậy để nằm trong sự thật, có cần phải từ bỏ các hoạt động như các phương tiện hiện nay cho phép hay không? Tôi không nghĩ như thế. Phải tìm ra một đường lối trung dung.

Cũng vừa trước thế kỷ này, Chúa đã đặt để một vị thánh không tu kín cũng chẳng ở không, nhưng là một người hoạt động, hoạt động xông xáo, ngay giữa những xô xát của cuộc đời: Thánh Don Bosco. Phải chăng có một sự khác biệt căn bản giữa Thánh Têrêxa và Thánh Don Bosco? Thật ra, chỉ có một lời mời gọi duy nhất, một lời mời gọi giống hệt nhau nơi Thánh Têrêxa và Thánh Don Bosco, một lời mời gọi dành cho tất cả mọi người và tất cả các linh mục, trong bất cứ lối sống nào, đó là lời mời gọi nên thánh.

Đó là mục đích tối thượng cho chúng ta, cho tôi cũng như cho mọi người khác: nên thánh. Như vậy có nghĩa là gì? Thánh nhân là người tái hiện, cách đích thực nhất có thể, các nhân đức, tâm linh vàthái độ của chính Đức Ki-tô. Ngài là Đấng Thánh tuyệt hảo; Ngài là tấm gương mẫu mực.”

Cha Seitz đã kết thúc bằng một bảng so sánh giữa cuộc sống chiêm niệm và cuộc sống hoạt động, và những ghi chú riêng tư của Ngài mà chúng ta có được, tiếc thay, dừng lại ở đó.

Đầu năm 1948, sự yên ổn và an ninh đã trở lại trong thành phố Hà Nội, nhờ vào sự canh phòng củaquân đội và cảnh sát; vài cuộc ám sát các nhân vật thân Pháp vẫn diễn ra lẻ tẻ, nhưng dân số người Việt lúc trước rơi xuống 10,000 nay đã tăng lên 65,000 – là dấu chỉ rằng cuộc sống không đến nỗi tồitệ dưới chế độ cai trị của người Pháp! Các đổ nát được xây dựng lại từ từ; thành phố đã thoát khỏi cảnh điêu tàn của năm trước.

Cuộc sống hồi sinh trở lại và nhất là trên phương diện thiêng liêng. Tất cả các thử thách và tai họa đã chứng tỏ cho dân chúng đâu là phía của hận thù và sự chết, đâu là phía của tình yêu và sự sống. Người ta ngày càng có thiện cảm hơn với đạo Công giáo, cánh đồng truyền giáo đang mở rộng, nhưng thợ gặt thì quá ít và Cha Seitz lấy làm tiếc về sự già đi của các anh em đồng môn, trong khi không có mấy người trẻ đến thay thế. Sứ vụ của Ngài ở nhà thờ chính tòa ngày càng nặng, Ngài phải mất thêm nhiều thì giờ để tiếp khách và những người đến xin giúp đỡ, những khó khăn về quản trị viện mồ côi ngày càng chi li, bọn nhóc ngày càng đòi hỏi nhiều hơn. Thời điểm của sự vô tổ chức và lập lại trật tự đã qua, nhưng Ngài nhìn nhận rằng 200 trẻ mồ côi của Ngài không phải là những đứa trẻ hoàn toàn ngoan ngoãn. Có những thành phần cứng đầu, và đôi lúc Ngài phải mạnh tay, can thiệp vào những trận thư hùng giữa 2 bên thanh toán nhau bằng gạch đá, thậm chí dẫn đến đổ máu. Nhiều lần Ngài đã phải rình mò, bất kể ngày đêm, để bắt các em lén lút đánh bạc với nhau, một tật xấu quá phổ biến trong xứ sở nghèo nàn này, và là nguồn gốc đủ mọi thứ tệ nạn.

Có thất bại chăng? Tất nhiên! Nhưng cũng ít thôi. Vài cuộc đào thoát, nhưng thậm chí không có ai phải “leo tường”, vì làm gì có tường bao quanh khu nhà Thánh Têrêxa và Chúa Ki-tô Vua; ai cũng có thể tự do đi ra, nếu muốn. Nhưng kẻ bỏ trốn sẽ nhanh chóng nhận ra những nguy cơ cùng hiểm họa, và sớm hay muộn, nó cũng tiu nghỉu trở về, rách rưới, sau khi đã bán đi bộ quần áo lành lặn mà người ta đã tặng cho viện mồ côi, sau khi đã hủy hoại sức khỏe và tâm hồn vì lăn lộn trong bùn nhơ. Tuy nhiên cánh tay của Ngài luôn rộng mở.

Đối với các em dưới 10 tuổi, số lượng khoảng 40, cuối cùng Ngài đã vận động được sự giúp đỡ của 3 nữ tu, và Ngài phải công nhận việc các nữ tu này làm có hiệu quả thật nhanh và thật tốt. Chúng đã trở nên những trẻ em thực sự, những con người thực sự, chứ không phải là thú vật. Thật là một niềm hạnh phúc cho Ngài khi nhìn thấy chúng sống và phát triển.

Các trẻ lớn hơn, từ 10 tuổi đến 15 tuổi, thì được phân chia ra thành những gia đình gồm khoảng 40 em. Chúng được đi học, và cũng được các nữ tu và các giáo viên hướng dẫn. 

Những đứa từ 15 đến 20 tuổi là những em khó dạy nhất thời gian đầu. Chúng được học nghề trong các xưởng thợ mà Ngài đã phải tổ chức lại, nay đang phát triển tốt và quay đều: trong đó có thợ in, thợ tiện, thợ đan, thợ may, thợ nề và thợ mộc… Sau thời gian huấn luyện, các xưởng thợ sẽ bắt đầu đem lại lợi nhuận – và nếu như một giai đoạn mới của cuộc chiến không đến phá hủy một lần nữa – các em có thể ra đời với một nghề trong tay.

Những năm tháng Ngài theo đuổi công trình này, lúc nào cũng ở bờ vực của đói nghèo và nợ nần tứ phía, bị đuổi ra khỏi chỗ này, bắt đầu lại ở chỗ khác. May phước là vị giám mục của Ngài luôn cảm thông và đánh giá cao công việc của người cộng sự của mình; đức cha đã nhường chiếc xe hơi của mình, và di chuyển bằng xe đạp. Còn cha quản lý, lúc nào cũng mỉm cười khi nhận được yêu cầu, và cuối cùng cũng mở túi tiền – tuy rằng túi tiền cũng hơi mỏng …

Hoạt động thiêng liêng an ủi Ngài nhất. Dịp lễ Giáng Sinh 1947, 38 tân tòng được rửa tội, và 105em được chịu phép thêm sức. Lúc đó nhìn chung, các em đã đạt được một nếp sống có trật tự, kỷ cương và chăm chỉ làm việc. Cộng thêm với sự nhận biết Đức Ki-tô, Ngài nhìn nhận như sau :

“Lòng bác ái dần dần làm mềm lòng các con tim chai đá vì đói nghèo, tệ nạn, và bất công xã hội. Nhưng một công trình như thế nhất thiết đòi hỏi một sự hiện diện và chú tâm liên tục. Giáo dục, và hơn nữa, đây là một sự cải tạo, là một công việc gian nan; không bao giờ có thể tự mãn là “đã đạt được mục đích”. Công việc lúc nào cũng phải làm lại không ngừng.

Tôi nghĩ rằng trong kế hoạch tổng quát của hoạt động tông đồ mà Giáo Hội phải hoàn thành trên đất nước này, thì công việc bác ái để chúng ta cứu giúp con người cả thể xác lẫn linh hồn, là một khí cụ hiệu quả nhất: nó thể hiện một cách không chối cãi sự sinh động của Giáo Hội và cho người ta cảm nhận rõ ràng giới luật bác ái mà Đức Ki-tô đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau!”

Ngài không bao giờ thiếu sáng kiến, và Ngài phát triển ý Ngài trong thư:

“Một khí cụ khác, mà thế giới hiện đại sử dụng tối đa trong tất cả các lãnh vực, thương mại hay chính trị, và Giáo Hội không thể bỏ qua, đó là việc tuyên truyền! Thật ra, đó là lời nhắn nhủ đầu tiên của Đức Ki-tô: “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân …”  Và thánh tông đồ Phaolô, vị giảng thuyết không mệt mỏi, nắm vững điều đó: “Đức tin đến từ việc nghe giảng chân lý.” Để mọi người có thể nghe được chân lý, cần phải phổ biến nó. Ngày xưa chỉ có một phương tiện: lời nói của các thánh Tông đồ qua sự rao giảng. Thế giới hiện đại đã phát minh ra nhiều phương tiện mạnh mẽ cho công việc này. Có Chúa mới biết rằng các đảng phái và các đại công ty đã biết khai thác các phương tiện này như thế nào! Báo chí, radio, phim ảnh, đĩa nhạc, và còn nhiều thứ nữa mà tôi không biết, đều đã được tận dụng. Thế tại sao con cái của Sự Sáng lại khinh thường các quà tặng này của Chúa? Thật ra chúng ta đã không khinh thường chúng, và Giáo Hội luôn ở tuyến đầu của việc tuyên truyền. Nhiều đất nước đã tổ chức sử dụng rất hiệu quả. Còn ở Đông Dương, chúng ta còn nhiều việc phải làm: bây giờ chúng ta bắt tay vào việc.”

Thật ra lúc đó, nhà in và nhà sách mà Ngài đã xây dựng và tổ chức lại đang phát triển rất tốt, mặc dù thiếu thốn đủ thứ. Ngài đến thăm hằng ngày, đặt để các quản đốc phụ tá rất đắc lực, và thành công đang đến qua các bản in tiếng Pháp và tiếng Việt. Ngài có trong tay 30 công nhân và 15 thợ học nghề đang học in typo và chạy máy. Còn xưởng cơ khí, Ngài rất hãnh diện: 3 thầy dạy cơ khí và khỏang 40 học viên trong các ngành mô tơ, dynamô, tiện cơ khí, chế đồ bằng thiếc, điện, đúc 2 lò, lắp ráp v.v.  Xưởng mộc đang chạy hết công suất với 4 thợ chính và 8 học viên. Công việc bắt đầu có thể nuôi sống cả nhà, thật là nhẹ gánh. Ngoài ra Ngài còn phải trông coi và điều khiển một đội thợ khoảng 15 người để dựng dậy những đống đổ nát và sửa chữa lại nhà cửa: thợ nề, thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước. Đó là cả một thị xá mà Ngài phải quản trị và xây dựng, phải bảo đảm có cái ăn cái mặc cho tất cả cư dân, phải săn sóc cả thể xác và linh hồn của họ. Ướt đẫm mồ hôi từ sáng đến tối và từ tối đến sáng – bởi vì chỗ này đâu có nằm ở độ cao như ở trên núi Ba Vì – Ngài có mặt khắp nơi, quan tâm đến mọi người, mọi việc, khích lệ người này, la rầy người khác, lắng nghe những ai muốn tâm sự riêng với mình: kẻ này đang buồn chán và muốn bỏ đi một thời gian, người kia không vừa lòng với việc làm trong xưởng. Ngài luôn sẵn sàng tiếp đón mọi người cho đến 10 giờ tối, và còn phải đọc kinh nhật tụng,  kết thúc với thư tín phải đọc và phúc đáp. Làm sao Ngài có thể đảm đương được chừng ấy công việc? Ngài cũng luôn tự hỏi mình như thế; và câu trả lời luôn là: chính Chúa đã làm tất cả mọi việc cần thiết và đến giúp Ngài trong tất cả mọi lúc.

Nhưng quỷ dữ rõ ràng là không hài lòng chút nào và tìm cách hãm hại. Vì vậy một sáng trời giông bão Ngài đã bị sét đánh. Ngài đang ngồi viết trên bàn trong một căn phòng có 2 cánh cửa sổ mở. Những gì xảy ra, Ngài chỉ biết được sau đó, do hai người đã chứng kiến sự việc kể lại: sét đánh vào đầu hồi nhà thờ cách đó 15 mét, xẹt ngang qua phòng của Ngài, vào bằng cửa sổ bên này và xuyên qua cửa sổ bên kia, ném Ngài xuống đất như bị điện giật, bất tỉnh. Lúc tỉnh lại, Ngài cảm thấy đau dữ dội từ đầu và phía thân bên phải cho xuống tận dưới lòng bàn chân; gương mặt Ngài bỏng rát. Trong cả tiếng đồng hồ Ngài cảm nhận đủ mọi cảm giác chóng mặt và đau đớn, đến cả nôn mửa, nhưng không bị gãy cái xương nào, trong khi đáng lẽ ra Ngài đã phải chết ngay lập tức và đi về cõi vĩnh hằng mà không hề hay biết. Ngài kết luận như lời viết trên một bia đá trên mộ đâu đó: “Hãy luôn sẵn sàng, vì ngươi sẽ không biết ngày nào giờ nào”

Hai giờ sau, Ngài lại cầm tay lái chiếc xe jeep, gió núi quất mạnh vào mặt, còn tai thì nghe ngóng canh chừng bị phục kích. Ngài đang tính tổ chức các ngày nghỉ mát cho con cái Ngài và Ngài mong muốn đưa chúng ra biển. Không thể lên núi Ba Vì, vì Việt Minh đã chiếm và chắc đã phá hủy toàn bộ. 150 em bị kẹt ở Sơn Tây từ những biến cố tháng 12/1946 vừa được lực lượng Pháp giải thoát; chúng sẽ đến ở chung với 250 em có sẵn trong cô nhi viện. Vì vậy Ngài đang tính đi Hải Phòng, đến vịnh Hạ Long, một trong các danh lam thắng cảnh của thế giới. Chuyến đi mà Ngài thực hiện, với đoàn xe nhà binh, luồn lách qua mìn và các ổ phục kích, không cho Ngài cảm giác yên bình và an ninh. Việt Minh vẫn đang rình rập khắp nơi để tấn công. Nhưng Ngài vẫn thách thức quỷ dữ:

“Mặc kệ! Phải tiến lên và hành động tối đa có thể được. Nếu cứ phải đợi “thời điểm tốt nhất” mới ra tay, thì sẽ chẳng bao giờ làm được tích sự gì.”

Vậy là Ngài dẫn cả viện mồ côi ra bờ biển trong 2 tháng, trong một khung cảnh độc nhất vô nhị: biển với các mỏm đá tuyệt vời, rồi rừng, núi. Bản thân Ngài cũng chỉ ở lại vài ngày cần thiết để sắp xếp, tổ chức cho mọi việc xuôi chảy, rồi Ngài quay về thủ đô vì còn bao nhiêu việc đang quấn lấy Ngài. Trong 2 tháng ấy, Ngài đã chạy lên chạy xuống 5 lần: khoảng 200 cây số. Ngài kể lại:

“Khoảng cách không thấm thía gì, tuy nhiên khi Việt Minh rình mò mình ở mỗi cột mốc, thì lại là chuyện khác. Không có tuần lễ nào mà chuyến tàu hỏa Hà Nội – Hải Phòng không bị giựt mìn: cứ mỗi lần như vậy thì cả chục toa tàu lật xuống ruộng. Tôi đã phó thác linh hồn tôi cho Chúa và cầu nguyện để không xảy ra chuyện gì khi bọn nhỏ đi tàu. Tôi đã được nhậm lời. Tuy vậy, có một lần, chuyến tàu tôi đi – may phước có một mình – bị trúng mìn. Đầu máy hư hỏng nặng, 5 toa bị nghiền nát và lật úp. Hậu quả cộng hưởng của mìn và trật đường ray dừng lại cách toa của tôi 2 toa. Tôi đã thoát nạn tuy cũng bị giao động chút ít. Trong tai nạn này, không có ai bị thương, kinh nghiệm cho thấy phải xếp các toa hành lý và hàng hóa về phía đầu tàu, bởi mìn nổ ở đó. Ngày hôm đó chúng tôi tới trễ mất 10 giờ, và kho kỷ niệm hỗn tạp của tôi lại nạp t hellohêm được một số cảm xúc mới!”

Nếu các xưởng thợ Ngài xây dựng bây giờ đã ăn nên làm ra, thì về phương diện thiêng liêng cũng vậy – và đó mới là điều quan trọng hơn nhiều! Tổng kết của Ngài cuối năm 1948 ra sao?

“Lúc tôi khởi sự thì chỉ có 2 em có đạo trên 10 em. Hiện nay tình hình đã ngược lại: 8 trên 10 em có đạo – và lại là những người công giáo tốt. Các cậu bé dũng cảm này đã đến với Ki-tô giáo mà không hề bị một áp lực nào hay một ảnh hưởng lộ liễu nào trên tinh thần của chúng.”

Phương pháp của Ngài? Rất đơn giản: Chúng là “rác rưởi” của cuộc đời, “là đồ bỏ”, không niềm vui, không tình thương. Thậm chí trên thực tế, chúng hoàn toàn không biết tình phụ tử, hay lòng hiếu thảo là gì. Chúng tôi cho chúng tất cả các thứ đó. Và đó là bài giáo lý đầu tiên … với một chén cơm!

“Sau đó, từ từ, một cách nhẹ nhàng, chúng được tập suy nghĩ, và ngước mắt nhìn lên cao hơn. Và tôi vui mừng biết bao khi nhận thấy rằng chúng hiểu, hơn bất cứ ai khác. Sau khi trở thành con cái trong ngôi nhà này, làm sao chúng có thể không có ý muốn trở thành con cái Chúa được? Và khi một em nào đó tỏ lộ ý muốn này, tôi thường trả lời không. “Con ơi, điều con muốn rất quan trọng. Có rất nhiều hậu quả nặng nề….  Phải suy nghĩ chín chắn … Hãy chờ đợi …” Tôi nói với em như vậy. Và em phải đợi. Chỉ khi nào sau khi theo dõi kỹ lưỡng, thử thách, tôi mới ban phép rửa tội cho em. Như vậy là có lời rồi, và đó là lý do tôi vui vẻ chấp nhận gánh nặng như núi của tất cả các lo âu và công sức cho đám trẻ này!

Và rồi, thật rõ ràng, Chúa Quan Phòng đã can thiệp. Tôi luôn bị nợ nần và bí lối; nhưng sau cùng tôi cũng trả được nợ và thoát khỏi thế bí. Các bạn biết không, ví dụ, cuối năm 1948 tôi nợ 3 triệu quan? … Dù vậy giấc ngủ của tôi vẫn yên lành. Tôi biết rằng Chúa Quan Phòng sẽ cho tôi phương tiện. Làm vậy, tôi chỉ tạo uy tín cho Chúa – tất nhiên là Chúa xứng đáng! Dầu vậy, các bạn biết không, tôi phải chơi sát nút!”

Đức Cha Chaize, cảm thấy mình già rồi, càng ngày càng dựa vào vị chánh xứ chính tòa không mệt mỏi của mình. May thay, Đức Cha thêm cho Ngài một cha phó là Cha Faugère, mới 28 tuổi, vừa xuất thân từ chủng viện của Hội Thừa Sai Paris, cũng đầy nhiệt huyết và hợp với giới trẻ như Ngài. Đức Cha còn giao cho Ngài 3 linh mục trẻ vừa từ Pháp sang để tập sự hoạt động tông đồ và nhất là học tiếng Việt: vậy là Cha Seitz dẫn họ qua cô nhi viện và cho học tiếng Việt với một ông thầy; họ có mối quan hệ rất tương đắc với Ngài, và đồng thời sự có mặt của họ cũng giúp giám hộ bọn trẻ.

Nhưng Đức Cha Chaize qua đời trong vòng chưa đầy 24 giờ, lúc 67 tuổi, sau 24 năm làm giám mục Hà Nội, trong đó 10 năm với cương vị là phụ tá.

“Tôi luôn giữ một kỷ niệm cảm động về vị bề trên của tôi trong suốt 12 năm. Ngài rất đơn sơ, tốt lành, đầy tình cha con. Ngài đã tin tưởng tôi. Tôi hay đến gặp Ngài. Giáo phận đáng thương của chúng tôi phải chịu thử thách nặng nề: thiếu thốn nhân sự thừa sai, không còn chủ chăn. Đây là đêm đen. Những đổ nát to lớn, biết bao công việc cần phải làm. Đúng vậy, đây là lúc đòi hỏi phải có đức tin toàn vẹn – và cả đức cậy nữa.”

Giáo phận Hà Nội bị trống tòa trong hơn 1 năm.

Tình hình Đông Dương không thay đổi. Người ta chờ đợi sự trở lại của hoàng đế Bảo Đại trong sự thờ ơ; người ta nghi ngờ việc ông có thể đem lại hòa bình. Vùng lãnh thổ phía trong của đất nước vẫn không đi lại được, trừ những trục lộ được quân Pháp trấn giữ. Việt Minh vẫn còn rất hiểm độc và hoạt động tích cực, chúng kết nối với Trung cộng và được bọn này tiếp sức. Cha Seitz viết ngày 20/08/1949:

 “Chúng tôi đang sống trên ngọn núi lửa. Nhưng chúng tôi vẫn sống, đó là điều quan trọng nhất! Ngày mai, sẽ biết phải làm gì: ngày nào có nỗi khổ của ngày đó. Các công trình mà tôi đang thực hiện khiến tôi rất cực nhọc, nhưng cũng đem lại nhiều thoả mãn. Tôi nhận thấy rằng khi người ta làm việc càng nặng nề và trong tình trạng mất an ninh, thì công việc càng đem lại kết quả … ngay cả khi vẻ bên ngoài cho thấy ngược lại.

Lúc đó, Ngài đã có một cuộc phiêu lưu rất đặc biệt – nhưng không gì là bình thường đối với Ngài, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt mà Ngài đang sống! – khi Ngài đang ở chỗ trại hè tại Hạ Long. Một chiếc máy bay nhỏ bay qua trại vào buổi chiều, khoảng 5 giờ, rồi biến mất. Sau đó xuất hiện một chiếc xe jeep, một viên trung úy hổn hển bước ra và đưa cho Ngài một tờ giấy có ghi:

“Yêu cầu Cha Seitz đến phi trường Hòn Gai ngay lập tức. Chúng tôi có nhiệm vụ đưa Cha về Hà Nội.”

Có việc gì nghiêm trọng ở Hà Nội đến nỗi người ta phải tìm Ngài gấp rút như thế, mà lại với một phương tiện không mấy bình thường? … Ai đã gọi Ngài vậy? … Cha Seitz vẽ ra đủ mọi kịch bản, vẫn không thể đoán nổi. Tuy nhiên Ngài không được chần chừ và làm mất thời gian. Tất nhiên Ngài phải đi thay đồ đã, vì Ngài đang đi tắm biển với các con cái Ngài; Ngài chụp lấy va li và nhảy lên xe jeep. Hòn Gai cách đó nửa giờ, trung tâm khai thác than đá có núi và biển kẹp hai bên; sân bay thì chỉ là một bãi dốc, phía trên đầu có một dây điện cao thế, phía dưới một đường rầy xe lửa, một cái hố, và biển. Toàn bộ sân bay chỉ dài 120m … động cơ của máy bay đang gầm rú, Ngài nhảy vào cái ghế duynhất sau phi công và hỏi ông này: ”Có chuyện gì vậy?“ – Ông ta không biết gì cả. Máy bay bắt đầu phóng tới, đâm đầu về hướng biển và cất cánh 10 mét cách cuối đường băng, băng qua đường rầy xe lửa, chạm sơ mặt nước và phóng lên rồi lượn vòng để tránh một trong các mỏm đá giăng đầy trong vịnh. Hai phút sau, máy bay bay ngang trại hè, bọn trẻ vui mừng sung sướng, vẫy tay reo hò.

Lúc 19 giờ 45, máy bay đáp xuống Hà Nội. Người ta cho Ngài biết rằng lệnh đón Ngài là do ông giám đốc Sở Chính Trị. Ngài bảo người ta dẫn mình tới văn phòng của ông giám đốc mà Ngài biết: giờ này các văn phòng đều đã đóng cửa; tới nhà riêng của ông: người giúp việc nói Ông Chủ đã ra khỏi nhà, đi đâu không biết. Trong lúc đó, chiếc xe đưa Ngài tới cũng đã biến mất, vậy là Ngài chỉ còn lại một mình, giữa đêm đen, mà nhà thì xa. Ngài ngạc nhiên và bực mình! Mình đang rơi vào cái bẫy gì đây? Một chuyến đi ngu xuẩn! Chỉ còn giải pháp là quay về cô nhi viện: 4 km đường bùn lầy và đầy ổ gà. Rồi ngày mai sẽ tính.

Nhưng Cha Seitz đã quên rằng cô nhi viện nằm trong một vùng gọi là vùng giới nghiêm, không ai được đi lại khi chiều tối.

“Đứng lại” một tiếng la đầy đe dọa vang lên sau một gốc cây – “Đứng lại” lần nữa, kèm theo tiếng lên đạn. – “Nếu cục cựa, tao bắn”

Đó là một người Maroc, thuộc đội lính Pháp; anh ta kêu thêm một lính gác khác, và “hộ tống” Ngài về bót. Ở đó may phước, viên thượng sĩ nhận ra Ngài.

- «Ah, Cha là Cha của cô nhi viện. May cho Cha lắm đó: thứ nhất là tên lính gác đã không bắn Cha … thứ hai là con nhận ra Cha! Thôi được rồi. Con sẽ cho người dẫn Cha đi, để có thể qua các trạm gác khác mà khỏi phải rắc rối”

Được hai người lính tháp tùng hai bên, Ngài tiếp tục lên đường, lúc ấy là gần 9 giờ tối. Bỗng nhiên, sau lưng Ngài, đèn pha từ một chiếc xe to rọi sáng cả khúc đường: mấy người lính chuẩn bị chặn chiếc xe; và chiếc xe dừng lại thật. Lúc đó một sĩ quan cảnh sát xuống xe và la lên:

- «Cha Seitz!  Người ta đang tìm Cha khắp mọi nơi! Có 5 chiếc xe đang chạy lòng vòng trong thành phố tìm Cha. Lại đây nhanh: người ta đang đợi Cha ở nhà khách Toàn Quyền.” –  “Nhưng sao, tôi chán trò đùa này lắm rồi! Có chuyện gì xảy ra vậy? Ai đang tìm tôi?” – “Tôi không biết. Người ta sai tôi đi tìm Cha, và tôi phải đưa Cha về.”

Dù sao thì Ngài cũng phải về nhà để rửa ráy và thay quần áo, vì lúc đó Ngài người ngợm dơ dáy. Rồi chiếc xe chạy như bay về phía nhà khách Toàn Quyền, nơi đó đèn đóm sáng rực dù đã gần 10 giờ tối.

Ông chủ nhà khách dẫn Ngài vào phòng khánh tiết. Trống không! Chẳng một bóng người! Ngài tự hỏi mình đang mơ hay đang là nạn nhân của một trò chơi huyền bí và thông thái nào đây.

Cuối cùng, một cánh cửa mở ra, và tướng Kosh, chỉ huy trưởng của các lực lượng Miền Bắc Đông Dương, mà Ngài biết rõ, tiến về phía Ngài, nồng nhiệt, thân thiện nắm tay dẫn Ngài vào . . . một phòng ăn đã có sẵn khoảng từ 40 đến 50 khách đang vui vẻ ngồi bàn. Giữa tiếng tung hô, vị tướng la lên: “Ngài Coste Floret, bộ trưởng bộ Thuộc Địa, đã yêu cầu là Cha phải có mặt chiều hôm nay với chúng tôi, vì ngài bộ trưởng sắp trao cho Cha huy chương Bắc đẩu bội tinh. ”Thở phào kinh ngạc, vừa nhẹ người vừa hổ thẹn, Cha Seitz đáp lời: “Thưa đại tướng, tôi thích như vậy hơn là phải ngủ đêm ở bót !…” Và Ngài giải thích chuyện phiêu lưu mà mình vừa trải qua.

    Sau bữa tiệc – mà Ngài chỉ nhập cuộc vào lúc đó – diễn ra buổi lễ trao huy chương cho Ngài trong phòng khánh tiết. Đó là sự công nhận chính thức của nước Pháp cho công việc tuyệt vời Ngài đã thực hiện để phục vụ trẻ em bị bỏ rơi tại Đông Dương, cho sự tận tụy vô biên, cho lòng can đảm trong mọi hoàn cảnh, cho sự vô vị lợi cá nhân, và cho sự thể hiện lòng bác ái Phúc âm của Ngài.

Vài tờ báo Pháp có đăng tin về biến cố này, cũng như về sự lan tỏa tấm gương sáng của vị Thừa sai. Một tờ báo của vùng Seine Maritime viết: Huy chương Danh Dự – Ở Criquetot – Cha Seitz

“Chúng tôi vui mừng và hãnh diện khi hay tin một đồng hương của chúng ta, Cha Seitz, thuộc Hội Thừa Sai Paris, con của ông Seitz, đã nhận từ tay của Ngài Coste-Floret, bộ trưởng bộ Thuộc Địa, huy chương Bắc đẩu bội tinh, ngay tại Hà Nội. (…) Chúng tôi xin thân phụ Ngài nhận nơi đây lời chúc mừng nồng nhiệt nhất. (…)”

Tiếp theo là bản tóm lược các hoạt động của Cha.

Thông tấn xã Fides, ngày 4 tháng 2 năm 1950, tiêu đề: «Ngài Vinh Sơn Hà Nội».

“Bằng hoạt động bác ái không mệt mỏi của mình đối với trẻ em bị bỏ rơi ở Hà Nội, cha Paul Seitz, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã xứng đáng tên gọi là “Ngài Vinh Sơn Hà Nội”. Trung tâm tiếp nhận, mà Ngài thành lập năm 1943 và hằng trăm trẻ em bị bỏ rơi đã sống nơi đây, đã vượt qua tất cả các thăng trầm của chiến tranh. Để có thể giúp trung tâm này nuôi 400 miệng ăn, một cuộc hội chợ, được tổ chức ngày 8 tháng 1, với hơn mười ngàn người tham dự, không phân biệt màu da hay tôn giáo, đã cho thấy thiện cảm của mọi người dành cho Cha Seitz: Việt, Pháp, Tàu, Ấn Độ, Công giáo, Phật giáo, vô thần hay Hồi giáo. Đặc biệt, người ta còn thấy sự hiện diện của ông Nguyễn Hữu Trí, Thủ Hiến Bắc Kỳ, đã hiến tặng 10,000 đồng bạc đông dương (tương đương 170,000 quan Pháp). Đây là một biểu hiện đẹp đẽ của sự đoàn kết trong một đất nước đang bị chia rẽ, và một lần nữa chứng tỏ rằng tình yêu vẫn mạnh hơn hận thù.”

«Tình yêu và hận thù»: Đó là điều càng ngày càng quan trọng trong đất nước bị chia rẽ này, và cả trong con tim bị chia rẽ của phần đông dân bản xứ, đang bị giằng co giữa sự tuyên truyền chống Pháp do Việt Minh thổi phồng, và lý trí cho thấy sự hiện diện của Pháp là cần thiết đối với lợi ích của đất nước. Cha Seitz viết cho thân phụ mình vào ngày 5/12/1949 như sau:

“Con nghĩ rằng thái độ trái ngược này, một phần lớn là do sự bất lực của chúng ta, sự nhu nhược của chúng ta; bởi chúng ta đang cho thấy hình ảnh của một đất nước yếu đuối và thiếu sự vĩ đại. Nói tóm lại: mất uy tín. Điều đó rất trầm trọng ở Đông phương!”

Qua một sĩ quan Pháp đã đi hành quân trong vùng này, Cha Seitz cuối cùng đã biết tin tức vùng Ba Vì yêu thương của mình – tin xấu tất nhiên: Việt Minh đã phá hủy một cách có hệ thống tất cả mọi công trình xây dựng, nhưng một tượng thánh giá đặt ở cổng vẫn còn, cũng như nhà nguyện. Ngài có thể tìm lại được gì sau cuộc chiến? … Ngài khẳng định: “Tôi nhất định, nếu Chúa cho phép, sẽ xây dựng lại công trình này”. Cuối năm 1949, tổng số các em trong cô nhi viện của Ngài ở Hà Nội đã lên tới 350 em: đây là mức tối đa khả năng tiếp nhận của khu nhà. Nuôi sống một cơ sở như vậy ngày càng tốn kém và Ngài kết thúc năm đó với những khoản nợ to lớn. Ngài tâm sự:

“Sự nghèo nàn là một trong những dấu hiệu của Chúa trên một công trình. Tôi đã được như vậy thật. Nhưng tôi phải nhìn nhận một điều đáng phục: khi nhìn về phía trước, tôi chỉ thấy một túi tiền trống rỗng và sự bấp bênh; khi quay lại quá khứ, tôi buộc phải thừa nhận rằng tôi chưa bao giờ thiếu thốn nhu cầu cơ bản nào cho các trẻ mồ côi của tôi. Như vậy tôi có gì phải than van? Điều đó không làm tôi mất ăn mất ngủ: vì làm như vậy thì sẽ chứng tỏ thiếu lòng tin rõ ràng!”

Một đại diện tông toà mới ở Hà Nội

Đầu tháng 5 năm 1950, một sự kiện lớn, mà người ta có thể gọi là sự kiện lịch sử, đã làm các vị thừa sai và giáo dân Hà Nội kinh ngạc: đức Giáo hoàng Piô 12 đã quyết định giao quyền điều khiển hạt đại diện tông tòa – đã trống hơn một năm  – cho một linh mục người Việt: Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê, lúc đó đang làm cha sở giáo xứ Thánh Antôn, 49 tuổi.

Đó là một trang sử mới cho Giáo Hội Việt Nam, vì người ta nhớ lại, là trong thế kỷ 17, chính các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris đã là những người đầu tiên đến xứ này và đã làm cho xứ này trở lại đạo. Vị giám mục tiên khởi, Đức Cha Pallu đã đến đây bằng đường bộ và 10 người trong đoàn, tất cả đều là những vị thừa sai trẻ tuổi, đã chết trên đường đi, vì mệt mỏi và đói khát, và như Cha Seitz nói, “bằng xương thịt mình, họ đã thiết lập mối dây đầu tiên, chiếc cầu đầu tiên kết nối Nước Pháp và Châu Á”. Ngay cả Đức Cha Pallu cũng đã chết ở ngưỡng cửa của đất hứa, không đặt được bước chân lên giáo phận của mình.

Từ thời gian đó, 24 giám mục, 270 vị thừa sai, tất cả đều thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã tiếp nối  nhau ở Miền Bắc Đông Dương, làm việc không ngừng nghỉ để xây dựng Giáo Hội. Đã có những giờ phút đen tối, nhưng hiển hách biết bao! Ba vị hoàng đế Việt Nam, trong thế kỷ 19, đã tung ra những cuộc bách hại đẫm máu: hơn 100,000 đấng tử đạo Việt Nam đã hòa máu của mình với máu của nhiều Vị thừa sai để làm cho vùng đất này sinh hoa kết trái.

Đức Cha Trịnh Như Khuê được tấn phong trong nhà thờ chánh tòa Hà Nội vào ngày 15 tháng 8 năm 1950 và các vị thừa sai sẽ chuyển giao gia sản của 4 thế kỷ lao khổ cho hàng giáo phẩm triều. Nhưng Toà Thánh muốn các vị thừa sai vẫn ở lại trong giáo phận để hợp tác với đức Giám mục mới: còn biết bao công việc phải làm trong một đất nước có 22 triệu dân, mà chỉ có 2 triệu người công giáo!

Cũng sẽ không có chuyện Cha Seitz rũ bỏ các trách nhiệm nặng nề, ngay cả khi Ngài cảm thấy mệt mỏi thực sự và một gánh nặng vượt mức giới hạn con người. May thay, Chúa Quan Phòng đã đến đem hỗ trợ cho Ngài nhờ – nếu như có thể nói vậy – cộng sản đã chặn một số vùng và cấm các vị thừa sai lui tới. Vì vậy trước hết Ngài được thêm một cha phó tại nhà thờ chính tòa, làm bớt phần gánh nặng cho Ngài. Còn ở nhà sách, có một cha thừa sai đến phụ tá cho Ngài. Cuối cùng ở cô nhi viện, cha Faugère trẻ trung được đặt làm phó giám đốc, trong khi một linh mục trẻ người bản xứ trở thành tuyên úy cho cơ sở. Nhân sự cũng có thêm bà Dubois, một bà lai Tây đã tận tụy phục vụ suốt nhiều năm qua với tất cả tình thương của một người mẹ và Cha Seitz có thể hoàn toàn giao phó công việc; bà đặc biệt có trách nhiệm quản lý và mỗi sáng lái xe tải đi mua sắm các thứ cần dùng; khi không còn tiền, bà viết giấy nợ với chữ ký của Cha, và các nhà buôn, đã biết rõ bà, luôn tin tưởng: họ sẽ được trả ngay khi có thể. Bà cũng phụ trách phòng bệnh và thành lập một nhóm các em lớn để chích thuốc và săn sóc ban đầu; sau cùng bà điều khiển các phụ nữ trong bếp và phòng giặt đồ. Cha Seitz cũng tìm được sự trợ giúp nơi các em lớn mà Ngài đã hết sức kiên nhẫn đào tạo, họ trở thành các huấn luyện viên, trưởng nhóm và trưởng nhà.

Cuối cùng Ngài có sự giúp đỡ vô cùng to lớn của các nữ tu, với sự tận tâm, lòng bác ái, và sự tế nhị không bờ bến. Ngài đã quen biết các nữ tu dòng Thánh Phaolô thành Chartres từ những năm đầu tiên trong sứ vụ của mình; Ngài cũng có sự trợ giúp của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá để lo cho công trình mà Ngài gọi là “Vườn trẻ”.

 Với tập thể này đang đi vào nề nếp, Ngài có thể tách mình ra khỏi công việc hàng ngày, cảm thấy bớt áp lực, và chỉ cần phải giữ vai trò điều hành tổng quát. Đã đến lúc sức khỏe của Ngài không được suy sụp! Cô nhi viện khiến Ngài lo lắng nhất, nhưng cũng cho Ngài rất nhiều niềm vui. Lo lắng, vì rằng, dù đã có 350 chỗ, nhưng tháng nào Ngài cũng phải từ chối khoảng 50 đến 60 đơn xin; và quan trọng nhất là phải kiếm cho ra 2 triệu quan Pháp mỗi tháng để bào đảm sống còn. Còn niềm vui, chính là do tinh thần rất tốt; “bọn nhóc”, theo cách Ngài gọi chúng, không hề dữ dằn.

Đơn giản là chúng chỉ thiếu một người cha và một người mẹ. Nếu như có thời gian để viết, thì có biết bao câu chuyện và khám phá tâm lý tôi có thể ghi lại! Nhưng mối lo cơm bánh hằng ngày đã át đi tất cả!”

Dẫu sao thì Ngài cũng đã có thể xây lại các công trình rộng lớn mà Việt Minh đã đốt phá, bắt đầu từ nhà nguyện, rồi tu sửa, xây dựng lại nhà bếp, bệnh xá, các xưởng thợ gần bên, dọn dẹp để cho ra đời các sân thể thao và thể dục. v.v.

Bất ngờ, một cú roi vụt ngang lưng Ngài, mạnh đến mức người khác chắc không thể chịu nỗi. Vị giám mục mới tỏ ý với Ngài rằng mình muốn đến thăm cô nhi viện mẫu mực này và Cha Giám Đốc đã vinh dự dẫn Đức Cha đi khắp mọi chỗ. Đức Cha Trịnh Như Khuê, sau khi đã quan sát và khen ngợi, ôn tồn nói với Ngài: “Căn nhà này rất thích hợp cho tiểu chủng viện của tôi!” Cha Paul Seitz đã bị sét đánh trong văn phòng của mình cách đây không lâu. Ngài đã thấy công trình trên núi Ba Vì, được xây dựng bằng đôi tay và mồ hôi của chính bản thân Ngài, bị Việt Minh cướp đoạt và phá hủy; Ngài đã bị đuổi từ nơi này qua nơi khác; Ngài vừa mới trùng tu xong cô nhi viện trong khu Nhà Lacordaire này, tốn biết bao mồ hôi nước mắt, xin xỏ; Ngài đã trải qua bao nhiêu ngày đêm để phục vụ những kẻ nghèo nhất trong các kẻ nghèo, các trẻ em mồ côi nạn nhân của chiến tranh … Vậy mà, vừa mới được tấn phong, đức Giám mục của Ngài đã đến để lấy lại ư”? … Ngài đã không nao núng trước cú đánh bất ngờ của người mới cách đây vài tháng còn là đồng đẳng của mình trong chức vụ chánh xứ. Không do dự, Ngài trả lời đơn giản:

“Việc đào tạo linh mục tương lai phải là mối lo đầu tiên của một giám mục. Con chỉ xin Đức Cha một năm để tìm chỗ ở cho các cậu bé của con.”

Khi Cha Seitz kể lại chuyện này với phụ tá của mình, Cha Faugère, phản ứng đầu tiên của ngài là sựphẫn nộ, gần như là nổi loạn. Cha Faugère nói đại ý, ông Đức cha này thật cả gan dám đòi lại cơ sở mà các thừa sai đã nhận trong khi ai cũng chê; bây giờ mình đã tốn biết bao tiền của công sức để sửa sang và xây dựng; cuối cùng các trẻ mồ côi mới có những điều kiện thể chất và tinh thần tốt như thế này. Nhưng Cha Seitz trả lời rằng phải nhìn lợi ích tối thượng của địa phận, và nếu Chúa Quan Phòng muốn công việc mình được tiếp tục, Chúa sẽ tìm cho các em một giải pháp còn tốt hơn hiện tại.

Vậy là trước hết, người ta yêu cầu các em làm một tuần cửu nhật cầu nguyện với Thánh Têrêxa, Bổn Mạng của viện, sau đó quyết định tổ chức một cuộc hội chợ mới để kiếm tiền, bởi cuộc hội chợ lần trước đã thành công tốt đẹp. Cha Seitz giao việc chuẩn bị hội chợ lần này cho ông Nguyễn Thoại, người đầu tiên được Ngài rửa tội ở Bắc Bộ, người đã giúp Ngài ở Ba Vì, sau đó theo Việt Minh, rồi về làm việc cho sở chống gian lận. Giám đốc của ông xác nhận: “Ông ta đã bỏ đầy túi, nhưng chẳng còn thấy gian lận đâu nữa!” Ông đúng là người thích hợp cho hoàn cảnh! Tòa đô chính đã cho phép dựng hội chợ tại trường đua của thành phố: một chỗ lý tưởng. Hàng chục quầy với đủ loại trò chơi và ở trung tâm, một cái rạp lớn là chỗ để giới thiệu nguồn gốc, lịch sử, cách thức hoạt động của cô nhi viện cùng với hình chụp, bản vẽ v.v. Cuối cùng sẽ có một cuộc xổ số với những phần thưởng giá trị được các nhà buôn ở Hà Nội tài trợ: giải nhất, một chiếc xe jeep Delahaye, giải nhì, 1 chiếc xe 2 C.V; các chiếc xe này chạy quanh thành phố để quảng cáo.

Những ngày đầu thành công lớn, khách đến rất đông, thu được nhiều. Nhưng sang ngày thứ ba hay thứ tư, một quả mìn nổ trong rạp trung tâm. Không có ai chết hay bị thương, nhưng hư hại nhiều. Tất cả các người tổ chức đều bàng hoàng và sợ rằng sẽ không ai dám tới nữa; nhưng Cha Seitz nói ngắn gọn: “Chắc đó không phải là phương thế Chúa Quan Phòng muốn giúp chúng ta đâu.” Chỉ còn cách phải gầy dựng lại tất cả…  Và người ta ùn ùn tham gia hội chợ càng ngày càng đông, đến nỗi phải kéo dài thêm một tuần lễ. Kiểm lại có 40,000 khách. Cả hai mục tiêu mà Cha Seitz đề ra đều đạt: – gây quỹ – và làm cho dân chúng biết đến công trình mang tên Thánh nữ Têrêxa.

[1] Ông Thảo : một người cộng sự trung thành của cha Seitz. Ông có chuyến đi Pháp, và Cha đã ủy thác cho ông một số công việc trong gia đình Cha.

Download file nghe: Chương V

 **************************************************************

CHƯƠNG VI
LINH MỤC QUẢN HẠT HÀ NỘI,
BỀ TRÊN HỘI M.E.P. MIỀN ĐÔNG DƯƠNG
(1951-1952)


Tháng 3 năm 1951, vị tân giám mục người Việt đã bổ nhiệm một linh mục người Việt làm tân chánh xứ nhà thờ chính tòa Hà Nội, như vậy cha Seitz đỡ được gánh nặng – một điều thật tốt cho Ngài. Nhưng Ngài nhận tước hiệu “quản hạt”, có nơi cũng gọi là “niên trưởng” hay như ngày nay là “đại diện giám mục”, với nhiệm vụ có thể gọi là giám sát 5 họ đạo trong thành phố; việc này nhẹ nhàng hơn là coi sóc trực tiếp một họ đạo.

Ngoài ra, chẳng bao lâu sau đó, Ngài được anh em trong Hội Thừa Sai Paris bầu làm “bề trên miền Bắc Đông Dương”, nghĩa là Ngài có trách nhiệm đối với tất cả các vị thừa sai của bốn giáo phận Hà Nội, Hưng Hóa, Thanh Hóa và Vinh, phối hợp với các giám mục địa phương và tuân chỉ các quy tắc được ghi rõ ràng trong bộ giáo luật, cũng như các chỉ thị của đức Giáo hoàng. Chức vụ này, tương đương với chức “bề trên tỉnh hội”, vừa được lập ra, và Ngài cũng chưa biết rõ phải thi hành chức vụ đó như thế nào, ngoài việc là Ngài có các trách nhiệm mới, sẽ khiến Ngài phải rời xa công trình thân thiết của mình, và như thế Ngài chỉ có thể theo dõi nó từ xa. Công trình ấy vẫn đang rất cần Ngài, vì đang trong giai đoạn trùng tu và xây dựng; nhưng hoàn cảnh này chẳng phải là cũng giống như những lần trước, ngay từ lúc khởi đầu, cách đây gần 10 năm sao? … Những hy sinh lớn lao luôn là phần số của tất cả các nhà sáng lập! Ngài cũng không là ngoại lệ!

Tình trạng mất an ninh trong nước vẫn tiếp diễn, và hơn bao giờ hết, ở ngay ngưỡng cửa thành phố, thậm chí trong trung tâm, vì kẻ thù đang len lỏi vào tất cả các guồng máy, nhờ vào các tay theo chủ nghĩa dân tộc và những kẻ chống Pháp, chúng không ngừng xách động và thi đua lập thành tích. Hà Nội gần như bị Việt Minh bao vây, và không thể ra khỏi thành phố nếu không có quân đội hộ tống. Các cuộc phục kích lén lút xuất hiện khắp nơi, khí giới ngày càng tinh vi từ biên giới Trung Quốc đổ qua, và miền Bắc Bắc Bộ đã rơi vào tay chúng. Hoa Kỳ, thời gian qua đã không ngừng vận động âm thầm để làm cho Pháp mất dần thuộc địa, bắt đầu nhận ra sai lầm của mình và thấy rằng, nếu Pháp bị đuổi khỏi Việt Nam, họ sẽ mất hơn là được; nhưng sự can thiệp trực tiếp của họ quá chậm trễ. Tháng 10 năm 1950 rồi tháng 1 năm 1951, Việt Minh tổ chức những cuộc tấn công quy mô để chiếm Hà Nội. Tướng De Lattre de Tassigny, vừa đến nhận nhiệm vụ, đã tổ chức phản công và cứu được đồng bằng sông Hồng, nhưng súng đại bác vẫn nổ rền, và mặt trận chỉ còn cách thủ đô 30 cây số.

Điều đó không ngăn cản Cha Seitz bắt đầu, như chẳng có chuyện gì xảy ra, đi kiếm cho được một chỗ mới để đưa con cái Ngài từ Nhà Lacordaire về càng sớm càng tốt. Ngài tìm ra trên đường đi Hà Đông, một khoảnh đất khá rộng, chung quanh có nước, và Ngài cam đoan sẽ trả tiền trong vòng 6 tháng, mặc dù lúc ấy Ngài không một xu dính túi. Ngài hy vọng có thể thực hiện được dự án mà mình đã ấp ủ lâu nay, “Thị xá Ki-tô Vương”: một loạt nhà biệt lập cho con cái của Ngài sống thành từng gia đình, bao quanh một nhà nguyện rộng rãi; phía sau là các xưởng thợ kiểu như Ngài đã xây dựng ở những chỗ khác, rồi nhà ở cho các nhân viên và các cha thừa sai, cùng các dịch vụ phụ trợ. Ngài bắt tay ngay vào việc, nhờ công binh bắc một cây cầu vững chắc, xe cộ có thể cho qua lại được, thay thế cây cầu khỉ hiện tại, trình bày các sơ đồcủa mình cho cha Vacher, người sẽ thực hiện trong một thời gian kỷ lục. Chúa Quan Phòng, Đấng luôn tuôn tràn đầy hồng ân, tạm thời ban cho Ngài lâu đài của vị cựu phó vương vùng Bắc Bộ ở gần đó, lâu đài này hiện chỉ có một người canh gác đang ở: Ngài đã xếp đặt chỗ này thành nơi cư trú cho các nữ tu và vườn trẻ, cùng với một số nhân viên; trong khi chờ đợi tình hình khá hơn, ngài ở chung với bọn trẻ, trong các lều trại mượn tạm của người ta.

Sự giúp đỡ của tướng De Lattre rất quí giá. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên với vị tướng này, cũng giống như với tướng Leclerc trước đây, hai người đã cảm thấy quý trọng nhau. Ngài được hai ông bà De Lattre mời đến dùng bữa nhiều lần. Vị cao ủy và tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Việt Nam hỏi han Ngài nhiều về tình hình đất nước, về người Pháp đang lập nghiệp trong vùng, về người dân bản xứ, về chính quyền dân sự, về các tôn giáo khác nhau, về các giám mục tại Bắc Bộ nữa, vì vài vị hình như đang chơi trò nguy hiểm là hợp tác với “quân giải phóng” (trong ngoặc kép), của Đông Dương.

Tướng De Lattre rất quan tâm đến công trình dành cho trẻ mồ côi. Ông hứa sẽ viếng thăm cô nhi viện Têrêxa, ông thường hỏi thăm về tiến trình xây dựng, ghi nhận các khó khăn, và đề nghị giúp đỡ. Một ngày kia trong cơn khốn quẫn, cha Seitz đã không ngần ngại: ông tướng có thể can thiệp giúp Ngài nhận được bồi thường về những thiệt hại chiến tranh Ngài đang chờ đợi cho những công trình bị Việt Minh phá hủy ở Ba Vì không? Hai ngày sau, ông tướng ra lệnh cho các phòng ban có thẩm quyền chuyển gấp cho ngài 17 triệu quan Pháp. Các phòng banđồng loạt phản đối! Vì chẳng có hồ sơ nào về vụ việc này cả; cha Seitz cũng chưa làm đơn; về mặt thủ tục, theo quy định, không thể xuất tiền cấp tốc như thế được. Nhưng lệnh của vị tướng đáng sợ đã được ban ra. Vậy là qua một đống giấy tờ hành chánh được điền, và vài buổi tối thức khuya hoàn tất hồ sơ, mọi nợ nần đã được… tạm thời giải quyết!

Cái chết của trung úy Bernard de Lattre

Nhưng rồi một thảm họa đã đổ xuống trên gia đình của hai vợ chồng tướng De Lattre de Tassigny. Trong một cuộc tấn công dữ dội của Việt Minh vào Ninh Bình và các giáo xứ công giáo thuộc đồng bằng sông Hồng, trung úy Bertrand de Lattre, người con duy nhất của họ, đã tử trận ngày 30 tháng 5 năm 1951, khi chỉ huy một đơn vị phản công. Quân địch đã bị đẩy lui, để lại 100 xác chết, và chừng ấy tù binh. Cácthi thể của người Pháp đã được gom lại và đưa về Hà Nội. Phản ứng đầu tiên của ông tướng là tìm ngay cha Seitz; các binh sĩ giao liên đã được phái đi tìm Ngài khắp thành phố. Ngài vội vàng chạy đến và đã ban phép lành cho người tử sĩ. Ngày 1 tháng 6 năm 1951, ông tướng đã dùng máy bay chở linh cữu con mình về Pháp và qua đó làm lễ truy điệu quốc gia cho tất cả những người lính đã tử trận tại Đông Dương.

Một tháng sau, cha Seitz được mời thuyết giảng trong thánh lễ tang 30 ngày. Báo chí thuật lại: Trong một bầu không khí trang nghiêm, một thánh lễ đại trào tưởng niệm Trung úy Bertrand de Lattre cùng đồng đội đã được cử hành tại nhà thờ chính tòa Hà Nội. Đúng 2 giờ trưa, thủ tướng Trần Văn Hữu (ông Trần Văn Hữu giữ chức thủ tướng từ năm 1950 đến 1952, dưới thời quốc trưởng Bảo Đại – ND), có ngài Đặng Hữu Chi, thủ hiến Bắc Phần, tháp tùng, đã đến nhà thờ, trước tướng De Lattre vài phút, với sự tháp tùng của tướng Linares, cao ủy của Cộng Hòa Pháp tại Bắc Phần, và tướng Cogny, chánh văn phòng quân sự.

Trong gian giữa nhà thờ, màu đen giăng khắp, giữa một đám đông chật ních, người ta nhận thấy có đông đủ các nhà ngoại giao, các chính khách và các sĩ quan quân đội của Đông Dương. Các phái bộ ngoại giao Anh và Mỹ cũng đến đầy đủ, từ Sài Gòn ra tham dự, không những để chía sẽ, bằng sự hiện diện của mình, nhân danh chính phủ, cái tang ác nghiệt đã giáng lên đầu thân phụ của trung uý Bernard de Lattre, mà đồng thời cũng để tôn vinh một tấm gương hy sinh, biểu tượng cho tất cả những hy sinh mà nước Pháp đã bỏ ra cho nền độc lập của Việt Nam. Thánh lễ được Đức Cha Trịnh Như Khuê, đại diện tông toà Hà Nội, cử hành, cùng đồng tế với toàn thể các linh mục thuộc giáo phận. Trong buổi lễ, cha Seitz, giám đốc cô nhi viện thánh Têrêxa, đã thuyết giảng như sau:

Thưa đại tướng, cách đây một tháng, khi tôi được ngài gọi đến bên thi thể đẫm máu của con trai, để ban phép lành chính thức đầu tiên của Giáo Hội – phép lành, mà theo phản ứng của một người công giáo, ngài đã ngay lập tức yêu cầu – tôi nghĩ rằng trong nỗi đau thống thiết và riêng tư tại phòng tang lễ đó, tôi không cần phải nói lời nào ngoài những lời kinh dâng lên Chúa. Lúc ấy, không có gì thích hợp hơn sự thinh lặng, bởi nó cũng là một thứ ngôn từ.

Nhưng trong thánh lễ trọng thể nhân dịp 30 ngày hôm nay, với sự hiện diện của biết bao nhân vật quan trọng, cùng một cộng đoàn đông đảo và nghiêm trang, tôi nghĩ rằng mình có nhiệm vụ phải công khai bày tỏ những tâm tình mà tất cả chúng ta cùng cảm nhận sâu xa.

Kính thưa quý khách, thưa Thủ tướng, các bạn hữu thân thiết, ngày 30 tháng 5 vừa rồi, ở Hà Nội, rồi trên khắp nước Việt Nam, và xa hơn nữa ngoài biên giới, tin Trung úy Bertrand de Lattre tử trận đã được loan truyền nhanh chóng như một đám cháy. Nhiều người đã rất ngạc nhiên, bởi bây giờ mới vỡ lẽ:  họ không hề biết rằng người con của đại tướng là một chiến binh hàng đầu giữa các chiến binh; đối với mọi người, đây là một xúc động không nói nên lời và, từ mọi phía, tự động vang lên những lời tán dương khâm phục.

Tại sao vậy? Ngày nào mà chẳng có những người lính anh dũng hy sinh? Và biết bao người cha, người mẹ, người vợ và người yêu, âm thầm, không ai biết đến, cũng đã phải thương khóc? Có phải vì lòng kính trọng nhắm vào bản thân đại tướng, chức vụ cao quý ông đang nắm giữ và sự nghiệp hiển hách của ông? Tất nhiên rồi! Không nghi ngờ gì về điều đó! Nhưng còn có điều sâu xa hơn thế trong việc đồng thanh tôn vinh và cảm thông sâu sắc này. Đó là mọi người đã cảm nhận có một làn hơi đang thổi qua mình, làn hơi rất tinh khiết và có sức thanh luyện của một tấm gương và một sự hy sinh mang tính cách cao cả đặc biệt. Ở đây, chẳng ai lầm lẫn. Sự hy sinh của viên trung úy trẻ này không thể không được biết đến: nó lập tức khoác một giá trị chứng tích.

Anh là người con duy nhất, thân phụ anh không thể phòng giữ cho anh sao? Ông không có quyền ấy sao? Có ai dám chất vấn về một hành vi có tính nhân đạo như thế, về một cách ứng xử hoàn toàn có thể biện bạch như thế? Bởi vì đã hơn 20 tháng rồi, vị sĩ quan trẻ tuổi này luôn đối mặt với gian khổ, hiểm nguy, không kể những năm dài chiến tranh trước đó? Anh đã phục vụ đủ rồi! Anh đã nêu gương rồi. Chỉ còn vài tuần nữa là được hồi hương, anh có thể rút lui.

Nhưng thân phụ anh đã không muốn như thế, bởi có những truyền thống về tinh thần thượng võ và lương tâm trách nhiệm lớn lao không thể nhân nhượng, cho dù với những đòi hỏi rất chính đáng của con tim. Một bài học quý giá biết bao cho tất cả những ai, khi có chút quyền thế trong tay, lại muốn sử dụng nó cho những mục đích cá nhân!

Tuy nhiên, xin quý vị biết chắc điều này: giả như, vì hoàn cảnh đặc biệt, cậu có thể được hưởng một chế độ ngoại lệ, thì Trung úy Bernard de Lattre, sẽ mạnh mẽ phản đối: không bao giờ, không bao giờ cậu ấy sẽ chấp nhận. Biết bao lần những người bạn thân thiết của cậu đã nghe cậu nói, vừa cương quyết vừa như đùa:“Mình đâu muốn người ta chỉ nói về mình như thằng con ông đại tướng.” Câu nói nghịch lý này cho thấy cậu ấy đặt nặng vấn đề danh dự như thế nào. Cậu ấy cũng nghĩ: “Chừng nào mình chưa cho hết, thì coi như mình chưa cho gì cả.” (…)

Dù chúng ta là ai, chiến binh hay không, người Pháp hay người Việt, xin hãy biết cho rằng điều làm nên giá trị của cuộc sống, điều đem lại vinh quang và uy tín cho một đất nước, đó chính là cảm thức về danh dự, về lòng trung thành với nhiệm vụ, về việc tận tâm cống hiến và hy sinh đến cùng, giống như các chiến binh tử trận đã thể hiện. Như thế, thật là cao đẹp, và tôi muốn nhấn mạnh điều ấy, bởi Trung úy Bertrand de Lattre từ nay sẽ là hiện thân của một tấm gương trong sáng cho giới trẻ Việt Nam noi theo, cậu ấy đã ngã xuống vì công cuộc giải phóng Việt Nam.

Xuyên qua bài giảng tán dương này, đó là tâm hồn của chính diễn giả, ánh lên sự trong sáng, lòng nhiệt thành, tình yêu của Ngài dành cho nước Pháp và Đông Dương, cả hai, đối với Ngài, chỉ là một, và nhất là tình yêu Thiên Chúa.

Cha Seitz cũng không dấu được lòng kính trọng của Ngài đối với tướng De Lattrre: Chẳng những ông đã cứu chúng ta, ông còn làm một điều còn quý giá hơn, ông đã đem lại cho chúng ta niềm hãnh diện làm người Pháp. Tôi đã vinh dự được đại tướng nhiều lần mời đến nhà dùng bữa. Tất cả những ai đến gần ông đều nhận ra nơi ông những đức tính cao đẹp của một vị danh tướng: thông minh trong hành động, sức làm việc phi thường, và đầy cá tính. Tất cả mọi người, Pháp cũng như Việt ở Đông Dương, đều đồng ý rằng: nếu không có ông, Đông Dương chắc hẳn đã bị mất. Chỉ còn một điều mong ước cần phải nói ra: mong ông hãy trở lại hoàn tất nhiệm vụ ở đây.

Thật vậy, Tướng De Lattre đã ra đi; ông sẽ không quay lại: ông qua đời mấy tháng sau vì bệnh ung thư. Đó sẽ là một mất mát lớn lao cho Cha Seitz, nhưng trên hết, cho tất cả những biến cố tiếp theo ở Đông Dương.

Thị xá Ki-tô Vương

Công cuộc xây dựng cô nhi viện vẫn tiếp tục, mặc cho chiến tranh. Với niềm hăng say và tinh thần siêu nhiên sẵn có, cha Seitz nhận ra rằng việc đức giám mục lấy lại Nhà Lacordaire không hề là một thảm họa, nhưng là một vận hội mới để tiến lên phía trước, để hoàn thiện các kế hoạch của mình, mà dường như cũng là các kế hoạch của Chúa.

Ngài vừa là kiến trúc sư, nhà thầu, đốc công, phu chạy việc, người đi xin xỏ chỗ này chỗ nọ. Tướng De Lattre, hôm trước khi bay về Pháp để không bao giờ trở lại, đã ra lệnh lắp một chiếc cầu sắt dài 30 mét và trọng tải 12 tấn để mở đường vào khu đất; lực lượng công binh đã bắc xong chiếc cầu ấy trong vòng 48 tiếng đồng hồ, và Cha Seitz đã khui sâm banh ăn mừng với họ ngay trên chiếc cầu mới hoàn thành. Ngài lợi dụng khoảng thời gian này trời không mưa để dựng các ngôi nhà tạm, bởi chỉ có thể xây dựng hoàn chỉnh Thị xá Ki-tô Vương một khi toàn bộ khu đất đã được đổ nền. Các phân xưởng khác nhau của công trình – bây giờ đã có cả trăm thợ học việc – thực hiện đa số các công việc và bọn trẻ cũng góp tay vào, trong kỳ hè, dưới sự hướng dẫn 2 phụ tá của Ngài và khoảng một chục chủng sinh, khiến cho mọi việc đều xuôi chảy. Ai nấy cũng hân hoan, tự hào và vui vẻ vì được góp công vào việc xây dựng Thị xá của mình dưới sự lãnh đạo của một người Cha như thế.

Chỉ thoáng một thời gian ngắn, bao quanh một ngôi nhà nguyện, mà phía trên cung thánh có ghi hàng chữ thật lớn “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”, là một loạt 16 căn nhà xếp theo hình cánh quạt, vươn lên từ mặt  nước, tường trát vôi và sơn màu nâu vàng, với cửa sổ màu xanh lá, mái lợp ngói tàu, có đầy đủ nhà bếp và nhà vệ sinh, mỗi căn dành cho một “gia đình” gồm 30 em; nằm giữa một khu vườn nhỏ; một anh lớn đảm nhận vai trò gia trưởng; có ba thầy kiểm tra tổng quát.

Đó là một tổ chức độc nhất vô nhị: “nước cộng hòa của trẻ em”.

Tuy nhiên, cha Seitz cũng biết rõ rằng tất cả những gì Ngài đang thực hiện có nguy cơ sẽ biến mất nay mai, vì tình hình chiến tranh ngầm và độc hại do Việt Minh không ngừng khuấy động. Nhưng Ngài vẫn theo nguyên tắc: không cần phải hy vọng mới dám làm, cũng chẳng cần phải thành công mới kiên trì. Tuy vậy, những lý do thực sự để lo lắng vẫn còn đó. Ngài quả quyết :

Nhưng con đã từ lâu gạt bỏ tất cả những bất trắc này. Con sẽ tiếp tục đến giây phút cuối cùng – và xa hơn thế nữa. Mỗi người có một nghề: nghề của con là yêu thương, là làm chứng. Thành công ư? Kết quả ư? Thậm chí con còn không nghĩ đến tương lai. Con đang sống phút giây hiện tại và như vậy là đủ. Những giây phút tuyệt vời. Loài người đang quay cuồng một cách thật thảm hại: nỗi sợ hãi, lòng hận thù, cơn điên khùng tập thể như đang cuốn họ vào trong một cơn lốc vô phương tránh thoát; có vẻ như đây là giờ của quyền lực tối tăm. Chúng ta đang đi về đâu? Một câu hỏi vô duyên, bởi vì hơn lúc nào hết, đây là giờ của tình yêu và hy sinh. Con cảm nhận và phân biệt rõ điều đó: đây là giờ của ánh sáng. Phải chọn lựa. Con đã chọn lựa. Con đang sống trong an bình và niềm vui, chẳng lo lắng chi về ngày mai, bởi chỉ có Chúa là Chủ Tể của ngày mai.

Ngài kết thúc bức thư vào ngày 26 tháng 2 năm 1952 cho thân phụ vớitin báo rằng vì công việc và trách nhiệm quá nặng nề, chắc Ngài không thể trở về Pháp trong năm, dù Ngài rất ước ao gặp lại gia đình, và dù gia đình còn ước ao gặp Ngài hơn nữa. Đã nhiều năm rồi, chuyến đi hội ngộ cứ bị dời hoài. Không biết bao giờ Ngài mới thực hiện được nó đây? …

Lúc này Ngài xông vào việc tổ chức Miền Thừa Sai theo như chỉ thị của Nhà Mẹ. Ngài có bổn phận thi hành quyền lãnh đạo và tác động tinh thần trên 60 vị thừa sai đang phục vụ trong các giáo phận miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra, Ngài còn phải đóng vai trò đại diện cho Cha Bề Trên Cả và làm “đệm lót”, theo như Ngài nói, với các giám mục địa phương.

Nhiệm vụ này buộc Ngài phải di chuyển nhiều, bao lâu còn có thể trên những con đường đầy ổ phục kích; đôi lúc Ngài cần được xe quân sự hộ tống; nhưng sự can trường của Ngài chỉ có thể so sánh được với niềm tín thác vào Chúa Quan Phòng, và Ngài biết chắc sẽ chẳng có gì xảy ra cho mình nếu Chúa không cho phép.

Dù mang những nhiệm vụ mới và đứng ở vị thế mới, Ngài vẫn sống đạm bạc và hãm mình trong sinh hoạt hằng ngày: như bấy lâu nay, Ngài vẫn ở trong căn lều mượn tạm của quân đội, chung với các cộng sựviên, đang khi chờ đợi căn nhà dành cho Ngài xây xong; tuy nhiên, Ngài dùng bữa trong một căn phòng của tòa lâu đài bên cạnh mà vị cựu phó vương cho cô nhi viện mượn.

Chính tại nơi này, một bữa tối tháng 6 năm 1952, các cộng sự viên rất ngạc nhiên thấy Ngài có vẻ rã rời, điều không bình thường với Ngài chút nào, ngay cả những khi Ngài có nhiều lo lắng, về tài chính hay vấn đề gì khác. Ngài ủ rũ, trả lời nhát gừng, chỉ ăn sơ sài và đem phần thịt của mình cho mèo. Có chuyện gì vậy? … Ngài bệnh ư?  … Hay có người thân nào đó qua đời? …

Vì ai cũng biết Ngài không thích than thở, và lại càng không thích kẻ khác sụt sùi xót xa cho mình, nên chẳng ai dám hỏi.

Download file nghe: Chương VI
***************************************************

CHƯƠNG VII
ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA GIÁO PHẬN KONTUM
(1952-1954)


Tới ngày 1 tháng 7 năm 1952, Cha Paul Seitz mới có thể chính thức thông báo cho những người thân thiết biết sở dĩ mình rã rời là vì trời sập: Đức Thánh Cha Piô XII đã yêu cầu Ngài nhận trọng trách làm Đại Diện Tông Tòa giáo phận Kontum, một tỉnh miền Nam-Việt Nam, cách Hà Nội gần 1,000 cây số.

Sau giây phút sững sờ, các cộng sự viên của Ngài ào ào vỗ tay và vui mừng la hét – nhưng rồi bầu khí cũng mau chóng dịu lại khi họ nhìn ra mặt trái của sự việc: họ sẽ mất Ngài, người là tất cả cho ngôi nhà này … Không thể như vậy được? Họ sẽ ra sao đây?… Ngài có thực sự chấp thuận không?

Bấy giờ, Ngài đọc cho mọi người bức điện tín ngài nhận được trong bữa ăn tối hôm 30 tháng 6, lễ thánh Phaolô – bổn mạng của Ngài:

HỒNG Y FUMASONI[1] THÔNG TIN CHA ĐƯỢC BỔ NHIỆM LÀM GIÁM MỤC HIỆU TÒA CATULA[2], ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA GIÁO PHẬN KONTUM – STOP – CHÚC MỪNG – STOP – YÊU CẦU ĐIỆN BÁO CHẤP THUẬN – STOP.  KÝ TÊN. DOOLEY[3].

Một tấm màn đã phủ xuống cuộc đời Ngài. Lần này thật nặng nề, rất nặng nề. Đêm sau khi nhận được bức điện, Ngài gần như thức trắng; Ngài buồn và lo âu đến nỗi không chợp mắt; nhưng Ngài quá biết mình phải trả lời đồng ý. Đó là một mệnh lệnh, và Ngài không thể thoái thác. Ngày hôm sau, Ngài điện báo chấp nhận. Với cái chết trong lòng.

Bức màn đã phủ xuống, mãi mãi, trên công việc đầy đam mê của Ngài trong suốt 15 năm. Ngài phải rời bỏ tất cả … Một lần nữa … Rời bỏ nơi mình thân quen, và nơi mọi người đều biết Ngài. Rời bỏ các tín hữu mà mình nói được tiếng nói, rời bỏ nhóm anh em đồng nghiệp đã từng cùng với mình đồng lao cộng khổ. Rời bỏ con cái, những đứa con thật đáng thương và đáng yêu, mà vì chúng, từ 10 năm nay, mình đã chiến đấu và chịu biết bao khổ ải!… Ngài viết cho thân phụ như sau:

Nếu như cha thấy được, chiều hôm ấy, khi con kêu hết bọn trẻ lại và báo tin này cho chúng …: một sự im lặng chết người, những giọt nước mắt, một nỗi buồn vô hạn: chúng lại sắp trở thành mồ côi lần nữa! Tội nghiệp bọn trẻ quá!

Nhưng con phải đi, con phải vâng lời … Con thật buồn! Và ngày mai, bức màn sẽ mở ra một chân trời xa lạ, trống trải cho con, ít nhất là vào lúc này …

Nhưng Kontum hay Kon Tum là cái gì, Ngài hoàn toàn không biết gì về nó? Kon là “làng” và Tum là “hồ”:  đó thật ra là một ngôi làng to bên bờ một hồ nước lớn. Nằm ở cao độ 500 mét, lúc này nó chỉ là một thị trấn nhỏ với khoảng 5 tới 6 ngàn dân, nằm giữa một hạt Đại diện Tông tòa rộng lớn: một vùng núi mênh mông và hoang dã rộng 70.000 km2, che phủ bởi rừng nguyên sinh và những trảng cỏ dài hút mắt, cư dân ở đây là những bộ lạc còn rất sơ khai : “Người Mọi”.

Trong quyển sách của cha Dourisboure, Les Sauvages Bahnars (đã được dịch sang tiếng Việt với tựa đề “Dân Làng Hồ”, chú thích của ND), vị tân Giám mục đọc thấy rằng chỉ từ năm 1851 – vừa đúng một thế kỷ – các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (M.E.P.) mới len lỏi vào được xứ này, và đã phải trải qua biết bao hy sinh gian khổ, mạo hiểm phiêu lưu quá sức tưởng tượng, kể cả tử vì đạo. 80 năm sau, vào năm 1932, một “địa hạt Đại diện Tông tòa” được thành lập, với vị Đại diện Tông tòa đầu tiên là Đức Cha Martial Jannin như một biểu tượng; lúc đó ngài đã 66 tuổi, với 42 năm sống đời thừa sai. Với sự khôn ngoan của một nông dân, tính kiên nhẫn của loài kiến, năng khiếu của một nghệ nhân, tài nghệ của một kỹ sư bách khoa, cộng với sự kiên trì không lay chuyển trong tất cả những ý kiến của mình, ngài vừa là mục tử, vừa là thầy giáo, nhà văn, thợ cơ khí, và thợ điện – ngài đã chế ra máy thủy lực để giã gạo, khiến cho người Thượng phải kinh ngạc- ngài đồng thời cũng là kiến trúc sư – nhà thầu và đã xây dựng ngôi trường đầu tiên để đào tạo các giáo lý viên người Bahnars, những người này sau đó sẽ quay về giảng đạo cho các bộ lạc còn sơ khai của mình. Ngài cũng là người xây dựng tiểu chủng viện đầu tiên của Kontum, một kiệt tác nhà sàn với 2 lầu và dài 100 m, hoàn toàn bằng gỗ và đất. Đức Cha Seitz sau này sẽ rất ngưỡng mộ công trình ấy.

Năm 1941, Đức Cha Sion, cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris (M.E.P.), kế vị ngài; Cha Paul Seitz là vị giám mục thứ 3, nhưng sau 2 năm trống tòa – trong một bối cảnh thật tế nhị.

Ngài không biết gì, hoàn toàn không biết gì về xứ sở phía tây giáp với Lào và Cam Bốt này, không biết gì về những vấn nạn đang đặt ra cho hoạt động tông đồ, về ngôn ngữ của dân địa phương, vì tiếng nói ở đây hoàn toàn khác với thứ tiếng đang được sử dụng ở Miền Bắc, cũng chẳng quen ai trong số các thừa sai đang hoạt động trong vùng, trừ một vài anh em cùng thuộc chủng viện ngày xưa ở đường Du Bac. Ngài hoàn toàn xa lạ, và Ngài thú nhận cảm thấy rất lo lắng, vì được đưa đến đây với trách nhiệm nặng nề là cai quản hạt Đại diện Tông tòa này.

Nhưng những lo lắng này cũng được vơi đi nhờ niềm xác tín rằng chính Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt mọi sự. Tất nhiên, Ngài sẽ còn phải gắng công làm việc và chịu nhiều gian khổ; nhưng chính Ông Chủ mùa gặt đã sai Ngài đi, thì chính Người sẽ khiến cho những cố gắng của Ngài sinh hoa kết trái. Cũng vì tin tưởng như thế, nên Ngài bớt buồn và lo lắng: Ngài không còn gì phải e ngại, chỉ cần vâng lời và bước theo Đức Ki-tô. Ngài viết cho gia đình:

“Con xin mọi người cầu nguyện cho con, con người tội nghiệp mà Chúa đã chọn. Thật là đáng sợ, đúng thế. Xin cả nhà hãy giúp con bằng lời cầu nguyện.”

Và để kết thúc bức thư, Ngài cho biết năm đó Ngài cũng không thể về Pháp nghỉ hè được…

Bây giờ Ngài phải chuẩn bị cho lễ tấn phong giám mục, sẽ được tổ chức tại nhà thờ Chính tòa Hà Nội vào ngày 3 tháng 10, và đồng thời, trước khi lên đường, Ngài phải thanh toán các món nợ và giải quyết một số các cộng việc khác, bắt đầu từ việc quản trị Nhà Ki-tô Vương. Ngài đã ưu tư về vấn đề này một thời gian rồi và đã liên lạc với các cha dòng Don Bosco, dòng có sứ mạng hoạt động về lãnh vực này. Các cha thừa sai khởi đầu các dự án, và khi đã hoàn thiện, thì mời các chuyên gia đến thay thế. Tuy lúc đầu hơi do dự vì thiếu nhân sự để sai đi, nhưng khi Cha Seitz được bổ nhiệm làm giám mục thì các cha dòng Don Bosco lại được đốc thúc mạnh mẽ và đã phải chiều theo ý Chúa Quan Phòng: các ngài hứa sẽ đến ngay khi có thể và cuối cùng thì các ngài đã có mặt đúng vào ngày lễ tấn phong.

Đức tân giám mục đã chọn ngày 3 tháng 10, để tiến hành nghi lễ tấn phong nhằm tôn vinh thánh Têrêxa, vì đó là ngày lễ kính thánh nữ. Quả là thích hợp, việc vị thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, người mà cụ thân sinh, ông Martin, gọi là “Nữ hoàng bé nhỏ” của mình, và cũng là Nữ hoàng của Cô nhi viện, chủ trì cho buổi lễ tấn phong của người sáng lập.

Cũng ngày hôm ấy, vị Cao ủy đại diện Nước Pháp, đồng thời là chỉ huy lực lượng quân đội Bắc kỳ, tướng Linares, đã có một cử chỉ thật hào phóng: tặng vé máy bay Paris-Hà Nội cho Ông Cố Seitz và người con gái, cô Annette, để họ có thể hiện diện bên cạnh người con và người anh trong dịp đặc biệt này. Vài ngày trước buổi lễ, người ta thấy bước ra khỏi máy bay Skymaster của Air France một người đàn ông đẹp uy nghi như một nhân vật trong Cựu Ước với bộ râu bạc và dài. Đó là chuyến bay đầu tiên trong cuộc đời của ông, vào tuổi 78. Ai cũng đoán được cuộc hội ngộ với Paul đầy cảm xúc thân thương đầm ấm biết dường nào. Đã 6 năm xa cách! Tất nhiên, ai cũng đã thay đổi: Ông Cố Seitz, lưng đã hơi còng và trán đã ít nhiều bị hói. Về phần người con, sắp bước sang tuổi 46, tuy trán cũng hói như ông cố, nhưng bộ râu tỉa ngắn thì vẫn đen mun, và với dáng người thon gọn, Ngài còn đi đứng nhanh nhẹn như một thanh niên.

Được rước long trọng về Thị xá Ki-tô Vương, Ông Cố Seitz và Cô Annette đi ngang qua một hàng rào gồm 450 cậu bé đang vỗ tay reo hò; những bó hoa tươi, rồi ca nhạc vang rền, diễn văn chào đón: họ không thể ngờ mình lại được đón tiếp chẳng khác chi những nhân vật quan trọng! Cô Annette đã nhanh chóng chiếm được trái tim của bọn trẻ mồ côi, em nào cũng đều muốn ôm Cô như ôm một người mẹ mà chúng không còn nữa, hay như là người cô của chúng: Cô Annette chẳng phải là Chị của Cha chúng sao?

Nhà thờ chánh tòa Hà Nội đã được trang trí thật huy hoàng đẹp đẽ chuẩn bị cho lễ tấn phong. Đức Cha John Dooley, khâm sứ Tòa Thánh, đã mau mắn nhận lời làm chủ phong và đã mời tất cả các giám mục trong các nước thuộc Liên bang Đông Dương cùng đến thủ đô Bắc Kỳ để tham dự.

Người ta thấy ở các hàng ghế đầu, cạnh Ông Cố Edouard Seitz và Cô Annette, cả hai đều rất cảm động, tướng Linares và các quan chức cao cấp nhất trong thành phố cũng như trong vùng: ông Phạm Văn Bính, thủ hiến Bắc Kỳ; ông Phó chủ tịch Hội đồng Chính phủ trung ương Việt nam và nhiều nhân vật khác ; nhóm các bạn bè và nhà hảo tâm cũng có mặt, dù hôm đó không phải ngày nghỉ, họ sung sướng và hãnh diện khi thấy người ta tôn vinh vị linh mục khiêm tốn này, người bạn của tất cả, người đã biết lôi cuốn về phía mình những bậc vị vọng cao sang, nhưng nhất là những kẻ bé nhỏ nhất, bị ruồng bỏ nhất, khổ sở nhất trong số các trẻ em ở đất nước này.

Tất nhiên các em cũng có mặt! 450 em trong bộ đồng phục trắng và xanh lơ, kinh ngạc nhìn thấy Cha Kim[4] đáng kính của chúng, đẹp đẽ và uy nghiêm, với phẩm phục và gậy, mũ giám mục và thánh giá trên ngực; chúng rất khó nhận ra người lao công mình mẩy đầy bùn và mồ hôi nhễ nhại vừa mới cách đây không lâu còn làm việc vất vả với chúng để cho chúng một mái nhà, vậy mà giờ đây lại đang ban phép lành trọng thể cho chúng.

Đức Khâm sứ Dooley, với một sự tế nhị sâu sắc, diễn tả niềm vui và sự hài lòng của mình khi được liên kết thật gần gũi với những biến cố trọng đại trong ngày hôm ấy, ngài chúc mừng vị tân Giám mục, người đã bỏ tất cả, gia đình, bạn bè, quê hương, để trở thành một cư dân trọn vẹn của thành phố Hà Nội, đã dâng hiến đời mình cho những người nghèo khổ nhất, những người bất hạnh nhất trong thành phố, quả thật, đối với họ Cha Seitz đã trở thành “người cha bằng vàng” – Cha Kim, – người đem lại cho họ một mái ấm với đầy đủ tất cả những gì mà thực thể này ẩn chứa.

Lúc này đây, Hà Nội đang chứng kiến một cảnh tượng thường chỉ xảy ra ở những vùng đất Ki–tô giáo kỳ cựu hơn là ở những xứ truyền giáo. Hà Nội gửi một trong các con của mình đến một miền truyền giáo mới. Công trình mà Đức Cha Seitz đã thực hiện ở thành phố này, Ngài sẽ chuyển giao cho người khác, để thi hành một nhiệm vụ khác mà Chúa vừa giao phó cho Ngài. Chúng ta có thể áp dụng dụng từng chữ trong đoạn này của Tân Ước: “Exsurgens, abiit in montana cum festinatione[5]”

Nhưng khi Ngài từ giã chúng ta, Ngài để lại, như tôi vừa đề cập, một công trình bất diệt: Cô nhi viện Thánh Têrêxa. Không ai nghi ngờ rằng trong sứ vụ mới của Ngài, một thành công tương tự sẽ chúc phúc và kết tinh những lao nhọc của Ngài, và người mục tử mới của Kontum có thể yên tâm rằng những lời nguyện xin, cũng như những lời cầu chúc nồng nhiệt nhất của tất cả chúng ta sẽ theo chân Ngài trên núi rừng Cao nguyên Trung phần, nơi đó, chúng ta ước mong Ngài cũng sẽ xây dựng được một công trình bất diệt làm sáng danh Chúa như Ngài đã thực hiện ở thành phố chúng ta.

Trong khung cảnh long trọng hôm nay, giữa lòng thành phố và giáo phận Hà Nội này, chúng ta cũng không quên nhắc tới Hội Thừa Sai Paris mà Đức Cha Seitz là một thành viên đáng kính. Qua lời cầu nguyện, công sức và nhiều khi phải trả bằng giá máu, các vị tông đồ của Hội đã xây dựng nên miền truyền giáo này, mà không ai chối cãi là một trong các miền truyền giáo đẹp nhất vùng Viễn Đông, và các ngài đã giao lại cho những người kế vị xứng đáng, các linh mục trong hàng giáo sĩ của Hà Nội. Bây giờ, các ngài lại đưa lưng gánh vác một nhiệm vụ mới. Đây chẳng phải là một trong những điều luật quan trọng nhất của các vị thừa sai sao: “Người gặt là kẻ khác”, điều này được bổ sung bằng nguyên tắc thứ hai: “Như thế, cả kẻ gieo lẫn người gặt đều vui mừng”? Ở ngay trung tâm của thành phố Hà Nội, chúng ta chắc hẳn có thể viết: “Si monumentum quæris, circumspice” (Muốn tìm tượng đài, xin hãy nhìn quanh-ND) – Nếu các bạn muốn tìm một tượng đài đánh dấu bước chân của các vị thừa sai, xin các bạn hãy ngước mắt lên, nhìn xung quanh, có nhiều nhà thờ, trường học, bệnh viện, và biết bao tín hữu, hãy đếm các nữ tu, hãy xem hàng giáo sĩ đông đúc này.

Và ngài kết luận: Thật là một niềm vui lớn lao cho người đại diện của Đức Thánh Cha được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các vị thừa sai này vì tất cả những gì các ngài đã làm cho chúng ta trong miền truyền giáo này. Nguyện chúc các ngài luôn dồi dào hồng ân của Thiên Chúa trong các sứ vụ các ngài sẽ còn thực hiện.

Và may mắn hơn cả, như một trái anh đào trên đĩa bánh, hay như trong suy nghĩ của Đức Cha Seitz, như một cánh hoa hồng đã được Thánh Têrêxa đem đến: ngay giữa bữa tiệc sau lễ tấn phong, với sự hiện diện đầy đủ của hàng giáo sĩ cao cấp và các quan khách, có hai linh mục lạ mặt đặt chân đến: đó là các cha Dòng Don Bosco đầu tiên, mà Cha Seitz hằng ước mong và chờ đợi, được gửi đến để thay thế Giám Đốc của cô nhi viện: Cha Giacomino, người Á Căn Đình, và cha Maïsen, người Nam Tư, hai vị được hoan hô nồng nhiệt. Như vậy, trước khi lên đường, đức tân Giám mục sẽ có thể trực tiếp bàn giao cho các người kế vị Ngài và giúp họ nắm công việc ngay. Lúc tới nơi, họ thấy đông đảo đám trẻ em như một tổ ong, những ngôi nhà được xây dựng đàng hoàng, những người cộng sự tận tâm và kinh nghiệm, một phương pháp giáo dục và đào tạo đã được thử nghiệm và cũng không khác với đường lối của thánh Don Bosco là mấy. Và sau cùng: vào lúc này quỹ tiền không trống rỗng!

Ngày chủ nhật 19 tháng 10 đã diễn ra lễ khánh thành chính thức Thị xá Ki-tô Vương. Mặc dù dưới cơn mưa tầm tã – nhưng mọi người quen rồi – đám đông vẫn tụ tập như những ngày lễ lớn; người thìlội bì bõm, còn xe hơi của các quan chức thì lún bùn; nhưng không sao: niềm vui tưng bừng đang tràn ngập. Giữa các vũng nước và hai trận mưa, thủ hiến Phạm văn Bính bước vào con lộ trung tâm, long trọng cắt băng màu đang giăng ngang lối vào và tiến về nhà nguyện, rộng rãi và sáng sủa, là trái tim của Thị xá. Đức Cha dâng thánh lễ trọng thể đầu tiên với tư cách là Giám mục, rồi nhường cho cha bề trên mới Dòng Don Bosco, làm phép tất cả các ngôi nhà. Sau đó, thay vì lên lễ đài, khi cờ xí và các băng rôn đã rũ xuống vì đẫm nước mưa, mọi người chạy vào núp trong khu xưởng thợ rộng rãi để nghe phát biểu. Bài của Đức Cha Seitz dài nửa giờ – nhưng tưởng chừng nhanh như tia chớp vì Ngài làm thính giả say mê khi điểm lại lịch sử công trình tâm huyết của Ngài một cách hóm hỉnh và đầy lòng cảm tạ: tất nhiên cảm tạ hồng ân của Chúa, nhưng cũng cảm tạ các cộng sự viên của Ngài và bao nhiêu nhà tài trợ lớn nhỏ, có mặt hay vắng mặt. Sau đó cả mấy trăm vị khách đã tản ra đi thăm các ngôi nhà, và các em trong gia đình của từng nhà đã tiếp đón họ.

Cuối cùng, tận dụng lúc trời tạnh, mọi người đã tụ tập ở ngoài sân để nghe bài hát từ biệt. Các em đã để hết tâm hồn vào đó và mọi người đã trải qua những giây phút thật xúc động.

Nhưng trận mưa như trút nước ngày hôm đó lại là một phúc lành từ trời vì, lúc chuẩn bị rời đi, ông thủ hiến Phạm Văn Bính, quần áo lấm đầy bùn đất, hối thúc Đức Cha Seitz viết một lá đơn để ông ralệnh cho Sở Công Chánh làm ngay càng nhanh càng tốt một con đường lót đá vào Thị xá. “Không phải cho chúng con, lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng xin cho Danh Ngài rạng sáng!”

Vậy là cho đến tận ngày cuối cùng của mình ở đây, Cha Seitz, với sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa, đã thực hiện được một công trình tuyệt vời, cả người Pháp lẫn người Việt đều công nhận và giữ một kỷ niệm thật đẹp về Ngài. Trong khoảng thời gian gay cấn của sự chuyển tiếp đột ngột, giữa những hiểm nguy liên tục, Ngài vẫn mạnh mẽ giương cao ngọn cờ của Hội Thừa Sai Paris, mang lại danh dự cho truyền thống của Hội, đương đầu với những hoàn cảnh éo le nhất bằng tình yêu, lòng khiêm nhường, và sự hóm hỉnh.

Trọng thể tiến vào Kontum

Nhiệm vụ ở Hà Nội đã hoàn thành, Đức Cha Seitz có thể ra đi với tâm hồn và lương tâm thanh thản, bằng lòng với thành quả công việc Ngài đã thực hiện trong giai đoạn đầu của cuộc sống thừa sai. Một trang sử đã lật qua. Ngài còn một trang khác rộng lớn hơn để viết. Ngài có thể làm điều đó trong bao lâu nữa? Chỉ có Chúa biết!

Tâm hồn bình an, phải, và với nụ cười; nhưng dù sao lòng vẫn bịn rịn… Cuộc khởi hành đi Kontum được ấn định vào ngày 20 tháng 10, ngay hôm sau lễ khánh thành Thị xá, nhưng một cơn bão đang ập đến; máy bay không thể cất cánh; vậy là sẽ khởi hành chừng nào có thể. Điều này giúp Đức Cha giải quyết hàng ngàn công việc mà thời gian qua Ngài chưa thể hoàn thành, và còn chuyển giao những thông tin quý giá cho các người kế nhiệm.

Một bức điện thông báo Ngài sẽ đến ngày 22, chính xác vào lúc 1 giờ. Một cuộc tiếp đón trọng thể đã được tổ chức với tất cả các quan chức, hàng giáo sĩ, và tín hữu: mọi người, quần áo chỉnh tề, đã có mặt ở phi trường. Chẳng thấy ai! 6 lần, Đức Cha đã phải gửi điện; 6 lần, họ đã phải về không. Ngày 31, các cơn bão có vẻ dịu xuống, một bức điện hân hoan báo động Cao Nguyên. Mọi người lại lôi quần áo đẹp ra, mang biểu ngữ, vòng hoa và giỏ trái cây đi đón; các đội quân sắp hàng danh dự, ông tướng cũng có mặt. Trong suốt 2 tiếng đồng hồ, mọi người cứ vểnh tai và đăm đăm nhìn trời. Lại chẳng có gì cả! Cũng giống như mấy ngày trước … ai nấy lại tiu ngỉu quay về. Ông giám mục mới này kỳ quá, có phải trêu ngươi không? …

Sau cùng, buổi sáng ngày 2 tháng 11, một cú điện thoại cho Đức Cha biết có một chiếc máy bay đang chờ sẵn và thời tiết rất thuận lợi. Phải đi ngay. Không có thời gian để thông báo cho bất cứ ai về việc Ngài đến. Ngài lao đi. Và sau đó, có tiếng máy bay vù vù trên bầu trời Kontum – một chuyện hiếm có ở vùng này. Dân chúng hối hả, mặt ngước lên trời: đúng là Ngài rồi, đang lượn vòng quanh trên thành phố để chào mừng. Nhìn qua cửa sổ, Đức Cha thấy đám đông chạy đến để nhanh chóng bắt kịp chiếc máy bay vừa đáp xuống phi đạo. Những chiếc xe jeep phóng tới. Xe của đội quân danh dự chạy vội qua một đoạn đường tắt và bị sụp lầy: họ sẽ không bao giờ đến kịp … Giữa đám đông cười nói hụt hơi và các tiếng tung hô, đức Giám mục giang rộng đôi tay như muốn ôm tất cả mọi người trong Giáo phận mới vào lòng và cám ơn họ vì đã háo hức đón tiếp Ngài.

Ba ngày sau, người ta tổ chức một buổi tiếp đón thật long trọng và Ngài được rước vào nhà thờ chính tòa.

“Nhà thờ chính tòa” của Ngài!… Chỉ là một cái nhà sàn bằng gỗ, được dựng lên từ năm 1913, và Ngài thầm so sánh, nó chắc chỉ rộng gần bằng nửa nhà thờ giáo xứ Criquetot. Bề ngoài mà xét, đó là một sự xuống cấp cho người đã là cha sở của nhà thờ chính tòa bằng đá ở Hà Nội, một ngôi thánh đường tráng lệ, rộng rãi, xây dựng theo phong cách Châu Âu! Ngài viết thư cho thân phụ:

“Nói cho đúng ra, nếu như đây chưa phải là tận cùng thế giới, thì ít nhất cũng là tận cùng của Ki–tô giới và sự nghèo đói là vua! Sau đó, có chiêu đãi tiệc rượu ở Tòa giám mục; cuộc tiếp đón các “vị chức sắc”; lần đầu tiên con gặp mặt “những người mọi” của con, với những bài phát biểu bằng thứ tiếng con không hiểu được, rồi đến dàn nhạc cồng chiêng và nhảy múa, cuối cùng là uống rượu ghè. Thời gian tập sự của con bắt đầu.

Ngày hôm đó, các vị thừa sai trong giáo phận, tất cả đều được báo trước và chắc chắn sẽ gặp con, đã có mặt. Tổng cộng có 44 người. Tính ra, 24 thừa sai người Pháp, 18 linh mục người Việt và 2 linh mục người Bahnar. Vậy thôi! … 44 linh mục để chăm lo cho hơn bảy trăm ngàn linh hồn đang sống rải rác trên một vùng đất mênh mông và hiểm trở.  Có 7 vị thừa sai đã hơn 70 tuổi, và dù vẫn làm việc, họ không thể đảm nhiệm một giáo xứ bình thường. 5 đến 6 linh mục khác, ốm đau hoặc thương tật, chỉ có thể hoạt động hạn chế. Đó là bản tổng kết đầu tiên xuất hiện trong suy nghĩ của con.

Dù sao, khi phải nói lời đáp từ sau bữa ăn thân hữu nối kết chúng con lại với nhau, con đã dám cao giọng tuyên bố, trước các nhà khai phá đáng kính phục này, bây giờ là “các thừa sai của con”, một lời nguyện ước khiến vài người trong nhóm phì cười: “Xin Chúa đoái thương làm sao mà đến lúc tôi chết chỉ còn 25,000 người ngoại trong vùng rừng núi này! Cha biết không, hiện tại thì con số đang ngược lại: 25,000 giáo dân trên tổng số 700,000 người ngoại! Tại sao không? “Đức Giêsu là Thầy của sự bất khả”, như lời Cha Charles de Foucauld đã nói.

Việc đầu tiên của vị giám mục là đi kinh lý tất cả các địa hạt trong giáo phận – “địa hạt” là từ ở đây người ta dùng để chỉ “giáo xứ.” – và thăm từng vị linh mục một, để có thể biết được các ngài đang sống thế nào, đang có những vấn đề gì và đang làm việc ra sao. Ngài di chuyển bằng xe jeep, bằng máy bay, bằng xuồng, và thường là đi bộ, mai mốt biết đâu lại phải cưỡi voi, khắp nơi trong giáo phận mênh mông của mình dài 600 cây số từ bắc xuống nam. Những gì Ngài khám phá lập tức làm Ngài say mê. Ngài sửng sốt và cảm phục các kỳ công mà những người tiền nhiệm và các vị thừa sai đã thực hiện từ một thế kỷ nay: “Họ đúng là những vị thánh, những anh hùng, những thiên tài.” Và ngay cả bây giờ, dù hoàn cảnh đã thay đổi, cần phải có một sự quên mình hoàn toàn, một lòng kiên trì không mệt mỏi.

Mỗi một linh mục trong 26 địa hạt phải phụ trách rao giảng Tin Mừng cho 10 đến 15 làng, nhiều khi hơn, trong một bán kính từ 5 đến 25 km, và phải dâng lễ ít nhất mỗi tháng một lần cho mỗi làng có đạo trong địa hạt. Nếu nói chung, có thể di chuyển tới các thị trấn bằng xe jeep qua các đường mòn, thì việc đi đến được các làng nằm sâu trong rừng lại hoàn toàn khác, bởi chúng thường vắt vẻo trên sườn núi, hoặc dưới lũng sâu. Chỉ có thể đi ngựa, hoặc lội bộ … Việc này không khỏi làm Ngài nhớ lại thời còn trẻ, xông pha rừng rậm, đầy dây leo và gai góc, để lên núi Ba Vì.

Mỗi làng đều có “nhà nguyện”: một mái tranh nghèo hoàn toàn giống như nhà của người dân trong làng; chỉ khác là có một cây thánh giá cắm trên nóc làm dấu. Vị linh mục sẽ ở đó cả ngày: gặp gỡ giáo dân, giải tội, dâng lễ, giảng dạy, ban các phép bí tích, giải quyết công việc; tới khuya, ngài nằm xuống chiếu và ngủ – nếu ngủ được, vì trên độ cao này trời ban đêm không khí se lạnh, và bụng thì đói  meo.

Đức Cha đã khám phá ra rằng trong giáo phận mới của mình có một công cụ tông đồ tuyệt vời, đã được vị giám mục tiên khởi, Đức Cha Martial Jannin, khai sáng: đó là trường đào tạo giáo phu và độingũ giáo phu xuất thân từ ngôi trường đó. Các cha thừa sai tuyển lựa trong địa hạt mình các cậu bé từ 11 đến 12 tuổi, gửi về Kontum, vào ngôi trường mà chúng sẽ được đào tạo thích đáng trong 6 năm: học tiểu học, được giáo dục đức tin, và theo một chương trình đào tạo giáo lý vững chắc. Sau đó, khi tới 18 tuổi, họ trở về làng với chức danh “giáo phu”. Và chính họ, khi vắng bóng các linh mục, sẽ bảo đảm cho đời sống đạo được duy trì. Nói chung, họ cũng lập gia đình và sống chẳng khác chi dân làng: trồng lúa, trồng rau, câu cá, săn bắt, và chặt củi. Nhưng họ sống theo quy tắc riêng, với một lý tưởng cao hơn. Và Đức Cha sẽ nhanh chóng nhìn thấy gương sáng của họ qua lòng đạo đức sốt sắng và sự kiên trì phục vụ tận tâm anh em người Thượng. Không có các giáo phu, các cha thừa sai sẽ không thể điều hành địa hạt của mình, và phát triển việc truyền giáo. Nói chung, họ chính là những nhân tố thúc đẩy và khơi mào cho sự trở lại của các làng ngoại giáo, bây giờ vẫn còn khá đông. Đó là phong trào Công Giáo Tiến Hành theo đúng nghĩa của nó! Lúc Đức Cha Seitz nhậm chức, có khoảng hai trăm giáo phu đang phục vụ trong các làng, và 60 học viên đang được đào tạo.

Nhưng bên cạnh nguồn vui và hy vọng này, đức tân Giám mục có rất nhiều việc đáng phải lo và những viễn cảnh báo động, những điều đó sẽ thử thách lòng can đảm của Ngài và kích thích sự hăng hái can trường của Ngài. Quan trọng nhất là Ngài phải đưa các người dân bán khai này về với đức tin chân chính, đẩy lùi vô số điều mê tín dị đoan còn tồn tại dai dẳng ngay cả sau khi trở lại đạo; phải đưa họ ra khỏi cuộc sống bần cùng bằng cách dạy họ biết cách sản xuất, và cung cấp tài lực cho họ; phải xây dựng – điều này thì Ngài biết làm!… Xây nhà thờ, xây trường học, xây bệnh xá trong các làng, xây nhà xứ phù hợp cho các cha thừa sai: tất cả những thứ đó đều mau chóng hư nát, và không được thay thế.

Nhưng để thực hiện việc này, phải có tiền – và vấn đề này, Đức Cha quá rành!… Ngài biết ngay rằng Ngài không thể kiếm được đồng nào từ những giáo dân của giáo phận; ngược lại, các cha thừa sai lúc nào cũng phải chạy chọt để giúp họ; tuy vậy giáo phận chẳng có một nguồn thu nhập nào cả, ngoàiphụ cấp của Bộ Truyền Giáo và vài đóng góp bố thí khác.

Từ chuyến kinh lý lúc mới nhậm chức, Ngài nhìn thấy tình trạng thê thảm của phần lớn các công trình xây dựng – nhà thờ, nhà xứ, trường học, bệnh xá: tất cả đều là những chòi bằng gỗ, tre và vách đất. Trong 10 năm qua, do tình hình chiến tranh tiềm ẩn, chúng đã không được chăm nom đàng hoàng. Ngài nhận thấy rằng phần lớn các công trình đều phải được sửa chữa hoặc xây lại hoàn toàn. Các vị thừa sai đều nóng lòng mong mỏi một tân Giám mục đến để cung cấp cho họ những phương tiện cần thiết.

Ngoài ra, Satan như đang lên cơn điên, khi Ngài đến, những trận cuồng phong đã càn quét cả vùng Cao Nguyên: chúng quật xuống đất bất cứ thứ gì còn đứng được và khiến nước cuồn cuộn đổ về các dòng sông, đến nỗi người ta thấy mực nước sông (Dak Bla-ND) chạy ngang trung tâm Kontum dâng cao đến 9 mét chỉ trong vài giờ. Phải, 9 mét: một tai họa vô tiền khoáng hậu! Một bệnh viện bị phá hủy; một nhà trẻ do các nữ tu Bác Ái điều hành đã bị nước cuốn mất; mùa màng chìm trong nước, nhà cửa bị sụp đổ. Có rất nhiều người bị lũ cuốn. Và nạn đói đang rình rập trong vùng.

Như vậy, đúng là tội nghiệp cho Cha Seitz vừa đáp xuống một giáo phận đầy tai ương. Người khác thì chắc đã sụp đổ như những túp lều tre. Nhưng Ngài, trái lại, thấy mình đang đứng trên vùng đất thật thích hợp với mình, giữa những vị thừa sai đã được tôi luyện trong đức tin chẳng khác nào thép trong lò. Ngài tự hào được làm người chỉ huy của họ.

Một vùng đất lôi cuốn ngay sự chú ý của Ngài: vùng đất Ban Mê Thuột, trung tâm lớn thứ hai, có khoảng 3,000 dân, ở đầu bên kia của Giáo phận, cách Tòa Giám mục 250 km. Đó là thủ phủ của tỉnh Daklak, một cao nguyên rộng 40,000 km2, xứ sở của những khu rừng già, không khí oi bức và bất khả xâm nhập, với những thân cây to cao sừng sững, chằng chịt những dây leo khổng lồ; vùng đất cũng có những khu đầm lầy mà voi hay đến ngụp lặn, dầm nước. Từ những đỉnh núi cao hơn 2,400 m, có thể ngắm nhìn khung cảnh bao la và các vị thừa sai cảm thấy mình đã bị vùng đất hoang sơ hùng vĩ này chinh phục.

Nhưng Daklak cũng là một vùng “đất đỏ”, rất mầu mỡ, thích hợp cho các cây kỹ nghệ: cao su, cà phê, trà. Đây là nơi hoàng đế Bảo Đại thường ngự, thay vì thành phố Huế, và cũng đã xây dựng một số cơ quan.

Vì không có đường bộ, Đức Cha chỉ có thể đến Ban Mê Thuột bằng một chiếc máy bay tư nhân của một ông chủ đồn điền, và Ngài ngay lập tức dự tính lập tại đây một miền truyền giáo, vì vùng này lúc trước không được các vị tiền nhiệm của ngài quan tâm lắm do khoảng cách xa xôi. Trong khi đó bộ lạc người Rhađê sống trong các khu rừng lân cận là một trong những bộ lạc tiên tiến và cởi mở nhất với ảnh hưởng văn hóa Pháp. Cần một giải pháp cấp bách và bằng bất cứ giá nào cũng phải gửi những vị thừa sai đến thành lập những địa hạt mới, dù ở đó chưa có một người công giáo nào cả. Cha Bianchetti là người đầu tiên đến sống ở giữa họ và một thời gian ngắn sau khi ngài đến đó, vị tân Giám mục đã có niềm vui  lớn lao nhận được bức thư của một tù trưởng: sau những cuộc bàn luận liên miên kéo dài nhiều ngày, ông tù trưởng và 57 người đàn ông đã chấp nhận từ bỏ các phong tục mê tín dị đoan và trở lại đạo Công giáo, cùng toàn bộ dân trong các buôn làng của họ. Tuy vậy, cũng chưa phải là hoàn toàn thắng cuộc, vì còn phải học 3 năm giáo lý tân tòng và chiến đấu để vứt bỏ ngẫu tượng cùng các cuộc dâng cúng quỷ thần, sau đó những người Rhađê đầu tiên mới được rửa tội.

Dĩ nhiên, Đức Cha cũng ưu tiên nghĩ đến các chủng sinh, và cuối năm ấy, Ngài đã tiến hành phong chức phụ phó tế, rồi phó tế cho 2 chủng sinh lâu nay vẫn đợi chờ Ngài đến.

Và cũng khoảng cuối năm, cùng với các vị thừa sai của mình, Ngài soạn thảo một “Lá thư” chung, được gửi đi hằng tháng, nếu có thể, cho cha mẹ, bạn bè và người quen của mọi người, để thông báo các tin tức cá nhân, và như vậy nó có thể thay thế những lá thư riêng mà nhiều vị không có thời giờ viết, cũng như để giới thiệu miền truyền giáo, và khơi dậy sự giúp đỡ tinh thần lẫn vật chất mà mọi người đang cần đến.

Sau vòng kinh lý tất cả các địa hạt, Ngài làm bản tổng kết những vấn đề – vô số vấn đề – mà mình sẽ phải giải quyết. Những tháng đầu trôi qua chủ yếu là để Ngài tiếp xúc, tham khảo ý kiến với thành phần nhân sự của giáo phận cũng như các quan chức địa phương, giải quyết các công việc tồn đọng, xem xét tài nguyên của Giáo phận và các cơ hội khác nhau để cải thiện tình hình.

Sau đó, trong năm 1953, Ngài quyết định một chuyến về Pháp, mà Ngài đã dời năm này qua năm nọ. Ngài đã được tiếp đón tưng bừng, đương nhiên, ở Nhà mẹ đường Rue du Bac, nơi Ngài vui mừng và cảm động gặp lại một số bạn bè cũ. Tiếp đón ở Criquetot còn rầm rộ hơn, gia đình và bạn bè Ngài hân hoan tôn vinh người đã đem lại vinh quang cho xứ sở – cho dù Ngài chưa bao giờ cư trú ở đây, vì đã rời khỏi mái ấm gia đình tại thành phố Le Havre trước khi cha mẹ Ngài dời về vùng nông thôn này.

Ông Cố Seitz cũng đang chuẩn bị dời nhà một lần nữa vì, mặc dù bao kỷ niệm gắn bó với vùng này, đặc biệt là kỷ niệm về Bà Cố, ông cảm thấy ngôi nhà quá lớn và tốn kém; vì vậy ông sẽ đến ngụ tại một ngôi nhà nhỏ ở Bolbec, cách Criquelot 25 km. Ông nói vui với Đức Cha đây là lần dời nhà áp chót của ông. Và con ông chúc lại rằng hy vọng cuộc dời nhà lần chót sẽ trễ chừng nào hay chừng ấy.

Chuyến đi của vị Đại diện Tông tòa Kontum ở Âu Châu, sau khi Ngài đã nắm vững các vấn đề của Giáo phận, cũng là một “chuyến làm ăn”, như chuyến đi trước cách đây 10 năm: Ngài phải kiếm cho ra vật liệu và ngân quỹ. Ngài gõ cửa với một sự táo bạo mà ta có thể coi là ngây thơ, và đạt được kết quả mỹ mãn. Kể cả Roma, và Bộ Truyền giáo, cũng được thông báo đầy đủ về tình hình khó khăn của Đông Dương lúc bấy giờ, cũng như các nhu cầu to lớn và khẩn cấp về tài nguyên nhân sự lẫn vật chất.

Mùa thu, Ngài quay về tiếp tục gánh vác công việc nặng nhọc, sung sướng gặp lại vùng rừng rú của mình, kể cả những khó khăn to lớn vượt bực: nhưng đó là môi trường của Ngài. Ngài viết cho thân phụ vào ngày 10 tháng 1 năm 1954:

Thật ra, nếu như con không cảm thấy trong mình một đức tin và một niềm tín thác không gì thắng nổi, chắc là con đã run sợ! Nhờ Chúa giúp, mỗi ngày con kéo luống cày của con…

Ngài di chuyển rất nhiều trên vùng đất mênh mông của mình: đi thăm mục vụ, làm phép thêm sức, điều tra nghiên cứu; Ngài muốn thấy tại chỗ, đo lường, cân nhắc, và nhất là khích lệ. Kết quả thật đángan ủi và Ngài rất ngạc nhiên về hoạt động thiêng liêng đang diễn ra nơi những người Thượng. Ngài viết:

Đâu đâu tôi cũng khám phá thấy những dấu chỉ của một sự khởi sắc chung nơi các linh hồn. Không phải chỉ có nơi từng đơn vị, hay từng làng, nhưng sự lay động này được cảm nhận trong từng vùng. Tôi vừa đi về phía tây, cách Kontum 180 km, tiếp xúc với những “già làng”, những người đứng đầu 11 làng Thượng, họ đã rõ ràng bày tỏ ý muốn được trở lại đạo. Ở phía bắc, cách đó khoảng 70 km, trong những vùng núi trước đây có một cha trẻ nhưng đã qua đời khi tôi đang ở bên Pháp, 10 làng khác cũng đã tỏ ý như vậy. Ở phía nam, gần Ban Mê Thuột, nghĩa là cách đây 250 km, bộ lạc người Rhađê, cho tới nay hoàn toàn đóng cửa với đạo Công giáo, cũng đưa ra yêu cầu. Thật thế, Chúa Thánh Thần đang thổi, và như các cha già ở Kontum nói, chưa bao giờ, người ta thấy một phong trào xin trở lại đạo đông như thế. Vì vậy phải đáp ứng tiếng kêu cứu này của các linh hồn. Đây là giờ của Chúa và chúng ta không thể bỏ qua. Và tôi có trách nhiệm phải đáp ứng…

Đó là yếu tố đầu tiên, cấp bách của vấn đề đang đặt ra cho tôi. Yếu tố thứ hai cũng không kém rõ ràng: hiện tại tôi không có khả năng đáp ứng yêu cầu từ phía tây; thay thế vị chủ chăn mới mất ở phía bắc; gửi cứu viện xuống phía nam, và kể cả cung cấp những nhu cầu cần thiết cho khoảng 200 buôn làng Công giáo sẵn có và đang phát triển. Ngoài ra 60% các công trình xây dựng trong Giáo phận đang đổ nát: được làm bằng những vật liệu tạm bợ, hay nói đúng hơn là xui xẻo, chúng đang làm mồi cho mối mọt. Ngay sáng hôm nay, đi cùng Cha Clement, một linh mục trẻ vừa mới đến, tôi đã thăm một địa hạt cách Kontum 25 km, để tận mắt chứng kiến nhà thờ và nhà xứ đúng là một mối nguy chung cho cộng đoàn. Phải xây lại thôi. Nhưng tôi không có tiền cũng như không có đủ nhân sự thừa sai.

Nếu bạn có thể vào bàn làm việc của tôi và lục lọi giấy tờ của tôi, bạn có thể thấy rằng tất cả đều gợi lên hình ảnh của một người lính chiến – một trận chiến tốt lành! – một kiến trúc sư, nhà thầu, chiến lược gia, chuyên viên quảng cáo, chăm sóc các mối quan hệ. Phải, tất cả những người đó, mỗi thứ một ít. Và còn hơn thế nữa, vì đó không phải là điều thiết yếu: trên hết tôi là giám mục, có nghĩa tôi vừa là người lãnh đạo, vừa là người cha, vừa là quan tòa của các linh hồn. Những linh hồn mà tôi phải gìn giữ cho Đức Ki–tô và phải thánh hóa.

Trong năm đầu tiên làm giám mục của mình, Đức Cha Seitz đã đặt ra 2 mục tiêu đặc biệt cho các vị thừa sai của Ngài. Thứ nhất: trong tất cả các làng Công giáo, phải chống nạn mù chữ. Thứ hai: phải chống nạn nghiện rượu. Một việc rất khó khăn, vì đó là một tệ nạn cố hữu nơi người Thượng; và còn hơn một tệ nạn: đó là một phong tục mê tín, một hành vi giao tế cần thiết, không thể bỏ qua nếu không muốn biến mình thành một kẻ thù truyền kiếp.

Cuối cùng, nhờ một số đóng góp và bằng cách gom hết tiền bạc từ mọi ngăn kéo, Ngài hy vọng có thể xây dựng và trang bị một nhà máy cưa cùng một xưởng mộc, đây là một việc sẽ rất hữu ích trong vùng rừng rú này; như vậy ngài có thể đáp ứng cách dễ dàng hơn tất cả mọi nhu cầu về xây dựng và thiết bị trong giáo phận.

Để bù đắp cho sự thiếu hụt các vị thừa sai, Ngài đã bắt đầu, mặc dù tương lai còn vô định, kêu gọi các dòng tu lên hoạt động trên vùng Cao Nguyên này: Ngài có cơ sở để hy vọng rằng các tu sĩ dòng Biển Đức, dòng Chúa Cứu Thế, dòng khổ tu Trappe, và các sư huynh La San sẽ đến, để làm cái việc mà Ngài gọi là “cày ruộng của mình”! Một câu châm ngôn mới mà Ngài rất thích: “Tin việc mình làm, và làm nhiệt tình”!

Việt Minh lần đầu đánh chiếm Kontum

Vào đầu năm 1954, sự bình yên dường như được bảo đảm trên phần đất này của Miền Nam, và đặc biệt trên vùng Cao Nguyên của Kontum: người ta có thể hăng say xây dựng và trồng trọt. Công việc tông đồ đang phát triển mạnh mẽ, nhất là từ khi có sự hiện diện của Đức Cha Seitz, người ta thấy có một chuyển động thiêng liêng lớn lao nơi các dân tộc thiểu số. Các kẻ gây chiến, lúc nào cũng quấy rối Miền Bắc và một phần ở Miền Nam, chỉ trà trộn lẻ tẻ ở đây, lâu lâu tấn công các đồn bót để thử sức, và thường là không lặp lại, vì vùng đất này khó xâm nhập, khí hậu độc hại, ít tài nguyên và không có giá trị chiến lược.

Trên bình diện quân sự, quân đội Pháp đã lập một cái “bẫy” trong lòng chảo mênh mông của Điện Biên Phủ, thuộc vùng Bắc Bộ, không xa Hà Nội, biên giới Lào và Trung Quốc, với hy vọng sẽ dụ được và tiêu diệt các lực lượng cộng sản xâm nhập. Họ cũng tung một chiến dịch lớn dọc bờ biển Miền Trung để tái lập các trục lộ giao thông và giải tỏa đường ra biển. Vì vậy không việc gì phải lo lắng, thậm chí còn có một sự hưng phấn nào đó trong vùng rừng rú mênh mông của Cao Nguyên.

Vậy mà, ngày 28 tháng 1 năm 1954, trong đêm, 3 đồn lính bảo vệ phía đông bắc của Kontum bị tấn công cùng lúc bởi các lực lượng Việt Minh và bị tiêu diệt trong vòng vài giờ, bỏ ngỏ con đường đến Kontum không còn ai bảo vệ. Hoàn toàn không hay tin, Đức Cha đang chuẩn bị đi thăm một trong các linh mục của Ngài như thường lệ thì nhận được một thông báo của viên tướng chỉ huy vùng này: “Lệnh sơ tán khẩn cấp thường dân Châu Âu, trong khi chờ đợi lực lượng cứu viện”. Lúc đó là 15 giờ 15: 16 giờ, đoàn xe di tản sẽ khởi hành.

Vội vã, Đức cha chạy quanh Tòa giám mục: những người già, yếu đau, trẻ em, các nữ tu, các chathừa sai trẻ tuổi nhất: có 5 phút để xếp gọn hành lý và lên đường. Còn Ngài, chắc chắn sẽ ở lại – Ngài không lìa bỏ con cái mình – với 4 linh mục người Pháp và 4 linh mục Việt Nam. Cho tới khuya, các ngài lo di tản nhẹ nhàng các em bé của nhà trẻ và các nữ tu người Bahnar phụ trách; các ngài lấy Mình Thánh Chúa khỏi tất cả các nhà thờ và nhà nguyện; rồi vội vã chôn giấu những tài liệu và sổ sách lưu giữ mà các ngài đã không có thì giờ giao cho những người di tản. Nếu cần thiết lắm, Đức Cha sẽ chạy trốn vào rừng vào phút cuối, cùng với các Cha người Pháp, và ở đó Ngài sẽ có thể tiếp tục cai quản Giáo phận.

Các lực lượng quan trọng của Việt Minh xuất hiện trong bán kính 20 km quanh thành phố, chắc là chúng muốn bao vây trước để dễ tấn công. Nhưng các lực lượng cứu viện đã đến vào ngày 30 và 31 tháng 1 để bảo vệ Kontum: 12 thiết giáp, một đội pháo binh, và một tiểu đoàn đã tham gia cuộc chiến Triều Tiên, vừa được chuyển qua Đông Dương. Vị tướng chỉ huy cho rằng Kontum bây giờ đã được bảo vệ và ra lệnh giữ vững thành phố nếu có cuộc tấn công. Trên thực tế, kẻ thù có vẻ đã rời đi, nhưng là để tấn công một địa điểm khác, Dak-Tô, nằm ở phía bắc Kontum: chúng đã chiếm Dak-Tô sau 45 phút giao tranh dữ dội. Vì vậy phải rất cảnh giác, nhưng nguy hiểm trước mắt đã qua, và dân tản cư có thể quay lại thành phố.

Vào thời điểm đó, bộ trưởng bộ quốc phòng mới, ông Pleven, có ông Chevigné thứ trưởng chính phủ tháp tùng, từ Pháp bay qua Sài Gòn để thị sát tại chỗ tình hình chính trị và quân sự của đất nước, vì đang có các cuộc thương thảo ngừng bắn với Hồ Chí Minh, và người ta còn chờ đợi những đề nghị từ phía cộng sản.

Ông Chevigné đáp xuống Kontum ngày 5 tháng 2 và trấn an các nhà chức trách quân sự cũng như tôn giáo:

Thưa Đức Cha, Ngài đã ở lại đây: Ngài có thể yên tâm rằng Ngài sẽ không phải chạy đi vì chúng tôi có đầy đủ lực lượng để bảo vệ thành phố khi cần.

Vậy mà, ngay hôm sau, lúc 2 giờ sáng, Đức Cha được một phái viên của ông tỉnh trưởng đánh thức, yêu cầu Ngài đến gặp ông này gấp. Và Ngài sững sờ khi nhận được thông báo rằng ông tướng ra lệnh sơ tán gấp toàn bộ thành phố. “Yêu cầu sẵn sàng khởi hành vào lúc 5 giờ sáng với một đoàn xe sẽ được thành lập.” Ngài vội vã báo tin cho 4 linh mục thừa sai người Pháp và nhân sự của Tòa giám mục, những người vừa mới trở về hôm trước, rằng họ lại phải ra đi. Về phần mình, Ngài trao cho viên Công Sứ một bức thư báo cho ông biết Ngài quyết định ở lại với con chiên của mình, và như thế, ông khỏi phải chịu trách nhiệm về những gì liên quan đến bản thân Ngài. Sau đó Ngài quay về Tòa giám mục.

Lúc 8 giờ sáng lại có khách bất ngờ; đại tá Germiny, chỉ huy phó trung đoàn Triều Tiên, đến cho biết quyết định tối hậu: không bỏ rơi dân Việt Nam, vì lệnh sơ tán được thông báo cho tất cả mọi người; các phương tiện di chuyển quan trọng sắp đến, và có thể chuyên chở tất cả những ai muốn ra đi. Ông nói:

Thưa Đức Cha, nếu Ngài ở lại, Ngài vô tình khuyến khích người ta cũng ở lại. Chúng tôi đang làm tất cả những gì cần thiết để sơ tán mọi người; đó là bổn phận của chúng tôi. Chẳng lẽ Ngài cũng không phải ra đi sao? Ngoài ra, Ngài hãy tin rằng, cuộc rút lui này chỉ là tạm thời, và tối đa 1 hay 2 tuần lễ sau, lực lượng chúng tôi sẽ quay lại Kontum.

Sau khi được thông tin như thế, Đức Cha quyết định cũng sẽ khuyên dân chúng ra đi và Ngài cùng đi với họ – với một trái tim tan nát … Có gì đang xảy ra vậy?… Một mưu mô của Việt Minh đã gây bất ngờ cho các giới chức dân sự lẫn quân sự, tạo ra những lệnh trái ngược nhau. Lực lượng của chúng đã xâm nhập khắp nơi. Đêm 7 tháng 2, chúng tấn công Kontum một cách bất ngờ như vẫn quen làm, và Kontum dễ dàng rơi vào tay chúng không một phát súng. Trong phút chốc, một trong những vùng Công giáo thuần thành nhất Đông Dương, với 30,000 giáo dân, đã nằm dưới ách cai trị của cộng sản. Đức Cha viết cho gia đình: Ngày hôm qua con đã di tản xuống Pleiku, một địa danh cách khoảng 50 km về phía nam. Than ôi! 6 linh mục của con còn kẹt lại trong rừng. Con hy vọng họ không bị gì. Đây là một biến cố tàn bạo và bất ngờ. Chiến tranh đã xảy ra, và chúng con ngập chìm trong đó. Những ngày vừa qua thật khó khăn, nhưng con vẫn khỏe mạnh: không trầy xước gì. Con xin mọi người đừng lo lắng. Niềm hy vọng của chúng ta là nơi Chúa. Trong giới quân sự người ta nói rằng sẽ chiếm lại Kontum ngày gần đây thôi. Hiện tại thì 3/5 giáo phận của con còn được tự do. Hãy vững tin! Hãy vững tin! Con ôm hôn thắm thiết tất cả và cùng hiệp ý cầu nguyện sốt sắng.

Đây là lần thứ 5 kể từ năm 1940, Cha Seitz đã rơi vào tình cảnh nguy kịch như vậy.

Bốn lần ở Hà Nội, khi thành phố bị đe dọa hay làm mồi cho chiến tranh, con đã thấm thía nỗi lo sợ của sự thất trận và cái chết đang rình mò, nhưng chưa bao giờ, xin cho phép con thú nhận, con đã sống những giờ phút đau thương và khó khăn như những giờ phút này. Hơn bao giờ hết, đây là giờ của đức tin và đức cậy. Thiên Chúa là Chủ Tể. Chúng ta chiến đấu trong cơn giông bão chống lại những thế lực hung dữ, nhưng chỉ có Chúa mới có thể làm cho gió yên biển lặng. Chúng ta vẫn tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Hôm nay là Đêm Thương Khó, nhưng chúng ta biết rằng đêm ấy thực ra là một buổi bình minh, bình minh của Ngày Sống Lại.

Vào đầu tháng 4 năm 1954, Đức Cha biết rằng, do thay đổi chiến thuật, và một sự trở mặt không thể hiểu được, người ta đã dễ dàng hy sinh Kontum và cả vùng Cao Nguyên để tăng cường – một cách vô ích – việc bảo vệ vùng duyên hải trong một chiến dịch được đặt tên là Atlante, cũng như bản doanh ở Điện Biên Phủ, gần biên giới Lào và sát cạnh Trung Quốc. Tổng kết: toàn bộ vùng phía bắc của Giáo phận, nơi quan trọng nhất trong hoạt động truyền giáo, đã rơi vào tay Việt Minh: 23 trên 27 địa hạt, 195 trên 200 họ đạo, cùng tất cả các công trình quan trọng nhất. Trên tổng số 47 linh mục của Giáo phận, 21 vị đang ở trong vùng bị chiếm đóng, gồm cả 6 thừa sai người Pháp.

Từ ngày 6 tháng 2, Đức Cha ở lại Pleiku, một thị trấn nhỏ bé nay biến thành một chiến lũy khổng lồ, bao bọc bằng kẽm gai và đầy các khí cụ chiến tranh, hàng ngàn binh lính cùng với dân tị nạn. Khi nào thì họ mới trở về được?… “2 tuần tối đa” nói trước đây đã nhân lên gấp bốn! Đức Cha đã vài lần âm thầm vượt “bức màn tre” để đi thăm những người trong vùng bị chiếm đóng, và có dịp ở bên các con cái cùng tín hữu của Ngài vài giờ đồng hồ. Nhưng, “suỵt”. Xin đừng ai làm Ngài bị lộ.

Đến Phú Thọ, một ngôi làng nhỏ cách Pleiku vài cây số về phía đông, Ngài đã gặp Cha Claudius Corompt, 72 tuổi và đã ở trên miền truyền giáo này 48 năm, vị Cha Già đã chứng kiến tất cả công phu sau 40 năm lao khổ và kiên trì của mình bị Việt Minh tàn phá bình địa năm 1948. Những ngôi làng đẹp đẽ mà Cha đã hoàn toàn một tay một mình tạo lập, nay không còn gì! Đúng thế, không còn gì, ngoài một vài đống đổ nát của các ngôi nhà thờ cũ, nay cỏ mọc um tùm. Vào lúc ấy, Cha Già đã có thể về hưu một cách vinh dự và chính đáng, nhưng không, Cha đã muốn ở gần những con chiên còn sót lại đang qui tụ bên mình. Đức Cha nghĩ rằng Cha rất đáng nghỉ hưu và thật là không khôn ngoan khi để cha ở lại trong vùng đầy kẻ thù này; vì vậy Ngài đề nghị Cha đi sơ tán. Cha Giffard, người chứng kiến chuyện này, kể lại:

Ước chi bạn đã thấy Cha Già, đội cái mũ giáo sĩ cũ kỹ và móp méo, trong chiếc áo chùng bằng vải Ba Tư!… Ước chi bạn đã nghe Cha trả lời: “Một thân tàn ma dại như con đây! Đức Cha muốn bọn Việt Minh làm gì con!” Và Cha đã ở lại! Vậy là thêm một người nữa. Ba cha khác, những người đồng niên với Cha, Cha Alberty, 80 tuổi, Cha Hutinet, 77 tuổi và Cha Decrouille, 71 tuổi, chắc cũng ganh tị với Cha. Nhưng Đức Cha buộc các ngài phải rút về Sài Gòn. Đó là việc đền tội nặng nề nhất trong đời các ngài!

Còn 6 linh mục trong nhóm chúng tôi không thể đặt vấn đề di tản. Họ đang làm gì? … Số phận của họ ra sao?… Họ đã trở thành những “nhân chứng” sống. Vậy thôi!

Cha Giffard viết tiếp: Tôi đã nghe nói rằng những người công giáo ở Pháp và ở nhiều nơi khác, mặc cho Roma đã nghiêm khắc cảnh báo, mặc cho các lời chứng của những người từ bên kia bức màn sắt kể lại, cứ tưởng Giáo Hội và cộng sản có thể sống chung với nhau. Nếu vậy thì mời họ đến đây chia sẻ cuộc sống với 6 người anh em của chúng tôi và họ sẽ hiểu! Nếu vậy thì mời họ hãy đến an ủi, nếu họ làm được, 30,000 giáo dân chúng tôi đang rên xiết dưới ách cộng sản, và đã bị bắt buộc chối đạo! Than ôi! Không thể đối thoại được. Trong xứ cộng sản, người Ki-tô hữu không thể tìm ra một sự thích nghi nào được. Chỉ có một việc thôi, một việc duy nhất: chối đạo. Cho nên chỉ cần anh thì thầm đọc kinh tin kính, cũng đủ cho anh bị kết án rồi.

Những người lính trong quân đội nhân dân, có các “uỷ viên chính trị” đi kèm, trong thời gian đầu, tỏ ra rất lịch sự và quan tâm tới các vị Thừa sai, với nụ cười “xã giao”:

Chúng tôi là những người bạn đến giải phóng các anh… Các anh cứ ở yên tại chỗ!… Đừng tìm cách trốn đi… Cứ tiếp tục công việc tông đồ của mình… Chúng tôi tôn trọng tài sản và con người các anh.

Sau đó khoảng 1 tháng, họ tự gán cho mình nhiệm vụ “bảo vệ”, lấy cớ là để bảo đảm an toàn hơn cho các ngài – thật ra là để canh chừng:

Vùng này không an toàn… Chúng tôi có trách nhiệm về sự an toàn của các anh… Từ nay, đừng ra ngoài nữa … Hãy ở lại trong họ đạo chính của các anh…

Vậy là các vị Thừa sai không còn có thể đi thăm viếng các họ đạo của mình nữa, các ngài bị cắt liên lạc với thế giới bên ngoài, không còn tin tức gì.

Giai đoạn thứ ba sẽ là gì? Đức Cha tiên đoán rằng, nếu như Việt Minh làm chủ tình hình, thì chưa đầy 3 tháng, các linh mục sẽ bị bắt giam. Còn nếu như chúng bị đẩy lui, chúng sẽ dẫn tất cả các ngài theo. Chúng đã làm như vậy ở những nơi khác. Chúng sẽ tránh việc biến các ngài thành những người tử đạo, nhưng khi tách lìa các ngài khỏi giáo xứ, chúng sẽ tiêu diệt ảnh hưởng của các ngài, và khi đó đám cán binh cộng sản tha hồ vùng vẫy. Ngoài ra, các ngài sẽ là những con tin mà chúng có thể sử dụng để đánh đổi, khi cần. Đó là giờ của đức tin, giờ của đức cậy, một trong những giờ sinh nhiều hoa trái vì qua Đêm Thương Khó, Sự Phục Sinh vào ngày mai đang được chuẩn bị.

Thật vậy, sự kế tục đang được chuẩn bị ở đầu bên kia thế giới: vào giờ đó, ở chủng viện Hội Thừa Sai, tại Rue du Bac, Paris, Đức Cha Bề trên cả đang chuẩn bị truyền các chức thánh cho 9 tân linh mục, 7 thầy phó tế, 14 thầy phụ phó tế; cho 20 thầy chịu các chức nhỏ, và 12 thầy chịu phép cắt tóc; 14 ứng sinh và một sư huynh phụ tá sẽ tuyên xưng lời “khấn tạm”, và 15 người được chính thức gia nhập Hội. Như thế, nước Pháp lúc nào cũng có những linh hồn và những con tim can đảm, anh hùng!

Điện Biên Phủ thất thủ

Ở Đông Dương, vào đầu tháng 4 này, thời gian như ngừng lại, trong cái “bẫy” Điện Biên Phủ: ban đêm, dọc theo những đường mòn vô hình xuyên qua rừng rậm, đám đông như kiến của các bộ đội Việt Minh đang tiến về nơi đó, được sự trợ giúp của 20,000 culi khuân vác khí giới và các vật dụng hậu cần. Hàng trăm tấn được âm thầm vác trên lưng người như thế: đạn dược, xăng dầu, gạo và đồ dự trữ đủ loại. Hồ Chí Minh và tướng Giáp[6] sẵn sàng hy sinh hàng ngàn cán binh cộng sản: chúng sẽ được luân phiên thay thế; Trung Cộng, ở sát ngay bên, là một nguồn lực vô tận!

Điện Biên Phủ là một căn cứ cố thủ, một pháo đài được xây dựng – ngược với những ý tưởng đã qua thử nghiệm và thành công trước đó – không phải trên một điểm cao, nhưng trong một lòng chảo dài 16 km và rộng 6 km. Tứ phía đều là núi với rừng nguyên sinh bao phủ; đó là mục tiêu lý tưởng cho bất cứ ai muốn tấn công. Một phi trường nằm giữa lòng chảo, được các tiểu đoàn thiện chiến bảo vệ. Giao thông hào, đường hầm, hầm trú ẩn, lô cốt bảo đảm cho việc phòng thủ.

Chỉ cần mất chưa đầy 2 tháng kẻ thù đã dẹp tan mọi ý đồ của các chiến lược gia người Pháp. Cuối tháng 4, phía Pháp chỉ còn lại 4,200 quân trên tổng số 16,000 quân đã được ném vào trận chiến. Về phía Việt Minh, có 8,000 người tử trận và 15,000 người bị thương, nhưng 30 tiểu đoàn được tái bổ sung nhanh chóng, và tướng Giáp sẽ ra lệnh tấn công vào lúc Hội nghị Genève bắt đầu khai mạc, để nắm được lợi thế trên bàn đàm phán và đạt được điều chúng muốn: công nhận nền độc lập của nước Việt Nam cộng sản.

Ngày 6 và 7 tháng 5, tướng Giáp ra lệnh tấn công các điểm tựa cuối cùng của Pháp; quân Pháp đã bị tràn ngập, và biến mất trong một cuộc xáp là cà hỗn loạn. Vào chiều ngày 7, hầm chỉ huy cũng qui hàng.

Sự thất thủ của Điện Biên Phủ đã có một tiếng vang to lớn trên thế giới và trở thành một trận đánh quyết định không phải chỉ cho chiến dịch năm 1954, nhưng còn cho cả cuộc chiến chống thực dân. Nó gây ra những ảnh hưởng trực tiếp và khủng khiếp cho tất cả vùng Bắc Phi và Châu Phi Đen, mà hậu quả còn kéo dài đến tận đầu thế kỷ 21.

Cách Điện Biên Phủ 1000 km, Đức Cha theo dõi tin tức mà hết sức hồi hộp, mặc dù bề ngoài Ngài tỏ ra bình tĩnh; Ngài biết rằng số phận của mình cũng như của Giáo phận có nguy cơ chẳng bao lâu sẽ hoàn toàn rơi vào tay cộng sản. Ngài hiểu rằng, trong một khúc quanh bi thảm, cả vùng Đông Dương sẽ sụp đổ, và tất cả nền văn minh Ki-tô giáo mà các vị thừa sai đã vun trồng suốt hơn một thế kỷ sẽ chìm vào hầm mộ.

Tổng cộng 100,000 người chết và 140,000 người bị thương, cả người Pháp lẫn người ngoại quốc; cộng thêm khoảng 100,000 đến 150,000 người bản xứ đã bị Việt Minh ám sát. Để chẳng đạt được gì cả! Và bây giờ có hàng mấy chục ngàn tù binh, trong đó 10,000 bị bắt ở Điện Biên Phủ, bị dẫn đi đến những trại tù chết chóc, hoặc ít nhất, các trại cải tạo – cũng chẳng khá gì hơn. Ngoài ra còn các vụ trả thù chống người dân đã trung thành với Pháp, và bây giờ họ sẽ bị hành hạ tới chết. Và cuối cùng là gì nữa: sự đổ nát tan tành của một đất nước mà chúng ta đã làm cho phồn thịnh, đã giúp cho phát triển bằng cách cống hiến biết bao đầu tư đáng kể, đó là chưa nói đến những cố gắng cho cuộc chiến thảm hại: chúng ta đã đem qua Đông Dương 240,000 binh lính, 450,000 nếu kể thêm các nước liên minh, những cấp chỉ huy tài giỏi nhất, máy bay, tàu chiến. Cái giá mà nước Pháp phải trả cho cuộc chiến này lên đến 3,000 tỉ quan Pháp. Đúng là điên rồ! Nhưng còn đáng giận hơn nữa khi biết rằng sự cấu kết của những thành phần cộng sản tại bản quốc với cộng sản Liên Xô và cộng sản Viễn Đông cũng góp phần không nhỏ trong thất bại chung cuộc này.

Trong những tuần lễ tiếp theo, có các trận đánh lẻ tẻ xảy ra ở chỗ này chỗ kia, đặc biệt trong vùng đồng bằng sông Hồng: người ta nói về việc “tái bố trí lực lượng” để che dấu việc người ta muốn vớt vát danh dự. Nhưng qua chiến thắng, Việt Minh đã đạt được mục đích chính của họ, đó không hẳn là việc làm cho tiềm năng quân sự suy sụp, mà là gây nên chấn động tâm lý trên tinh thần của các nhà lãnh đạo và các chính khách.

Hai tháng sau thất bại, Đức Cha Seitz viết thư về cho Ông Cố, và như mọi khi, yêu cầu Ông Cố giữ kín: Lúc này mọi thứ đều sụp đổ. Chúng ta không còn ra trận nữa: chúng ta chỉ tự vệ, đó là một chuyện hoàn toàn khác. Bởi vì chúng ta không còn khả năng chủ động các chiến dịch, điều khiển đối thủ của mình nữa. Đối thủ hoàn toàn nắm thế chủ động, chính họ đang điều khiển chúng ta, và chính họ chắc chắn sẽ thắng. Chúng ta chỉ chống đỡ, chỉ tự vệ, nhưng không vì thế mà không chết chóc. Các nghĩa trang đầy mộ, các bệnh viện đầy người bị thương. Nếu đây chưa hẳn là sự kết thúc, thì nó cũng bắt đầu giống hệt cơn hấp hối.

Người lính, người thừa hành, vẫn rất đáng kính phục. Biết bao tấm gương anh hùng, biết bao hy sinh cống hiến, mà Điện Biên Phủ chỉ là một trong các đỉnh điểm! Bộ Tham mưu, ban chỉ huy cao cấp đã bị tràn ngập, không còn khả năng vực dậy một tình hình, mà xét theo các sự kiện thực tế, đã hoàn toàn tuyệt vọng. Bernanos viết: “Nước Pháp không thiếu người tài cấp dưới, nhưng thiếu người tài cấp trên”. Đó là một điều hiển nhiên đã có từ lâu.

Cuộc chiến Đông Dương đã có thể tránh và phải tránh được từ năm 1945. Trong thời gian gần 10 năm của cuộc chiến này, con khẳng định là chúng ta đã chồng chất không biết bao nhiêu sai lầm, làm đủ mọi chuyện ngu xuẩn. Chẳng có tai ương không thể cưỡng lại nào đè lên chúng ta. Chỉ cần một chút suy nghĩ chín chắn và tưởng tượng sáng tạo là có thể tìm ra và áp dụng những phương pháp hiệu quả. (…)

Mẫu quốc Pháp qui tội cho Đông Dương là đã làm suy mòn và giết chết mình từ từ. Điều đó không đúng. Chính mẫu quốc mới bị bệnh chết người và đang lây truyền cái chết. Các vị chỉ huy của chúng ta đã lên án quân đội Việt Nam là bất tài, thiếu niềm tin, vô giá trị.  Lại thêm một sự bất lương, hay một thói giả hình nữa. Để đánh giá tinh thần chiến đấu của người Việt Nam, chỉ cần nhìn ngay trước mắt: “những người Việt Nam – Việt Minh” biết chiến đấu và hy sinh. Họ còn biết ép chúng ta, và buộc chúng ta phải xin xỏ ở Genève. Tại sao những người Việt phía bên ta lại không được như vậy? Phải chăng chúng ta đã làm họ thất vọng, phải chăng chúng ta đã không biết cách khiến họ “dấn thân”? Nhưng thay vì tự xét mình và tự đấm ngực, chúng ta lại lên án họ: như vậy dễ hơn!

Vào lúc Đức Cha Seitz viết những dòng này, những cuộc thương thảo đang diễn ra tại Genève, trong khi các chính phủ cứ liên tiếp thay đổi ở Paris.

Cùng lúc đó, người Mỹ, những người đã không hề cho cất cánh một chuyến bay nào để giúp đỡ Pháp, nhưng lại rất muốn thiết lập một hệ thống phòng thủ mới ở Đông Nam Á để tiếp tục cuốc chiến chống chủ nghĩa cộng sản, đã ép hoàng đế Bảo Đại, khi thấy uy quyền của mình vuột khỏi vòng tay, chấp nhận một vị thủ tướng mới, một người phản đối kịch liệt Hiệp Định Genève: ông Ngô Đình Diệm, người chẳng bao lâu sẽ trở thành Tổng thống của nước Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ sau đó sẽ bỏ rơi ông vì những lý do chính trị ấy và những lý do khác nữa, và họ còn bị xem là phải chịu trách nhiệm về việc ám sát ông. Đức Cha Seitz tự hỏi:

Ông Ngô Đình Diệm có phải là người hùng của tình hình này không, và ông có đủ thời giờ không? Nếu không, chúng ta sẽ chấp nhận một cuộc hưu chiến chỉ để thoát khỏi cảnh khốn cực này. Và sau vài tháng, làn sóng đỏ sẽ tràn ngập nơi đây, rồi ngày mai đến lượt Phi châu bốc cháy.”

Lúc nào cũng đi trước một bước, Ngài nói tiếp với sự sáng suốt thường lệ: Có bao nhiêu người Pháp có khả năng hiểu rằng thời của các “đế quốc thuộc địa” đã qua? Và công thức “các nước liên hiệp” chỉ là một cách thức trá hình để duy trì việc đó? Có bao nhiêu nhà lãnh đạo có can đảm và sáng suốt để tránh một “cuộc cách mạng”, bằng cách ủng hộ “sự tiến hoá” rất chính đáng của các dân tộc này, họ không còn chấp nhận bị đối xử như trẻ con nữa?

Chúng ta vẫn còn ấu trĩ trong suy nghĩ của mình. Ngày mai, nước Pháp rất có nguy cơ trở thành một tiểu quốc già nua, giống như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong quá khứ và hiện tại, sau khi đế quốc rộng lớn của họ sụp đổ vào thế kỷ 18. Nước ta đang sống bằng khẩu hiệu, bằng sự sợ hãi và bằng những phương thế tạm bợ. Nó không còn là một quốc gia nhân bản, để hiểu được con người và ý thức về sứ mạng của mình trên thế giới. Nó không còn đi bước trước, nó đang chịu đựng. Sức mạnh và sự vĩ đại của nó không nằm trong sắt thép, than đá, công nghiệp nặng hay nguyên tử, thậm chí cũng chẳng nằm trong đế chế của nó hiện đang rơi ra từng mảnh, nhưng nằm trong tinh thần của nó, trong sự tỏa sáng của tâm hồn nó. Nếu như chúng ta còn có thể đóng một vai trò quan trọng trong thế giới – mà con rất xác tín điều đó – thì chính là nhờ tinh thần và tâm hồn của chúng ta. Chính trên xác tín này, con nghĩ thế, mà còn có thể xây dựng một nền chính trị trong sáng và cao cả.

Đức Cha để cho ngòi bút, hay đúng hơn là suy nghĩ của mình, lướt tới, phân tích các triệu chứng của sự dữ đang lan tràn trên thế giới, và tìm tòi các phương thuốc chữa trị. Phương thuốc ấy, Ngài chỉ thấy được trong việc lập lại trật tự do Đấng Tối Cao thiết định, trật tự mà con người đã lìa xa bởi thói “vô trật tự”.

Con nghĩ rằng thế hệ này sẽ qua đi, và có thể cả thế hệ sau nữa, trước khi bình minh ló dạng. Nhưng con không tuyệt vọng về con người. “Xin cho Nước Cha trị đến”.  Đức Ki–tô đã truyền chúng ta phải đọc như vậy trong Kinh Lạy Cha. Nước Cha sẽ đến, đó là một phần trong lời khẳng định đức tin của chúng ta, trong đức cậy không gì vượt thắng nổi của chúng ta. Ước gì mỗi người, từng cá nhân một, đi vào trật tự – ngay lập tức – bởi bất cứ lúc nào cũng đều thích hợp cho hành động này, và như vậy thế giới đã bước tới được một bước trong việc tìm ra giải pháp.

Con không bi quan cũng chẳng lạc quan, con không lo lắng: con đang tin tưởng chắc chắn. Vậy mà, ngay sát bên con, biết bao sự đổ vỡ, biết bao điều bấp bênh!…

Sau đó Ngài nhìn lại hoàn cảnh của mình, vào đầu tháng 7 năm 1954:

An Khê là một địa hạt nằm ở tuyến đầu của giáo phận con, về phía tây. Tuần vừa rồi đã phải sơ tán khỏi vùng này: lực lượng quân đội ở trong tình trạng rất nguy hiểm vì bị cô lập và bao vây.  Đó là “trung đoàn Triều Tiên”, gồm chủ yếu là lính Pháp. Người ta lại “tái bố trí lực lượng” (trong ngoặc kép: một từ ám chỉ cuộc rút lui). Một ngàn dân tị nạn cùng với tất cả giáo dân của con đã được di tản bằng máy bay. Lực lượng quân đội phải quay về Pleiku bằng đường bộ: 2 ngàn người và một khối lượng trang thiết bị khổng lồ. Suýt tí nữ thì biến thành thảm họa. Một loạt các cuộc phục kích làm mất hết trang thiết bị: hơn 200 chiếc quân xa đủ loại, tất cả khí giới hạng nặng, toàn bộ ban tham mưu của trung đoàn bị bắt làm tù binh. Một trong các thừa sai trẻ của con đã tự nguyện đi theo đoàn quân với tư cách là tuyên úy cũng bị bắt làm tù binh luôn.

Rất may là đoàn quân tan tác đã được chấn chỉnh lại, lính cứu viện được gửi tới, và phần lớn trung đoàn đã về tới Pleiku, sau khi mất 1 phần 5 lực lượng của mình.

Chuyện mà con kể ra ở đây chỉ là một “biến cố” trung bình trong tình hình hiện tại! Tất nhiên, công chúng Pháp không được thông tin với mức độ chính xác như vậy… và con cấm Cha không được tiết lộ bức thư này cho bất cứ ai ngoài vòng gia đình hay bạn bè thân thiết và rất kín đáo[7]. Không một bức thư nào của con được đưa ra cho công chúng.

Con đang ở Ban Mê Thuột, ở giáo xứ cuối cùng, giai đoạn cuối cùng, với các linh mục còn lại của con. Nếu cuộc tiến quân của Việt Minh tiếp tục, chúng con sẽ ở lại: đã quyết định như thế. Đó là bổn phận của chúng con. Rồi sẽ đến ngày người ta không còn có thể, và cũng chẳng còn có quyền, đi tìm những vùng đất yên bình. Khi đó chỉ còn phó thác hơn một chút vào sự Quan Phòng của Chúa và chu toàn bổn phận làm chứng nhân cho Chúa. Điều đó không khó. Chuyện quá rõ.

Lúc đó con sẽ ở lại phía sau bức màn, như bao nhiêu người khác đã ở đó, bị tách khỏi thế giới và bị ném vào một thế giới khác. Thế giới khác này một ngày nào đó cũng sẽ phải hiểu nhiệm vụ chính yếu của nó là gì. Nó sẽ hiểu.

Những điều này, con nói cách đơn giản, bởi vì gia đình mình phải sẵn sàng chờ đợi. Và cũng bởi vì con nghĩ gia đình mình sẽ có đủ sức mạnh tâm hồn và đức tin để chấp nhận, không kinh hoảng một cách vô lý và không than khóc. Xin nhớ cầu nguyện cho con, cho mọi người, như chúng con đang cầu nguyện cho gia đình mình. Và chúng ta sống trong niềm hy vọng. (...)

Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, con đã quyết làm việc cho tới giây phút cuối … và ngay cả sau đó, nếu có thể! Do đó, con tổ chức lại nhóm thừa sai nhỏ của con ở Ban Mê Thuột. Trong tuần này, con mở lại Tiểu chủng viện, với khoảng 20 em, phần đông là các em từ cô nhi viện Hà Nội trước đây, những đứa khá nhất. 5 nữ tu dòng Biển Đức vừa từ Pháp đến đang trên đường lên Cao Nguyên. Các xơ đến để thành lập một Đan viện ở đây. Đúng là một sự điên rồ.  Nhưng sẽ còn cần nhiều sự điên rồ như vậy để chữa lành sự dữ đang giết chết chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy bước đi khi trời còn sáng. Và con rất tự hào đã tìm được những người thấu hiểu điều đó!

Những tin tức mới nhất, con vừa được biết rằng Việt Minh vừa ra lệnh sơ tán tỉnh Kontum, dân chúng bị buộc phải rút vào rừng. Nhưng họ đã chống lại cái lệnh gây chết chóc ấy … Con không biết những người dân tội nghiệp này có phải nhượng bộ không. Nếu có, chúng con sẽ thấy một thành phố tan hoang… khi được phép quay lại nơi đó!

Dù sao cuộc đời vẫn đẹp!

Hiệp Định Genève (20/07/1954)

Qua 17 năm ở Đông Dương, Cha Paul Seitz không mấy khi có được những giờ phút thanh bình, không mấy khi có được một năm để thi hành sứ vụ của mình trong một bầu không khí yên tĩnh, để xây dựng những vùng truyền giáo của mình với hy vọng chúng sẽ tồn tại, ít nhất cho đến bao lâu mình còn sống.

Vào lúc mà người ta còn thảo luận một hiệp định ngừng bắn ở Geneve, để đi đến một hòa bình thật sự sau đó ở Đông Dương, thì cuộc chiến thắng của Việt Minh ở Điện Biên Phủ chẳng báo hiệu điều gì tốt lành cho người Công giáo là những người có nguy cơ sẽ bị bỏ quên và hy sinh cho những “quyền lợi lớn hơn”, một kiểu nói giả hình, thường là để che dấu cho sự bất lực và hèn nhát.

Những cuộc đụng độ lẻ tẻ vẫn diễn ra xung quanh Kontum cũng như nhiều nơi khác, mỗi bên tham chiến đều muốn giữ vị trí của mình và thậm chí mở rộng ra cho đến khi Hiệp định được ký kết. Những cuộc xâm nhập gần Ban Mê Thuột được báo cáo vào khoảng ngày 15 tháng 7, nơi Đức Cha đang trú ngụ: viên tướng chỉ huy chiến dịch Atlante, người đã gặp thảm bại từ trận này qua trận khác trong 8 tháng qua, điện cho tướng Navarre yêu cầu phải sơ tán thành phố; thay vì được hồi đáp ông đã bị cách chức và thay thế. Ngày 20, việc ký kết hiệp định đã giải quyết tình hình và chận được đà tiến quân của Việt Minh. Cuối cùng thì các vị thừa sai có thể thở phào nhẹ nhõm được chưa?

Vậy kết quả của Hiệp định Genève như thế nào? Một hiệp định sẽ thay đổi bộ mặt của Đông Dương, sau các cuộc thương thuyết giằng co, sau những áp lực của các nhà ngoại giao và quân sự thuộc các cường quốc trên thế giới: từ Hoa Kỳ đến Trung Cộng, rồi Anh Quốc và các nước lân bang – Lào, Cam Bốt, Thái Lan?… Vị trí của các bên tham chiến chồng chéo vào nhau  rên toàn bộ lãnh thổ, đến mức không thể tách họ ra nếu không bảo đảm cho mỗi bên một vùng riêng biệt, do mình làm chủ, không chèn lấn với phía bên kia. Vì vậy phải giải quyết bằng cách chia đôi đất nước, ở vĩ tuyến 17. Tất cả Miền Bắc sẽ bị giao cho Việt Minh cộng sản dưới cái tên “Cộng hòa nhân dân”, dân chúng trong vùng này nếu muốn có thể di cư vào Miền Nam, nơi trở thành một nước “Cộng Hòa dân chủ” độc lập, một quốc gia thuộc “Liên Hiệp Pháp”.

Đức Cha Seitz nhận tin này với quả tim se thắt. Tất nhiên, đã có cuộc ngừng bắn. Nhưng vùng Bắc Bộ thân thương của Ngài, thành phố Hà Nội nơi Ngài đã bỏ ra biết bao nhiêu công sức, nơi Ngài đã để lại hằng trăm trẻ mồ côi con cái Ngài, và biết bao bạn bè thân thiết …Họ đã như thế nào?… Bây giờ họ sẽ ra sao?… Ngài không hề ảo tưởng về nội dung của bản Hiệp định, trong đó hàm chứa – ngay cả những người đặt bút ký đã thú nhận như thế – nhiều điểm mơ hồ và mọi mầm mống cho một cuộc xung đột mới.

Trên khắp nước Việt Nam, dù có lập trường quốc gia hay thân Pháp, Hiệp Định Genève đã tạo nên một bầu khí rất hoảng loạn. Hoàng đế Bảo Đại, người mất một phần lớn lãnh thổ của mình, đã không được tham khảo ý kiến bao nhiêu và lại càng không được lắng nghe. Ông đã từ chối không ký bất cứ cái gì. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã biểu lộ sự giận dữ và thủ tướng đã đứng lên phản đối kịch liệt “cái hành động xấu xa đã giao cho cộng sản toàn bộ Bắc Kỳ lại còn thêm 4 tỉnh Trung Kỳ.”  Tất cả các công sở ở Sài Gòn đều treo cờ rũ.

Tại Pháp, việc kết thúc chiến tranh được dư luận đón nhận tuy với nỗi buồn nhưng cũng thấy nhẹ người. Người ta thương khóc kẻ chết, chờ đợi sự trở về của các tù binh, mà sự trao đổi đã được quy định trong hiệp định. Người ta trao cho nhà cầm quyền Việt Minh 63,000 tù binh, đã được đối xử rất nhân đạo, theo đúng như luật lệ quốc tế, trong các trại thường xuyên được hội Chữ Thập Đỏ viếng thăm.

Ngược lại, trong tổng số 37,000 tù nhân gồm binh lính, các dân sự, và các vị thừa sai, quốc tịch Pháp hoặc thuộc các nước đồng minh, đã được báo cáo mất tích, chỉ còn hơn 10,000 được Việt Minh thả trong tình trạng thân tàn ma dại! … Hơn 6,000 người, giống như mới thoát ra từ các trại tù Đức Quốc Xã, đã phải nhập viện vì sức khỏe suy kiệt, bởi họ đã bị buộc phải trải qua một đợt “cải tạo”, thật ra là một sự “tẩy não”[8].

120,000 người của lực lượng viễn chinh Đông Dương rút lui về Hải Phòng, từ đó họ di chuyển về Sài Gòn, cuộc ra đi của họ đã kéo theo làn sóng di cư ồ ạt của dân Bắc Kỳ, được phép chọn vào Nam trong vòng 300 ngày, sau đó các biên giới sẽ đóng cửa ở vĩ tuyến 17. Nhiều làng công giáo đã kéo đi toàn bộ, nông dân của vùng đồng bằng hoặc miền trung du; các bộ lạc dân tộc Nùng, Thái, Mèo, đã bỏ lại quê hương và tài sản, để di cư vào Nam, con số lên đến hằng trăm ngàn người. Trách nhiệm của nước Pháp là phải đáp ứng nhu cầu cơ bản, và tìm cho họ một nơi tiếp đón.

Bị bất ngờ, Việt Minh đã tìm cách ngăn chặn làn sóng di cư, bằng cách thuyết phục hay dùng bạo lực, qua sự tuyên truyền cộng sản, qua việc phong tỏa các con đường. Nhiều người tìm cách chạy thoát ban đêm bằng thuyền, bè hoặc những phương tiện thô sơ; đôi khi họ được các tàu Pháp vớt, nhưng rất nhiều người đã chết trên biển – người ta không bao giờ có thể biết con số chính xác. Cuộc xuất hành này trở thành một thảm họa. Một triệu người dân Bắc Kỳ đã vào được Miền Nam, nhưng vào lúc thời hạn 300 ngày chấm dứt, vẫn còn một số đông dân chúng muốn lựa chọn tự do, nhưng không thể nào đi được. Sự trừng phạt đối với họ sẽ sớm xảy ra, và những ai không chịu “tẩy não” phải bước vào “những trại cải tạo” lúc này đã đông nghẹt.

Còn Hoa Kỳ, kẻ đã từ chối tham gia vào Hiệp Định Genève cũng như đã không ra tay cứu giúp quân đội Pháp lúc bị cộng sản bao vây, lúc này lại vội vàng, với một vẻ thản nhiên như không, chuẩn bị các bước để thay thế Pháp ở Miền Nam, mà chẳng hề thông báo, trong khi lực lượng viễn chinh vẫn còn đó để bảo đảm việc thi hành Hiệp Định; Mỹ đã hứa với ông Ngô Đình Diệm sự giúp đỡ trực tiếp để – theo lời của Eisenhower – chống lại “sự nổi loạn”.

Thật đúng lúc! Sự vi phạm danh dự này không đem lại may mắn cho họ và thất bại nhục nhã của họ, vài năm sau, trong những hoàn cảnh tương tự như của Pháp, đã được nhiều người cảm nhận như là một hình phạt công bằng và đáng buồn.

Trở về Kontum (31 tháng 8 năm 1954)

Phải rời Kontum từ đầu tháng hai, tỵ nạn ban đầu ở Pleiku, rồi Ban Mê Thuột, Đức Cha Seitz tự ví mình như một thuyền trưởng trong cơn bão táp dữ dằn nhất. Các cánh buồm rách nát, cột buồm gãy đổ, vỏ tàu bị lủng và nước tràn vào tứ phía. Làm sao có thể cứu hành khách, tất cả mọi hành khách? … Ngài không để mất một giây phút nào để bảo vệ tất cả, vượt qua các lằn ranh thù địch để viếng thăm các vị Thừa sai, cứu dân tỵ nạn, tìm nơi ăn chốn ở cho những ai mà làng mạc đã bị phá hủy. Ngài quy tụ lại các thành viên của Hội đồng Mục vụ, thành lập một Ban thư ký, các văn phòng trọng yếu, và bắt đầu nghĩ đến các Chủng sinh Tiểu chủng viện và Đại chủng viện mà Ngài phải gấp rút tìm chỗ cư trú và nguồn lương thực.

Chính vào thời điểm đó, như là một sự giúp đỡ từ trời rơi xuống theo đúng nghĩa đen, ngay ngày ký kết hiệp định Genève, năm nữ tu Dòng Biển Đức từ Vanves, gần Paris, đã được phái đến theo sự yêu cầu của Ngài, để thành lập một Đan viện trong giáo phận. Thật đúng lúc!… Chắc nhiều người phải nghĩ như thế. Tất nhiên, đây đúng là thời điểm lý tưởng để thành lập một tịnh thất cầu nguyện giữa những hiểm nguy.

Tuy nhiên, cơ sở nhỏ bé dành cho nhà dòng cũng còn chưa ló dạng, dù đã được tính trước; vì vậy phải thu xếp cho các xơ ở nhà dân. Các xơ thích nghi rất tốt, vì đã sẵn sàng đón nhận mọi thiếu thốn, và ngay lập tức họ bắt tay vào việc tự mình xây dựng một Đan viện nhỏ tạm thời bằng ván. Chỉ sau vài tuần lễ, họ đã có nhà cửa – dù rất nghèo hèn – và cả “nội vi” – nếu như người ta có thể dùng từ “nội vi” cho những nữ tu có tinh thần “thừa sai”, và trong xứ sở đã bị tàn phá và chiếm đóng này. Đức Cha Seitz đã viết trong tiếng thở phào nhẹ nhỏm:

Vậy là Các Bà đã đến, và từ nay họ sẽ luôn luôn ở đó, một ốc đảo của cầu nguyện giữa muôn người ngoại đạo. Tôi đặt tin tưởng nhiều vào họ, vì chỉ cuộc sống chiêm niệm của họ thôi cũng có thể kéo về cho Giáo phận và đặc biệt cho xứ sở Rhađê mà họ đang sống, những phúc lành của Chúa, và các ơn trở lại đạo, mà nếu không có thì chúng ta dù cố gắng chiến đấu cũng vô ích thôi.

Vì Việt Minh có mặt khắp nơi. Mặc cho Hiệp Định. Mặc cho lệnh ngừng bắn đã ký kết. Chúng vẫn luồn lách, xâm nhập vào tất cả mọi lối mòn trong rừng núi, tất cả mọi làng mạc mà người Thượng đã phải rời bỏ, tất cả mọi guồng máy và phương tiện liên lạc, với một sự tinh tế, khôn khéo và kiên trì đặcbiệt Á đông. Miền Bắc đã rơi vào tay họ. Miền Nam đang nằm dưới ảnh hưởng của họ, họ đã gài người vào mọi nơi một cách có tổ chức và bài bản. Họ còn có mặt cả ở những chỗ bất ngờ nhất; họ hành động, họ làm việc; họ kiên nhẫn chờ đợi và tính toán kỹ lưỡng thời cơ chín mùi. Đức Cha viết tiếp:

Nếu như, do phép mầu nào đó, một tinh thần mới không đến để hồi sinh Miền Nam, thì vào giờ mà cộng sản chọn lựa, trái chín sẽ rơi vào tay chúng. Ngay sau khi tiếng súng cuối cùng ngừng nổ, bằng chứng hiện rõ: các bộ đội đã rút đi, nhưng không phải tất cả. Một số đông trong bọn chúng cất giấu vũ khí, và biến thành các chiến binh thằm lặng; chúng trở nên các cán bộ tuyên truyền, kích động bí mật. Chúng duy trì sự “Sợ hãi”… bởi đó là một trong những khí giới hiệu quả nhất của chúng: gieo rắc sự rối loạn và sợ hãi trong lòng dân chúng và không bao giờ để cho dân chúng có được cảm giác an toàn. Đó là một phương diện, một yếu tố căn bản của cộng sản: đấu tranh giai cấp.

Số phận con cái Ngài ở Thị xá Ki-tô Vương là một mối ưu tư lớn của Đức Cha. Ngài đã thành công trong việc giữ liên lạc thường xuyên với các cha Dòng Salésien thay thế mình, và cha giám đốc Cô nhi viện đã bay vào để bàn bạc với Ngài. Ở lại Hà Nội là giao nộp hàng trăm trẻ em vào nanh vuốt của cộng sản, và sẽ bị chúng nuốt chửng. Đưa chúng lên Cao Nguyên có hay hơn không, vì tình hình nơi đây đã tạm yên, ít nhất trong một thời gian?

Ngài quyết định như vậy, và ngay lập tức Ngài tổ chức việc vận chuyển vào cuối tháng 7. Đưa về ở đâu toàn bộ cộng đồng 500 người kể cả trẻ em và Ban quản trị?  Đơn giản thôi, ở dinh Bảo Đại! Đức giám mục, không một chút do dự và tất nhiên không nghi ngờ về Đấng Quan Phòng, đã gõ cửa hoàng đế và được phép đưa Cô nhi viện của Ngài vào ở các khu nhà trong đồn điền rộng lớn của hoàng đế, cách Ban Mê Thuột 24 km, giữa rừng sâu. Trong một thời gian kỷ lục, với sự giúp đỡ của Công binh, Ngài đã sửa sang và thay đổi kết cấu để chuyển nhà máy cà phê và nhiều căn nhà khác nhau thành phòng ngủ và chỗ ở.

Trong sự hối hả, và nhờ sự quan tâm của Không Quân, lúc đó còn ở Hà Nội, Đức Cha cũng đã cho tháo dỡ toàn bộ cô nhi viện Ki-tô Vương, vừa mới được khánh thành long trọng trước đó không lâu: chỉ trong vòng 5 tuần lễ, Ngài đã cho chuyển bằng một cầu không vận từ Hà Nội đến phi trường nhỏ bé của Ban Mê Thuột, tất cả các vật liệu xây dựng, sườn nhà, mái nhà, xưởng thợ, bàn ghế, v.v… Từ đó, ngay sau khi cả trăm ngàn người di cư đã tìm được chỗ ở đâu đó ở phía nam vĩ tuyến 17, Ngài lại cho chuyển hết về gần Sài Gòn, vì đây là một thành phố lớn, sẽ thuận tiện cho các em hơn là ở Cao Nguyên, để các em mồ côi dễ tìm được việc làm sau thời gian học nghề. Một phép lạ như lần trước đã được lập lại: một khoảnh đất rộng đã được tặng cho các em và ngân sách cần thiết cho việc xây dựng sẽ từ trời rơi xuống, như thường lệ. Các trẻ em bị bỏ rơi của Hà Nội lại có được một mái nhà, giường ngủ và cơm ăn.

Trong số các em, có một nhóm khoảng 30 chủng sinh, những em khá nhất, ở lại bên vị Giám mục, để ngài gìn giữ, giúp đỡ, huấn luyện, dạy dỗ với hy vọng chúng sẽ được đi tiếp lên Đại chủng viện.

Trong lúc phải lo giải quyết hàng ngàn công việc như thế từ nơi lánh nạn ở Ban Mê Thuột, suy nghĩ của Đức Cha lúc nào cũng hướng về Kontum, trụ sở Tòa giám mục, và Ngài đã nghe những thông tin đáng lo ngại. Việt Minh đang có ý định dẫn theo chúng, khi rút lui, tất cả các già làng, tất cả những gì là quý giá trong các làng Thượng phía bắc. Không ai có phương cách nào để ngăn chặn chuyện ấy… Đó sẽ là một thảm họa. Ngoài ra còn một thảm họa khác là nạn đói, luôn hoành hành ở tất cả mọi nơi mà Việt Minh đi qua – đó cũng là chiến thuật thông thường của cộng sản, đã được áp dụng rộng rãi trước đây ở Ukraina và Trung Quốc.

Đức Cha bay về Sài Gòn, xin gặp viên Toàn quyền, tướng Ely và tổ chức một đoàn xe tiếp tế lương thực và thuốc men, và chuẩn bị sẵn cho ngày J, ngày mà những bộ đội Việt minh cuối cùng phải rời khỏi Kontum. Cùng thời gian đó, các cấp chính quyền quân sự và dân sự có thể đến lấy lại quyền kiểm soát lãnh thổ. Ngày J được các ủy ban hỗn hợp có trách nhiệm áp dụng Hiệp Định ấn định vào ngày 31 tháng 8. Đức Cha cũng muốn là người đầu tiên bước vào thủ phủ của mình, và sẽ tiến gần nhất có thể vì con đường hay bị cắt, gài mìn tinh vi, và tất cả các cây cầu đã bị phá hủy. May là Hiệp Định có dự liệu rằng Việt Minh phải gỡ hết mìn trước khi rút đi.

Vậy là, khi thì đi bộ, khi thì đi xe đạp, thay phiên chở nhau, giống như thời oanh liệt lúc mới đến nhận nhiệm sở trong vùng đồng bằng sông Hồng, Ngài đã vượt qua 47 km cuối cùng, không hành lý, xăn áo dòng, một dáng vẻ chẳng giống giám mục chút nào. Khi đến Kontum, Ngài thấy một cảnh tượng hoang tàn trước mắt: những công trình xây dựng đẹp đẽ trước đây – tuy đơn sơ và bằng vật liệu nhẹ – dinh tỉnh trưởng, các văn phòng hành chánh, các trường học, nhà dây thép, các trại lính, một nhà máy điện, một bệnh viện…, tất cả đã biến mất, tất cả đã thành bình địa, và Việt Minh còn vô liêm sỉ đến mức trồng bắp trên đó. Những nhà nào của dân chúng mà không bị phá hủy thì cũng phủ đầy khẩu hiệu tuyên truyền của cộng sản.

Nhưng niềm vui đã chiếm lấy Ngài khi Ngài gặp giáo dân, họ tung hô Ngài, và Ngài còn hết sức ngạc nhiên lúc tới trường đào tạo Giáo phu, sân trường và cả khu nhà được trang hoàng như trong các ngày đại lễ: vòng hoa xanh, cờ Tòa Thánh, cờ Việt Nam và cả cờ Pháp. Làm sao mà những thanh niên công giáo này có thể khéo léo tổ chức việc chào đón như thế trong khoảng thời gian giữa lúc anh bộ đội Việt minh cuối cùng ra đi và đức Giám mục của họ về đến? Làm sao họ dám giữ và dấu cờ Pháp? Thật là tinh tế biết chừng nào khi trang hoàng ngôi nhà trong ngày này!

Đức Cha đi ngay lên Tiểu chủng viện và đồng thời cũng là Tòa giám mục: lạ thay, ngôi nhà này vẫn còn nguyên và tất cả vẫn còn y như lúc Ngài ra đi; một cộng đồng nhỏ các nữ tu, một vị linh mục già, một giáo phu già vẫn gìn giữ ngôi nhà một cách kỹ lưỡng, lại còn dám cấm không cho Việt Minh vào. Không có gì bị cướp phá hay lục lọi trong phòng của Đức Cha: lại một phép lạ nữa!

Qua các lời kể về những ngày tháng bị chiếm đóng, Đức Cha đã mường tượng ra chiến thuật của cộng sản, mà Ngài bắt đầu nắm vững; chiến thuật đó cũng được áp dụng như vậy ở đây: quân chiếm đóng đã rất thận trọng, nhất là khi chúng đang ở trong một vùng mà chúng biết rằng rất mộ đạo. Chúng muốn lôi kéo người ta về với chúng, mà không gây sợ hãi. Vậy là chúng bắt đầu bằng cách khẳng định sự tôn trọng tự do tôn giáo, cũng như đạo đức công cộng. Dân chúng cứ sinh hoạt bình thường, thực hành việc đạo. Dân chúng rất cảm phục trật tự và kỷ luật của quân đội nhân dân: không còn cờ bạc – một tệ nạn quốc gia và lâu đời; không trộm cắp, không hà hiếp bóc lột, không cướp bóc của cải.

Như thế đã có một thời gian ảo tưởng, trong thời gian đó các cha có thể làm việc mục vụ và giáo dân có thể nghĩ rằng, suy cho cùng, mấy ông cộng sản này là những người hoàn toàn đúng đắn và không hề xấu xa như đồn thổi.

Nhưng chẳng bao lâu sau – chuyện này xảy ra ở Kontum cũng như ở nhiều nơi khác – những kẻ mới tới bắt đầu để lộ chân tướng. Chúng buộc dân chúng lũ lượt tham gia các cuộc mít tinh, những buổi tự kiểm điểm, tẩy não. Chúng chuẩn bị tinh thần cho người ta ủng hộ quân đội nhân dân trong cuộc chiến chống tư bản, thực dân, đế quốc. Rồi chúng đưa ra mục tiêu đầu tiên là xóa bỏ mọi tàn tích xấu xa của chế độ đáng ghét này. Bằng cách nào? Bằng cách phá hủy tất cả các công trình dinh thự là dấu vết rành rành của thời quá khứ. Sau này, người ta sẽ xây dựng lại, lớn hơn, đẹp hơn. Lệnh đập bỏ được ban ra, mỗi người phải giơ cao nhát cuốc của mình. Người ta đã không càu nhàu, vì đã có lời hứa.

Đến lúc đập bỏ nhà máy điện Kontum và phá hủy máy móc, thì đã có một tí cảm xúc, do dự; tuy nhiên, vì sẽ được xây dựng lại tốt hơn trước, nên không ai chống đối.

Nhưng khi nói đến chuyện phải phá trường học, và thậm chí bệnh viện, dân chúng đã bước từ do dự sang cự cãi: “Chúng ta có thể đợi xây xong bệnh viện mới rồi sẽ đập bệnh viện cũ được không?” – “Không được! “Dân chúng chống lệnh và không thực hiện. Trong vòng 1 tháng Việt Minh không đạt được kết quả nào. Chúng chuyển sang đe dọa. Một vài người sợ sệt, và đã đập phá trường học, bệnh viện. Nhưng một vết thương từ nay đã hằn sâu vào trái tim dân chúng.

Cùng lúc đó, vì bị thúc ép bởi viễn cảnh của Hiệp Định sắp được ký kết và có nguy cơ sẽ gây trở ngại cho chúng, bọn cán bộ tuyên truyền vụng về khởi xướng một chiến dịch bài trừ tôn giáo, ban đầu còn nhẹ nhàng nhưng chẳng mấy chốc hiện rõ. Chúng đã dùng những ngôn từ phỉ báng đối với các Giám mục người Việt ở phía Bắc, và tuyên bố rằng người ta có thể là người Công giáo tốt mà không cần thần phục Đức Giáo hoàng: “chia để trị”, đúng là một chiến thuật của quỷ Satan!

Nhưng lần này thì quá lắm. Hội các Bà mẹ Công giáo đứng lên đầu tiên. Các bà đã đến phản đối mạnh mẽ những tên kích động. Tới ngày mà mấy tên này dám nói rằng phải đập phá Tiểu chủng viện và Tòa giám mục, chúng đã bị la ó và phản đối kịch liệt. Và Việt Minh buộc phải lùi bước!

Chưa hết: chúng đã không thể ngăn cản các nhóm thanh niên Công giáo, được sự ủng hộ của những người có ảnh hưởng, tụ tập nhau và, như một cách phản đối, lao đầu vào việc sửa sang lại nhà thờ Chính tòa, tới mức khi Đức Cha trở về, Ngài đã có một sự ngạc nhiên thích thù là thấy nhà thờ đã được tu bổ toàn bộ. Tất cả các ngày công đều là đóng góp thiện nguyện, ngay trước mắt Việt Minh mà chúng chẳng dám cấm đoán.

Được thành công này tiếp thêm sức mạnh, vào ngày 15 tháng 8, lễ Đức Mẹ Lên Trời, giáo dân đã tổ chức một cuộc rước kiệu long trọng tụ họp cả mấy ngàn người tham gia, Kinh và Thượng – dưới sự chứng kiến của quân đội nhân dân. Để kỷ niệm 100 năm ngày tuyên bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội, đây đúng là chiến thắng của Đức Mẹ, đang vui mừng trên trời và chúc phúc cho đám đông hoan lạc. Việt Minh không thể tưởng tượng được tình cảnh này. Điên tiết, chúng thú nhận rằng:

Xứ này nằm hoàn toàn trong tay các ông cha xứ! Khi tổ chức các buổi mít tinh, chúng tôi không đạt được một phần tư số người mà các ông quy tụ.

Trong rừng, người Thượng Công giáo đau khổ hơn: 4 xứ đạo xa đã bị cướp bóc, các Cha người Pháp bị cấm không được ra khỏi nơi cư trú, các tín hữu bị nhồi sọ; những người này, bề ngoài tỏ ra lãnh đạm, cũng tham gia các buổi họp, nghe các bài tuyên truyền, nhưng không phản ứng. Đức Cha nhận định:

Nói chung, 7 tháng bi chiếm đóng này đã đem lại nhiều điều tích cực hơn là có hại cho dân chúng, về phương diện tinh thần cũng như tâm lý: họ đã có một sự hiểu biết rõ ràng về cộng sản, một lý thuyết tự bản chất là xấu xa, vô thần, và chống tôn giáo, nhờ đó khơi dậy lên trong họ một thứ bản năng giữ đạo, một ước muốn được sống trung thành hơn với đức tin và Giáo Hội.

Vừa về đến nhà, Đức Cha phải tiếp hết đoàn này sang đoàn khác từ tất cả các làng Thượng, họ đến bày tỏ niềm vui vì chiến tranh đã kết thúc một cách thuận lợi cho họ, và họ xin tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn lo, vì Việt Minh trước khi rút lui đã tuyên bố dọa nạt rằng:

Coi chừng, chúng tao đi vì chúng tao muốn đi; nhưng chúng tao là những người chiến thắng, và trong vòng hai năm chúng tao sẽ trở lại. Khốn cho tên nào giữa tụi bay mà tiếp đón và cộng tác với chính quyền sẽ tới tiếp quản; những tên đó sẽ biết tay chúng tao, và chúng tao sẽ không thương tiếc.

Đó là điều mà Đức Cha gọi là một “trái pháo nổ chậm đầu tiên”.

Còn trái pháo thứ hai, đó là gần như khắp nơi trong rừng, những tên kích động đang lẩn trốn, đi qua đi lại, tuyên truyền và khủng bố dân chúng. Trước nguy cơ đáng sợ này, có lý do để lo ngại thực sự. Chính quyền Cộng Hòa Dân Chủ non trẻ ở miền Nam không có gì để đối phó. Đức Cha nhận xét như sau, trong khi vẫn khuyến khích người giáo dân của mình sống đức tin, phải can đảm, không sợ gì, kể cả cái chết:

Đó là một cơ thể bệnh hoạn, không xương sống, chẳng có đầu. Các tỉnh lỵ ven biển gần đây vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh, những đám đông nghèo nàn rách rưới, đói khổ, bệnh tật, mất phương hướng, đến với chúng tôi mỗi ngày. Họ chạy trốn những ngày cuối của chủ nghĩa cộng sản, vì các thành phố của họ sắp phải trả về cho Miền Nam Việt Nam. Họ chạy trốn vì đã quá chán ngán chế độ cộng sản. Gần 10 năm nay họ đã làm nô lệ cho chúng, hết chịu nổi rồi. Nhiều người đến với chúng tôi để được chăm sóc sức khoẻ. Họ xin gạo, quần áo, công việc làm. Thật là tội nghiệp!

Ngài viết trong cuốn Bản Tin Hội Thừa Sai, khi trở về sau cuộc lưu đày: Tôi khẩn cầu các người, hỡi những người bạn của nước Pháp, tôi khẩn cầu các người hãy gửi qua đây tất cả các tay “phái tả”, “phái cấp tiến” thực lòng…: mời họ đến đây để thấy được và nghe được tiếng kêu la của hàng triệu con người này: đàn ông, đàn bà,  trẻ con, thanh niên và người già, họ biết mình đang làm gì khi chạy trốn chủ nghĩa cộng sản ăn thịt người!

[1] Préfet de la Propagande à Rome. (Bộ trưởng Bộ Truyền Giáo Rome)
[2] Catula:  toà giám mục in partibus infidelium, ngày xưa thuộc  Mauritanie Césarienne, bây giờ thuộc Algérie. Catula có thể là Oued Damus ngày nay.
[3] Mgr John Dooley là Khâm sứ Tòa thánh vùng Đông Dương
[4] Nhắc lại: đọc là Kia Kim
[5] (Ngài vội vã lên đường, đến miền núi – Lc 1,39): Thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta về việc Thánh nữ Đồng trinh Maria vội vã lên đường viếng thăm bà Elisabeth, sau khi Thiên thần truyền tin.
[6] Tướng Giáp mất năm 2013, thọ 102 tuổi.
[7] Ngài gạch đít nhấn mạnh.
[8] Nhiều sách vở đã viết về những biến cố mà chúng tôi tóm tắt ra đây. Chúng tôi đã dùng con số và chi tiết của tướng Yves Gras trong trong cuốn Histoire de la Guerre d’Indochine của ông. (tạm dịch: Lịch sử Chiến tranh Đông Dương)

Download file nghe: Chương VII - 1

Download file nghe: Chương VII - 2
Download file nghe: Chương VII - 3
Download file nghe: Chương VII - 4

 **********************************************************

CHƯƠNG VIII
TRÊN TẤT CẢ CÁC MẶT TRẬN
(1954-1960)


Lá Thư Mục Vụ ngày 7 tháng 10 năm 1954

Trở về Kontum được hơn một tháng, Đức Cha Paul Seitz gửi tới các linh mục và giáo dân Lá Thư Mục Vụ Thứ Nhất. Lá Thư vừa trình bày thực trạng của đất nước, vừa phân tích một cách không khoan nhượng về chủ thuyết Mác xít vô thần đang xâm chiếm đất nước, nhằm cảnh báo giáo dân về những con sói đội lốt chiên, vừa là lời mời gọi mọingười hãy cầu nguyện, tin tưởng, can đảm và trung thành.

“Hãy là những tông đồ nhiệt thành và can trường” đó là nội dung chính, với cả hai đức tính này đã dính liền với tên tuổi của Ngài. Tuy vậy, ngay từ những lời mở đầu, Ngài đã không dấu được thảm cảnh màđất nước Ngài đã nhận làm quê hương đang phải đương đầu:

Ngài viết: “Trong suốt tám tháng vừa qua, tình hình nước Việt Nam đã trở nên trầm trọng và bi thương: đất nước bị chia đôi, một chính quyền cai trị phía Bắc và một chính quyền khác cai trị phía Nam. Do đó, sự hiệp nhất của Giáo Hội tại Việt nam bị xé nát.”

Đức Giám Mục, với bổn phận coi sóc linh hồn, nhắc nhở anh em rằng Giáo Hội từ 2000 năm nay đã luôn bị đe dọa, bắt bớ, xâu xé bởi các bè phái lạc giáo, tàn phá bởi các đồ đệ của Satan. Tuy nhiên, những người bắt bớ, những kẻ thù địch của Thiên Chúa và của Giáo Hội đều đã biến mất, đều đã bị quên lãng, còn Giáo Hội của Chúa Giêsu Ki-tô, từ một chồi non mảnh mai lúc ban đầu, đã ngày càng phát triển để trở nên một cây cổ thụ bén rễ sâu và chắc chắn “Các cửa hỏa ngục sẽ không thể lấn át được” như lời Đức Giêsu Ki-tô đã khẳng định với thánh Phêrô”.

Đức Cha tóm tắt lý thuyết Karl Marx với những mục tiêu mà ông ta đề ra và được những người cộng sản đang xâm chiếm nước Việt Nam thực hiện như:

Đào tạo một giống người mới không có Thiên Chúa;
Tích cực đánh đổ mọi trật tự cũ, mọi tư tưởng xưa. Cho là tốt tất cả những gì phục vụ chủ nghĩa cộng sản, còn những gì ngược lại nó đều xấu;
Đấu tranh giai cấp, cùng với sự lừa dối, là phương thức hành động chính yếu;
Khốn thay cho những ai không cùng suy nghĩ với Đảng: họ bị đối xử như là tội nhân, là những người phản bội nhân loại, phản bội tổ quốc. Vì thế mọi xấu xa sẽ đổ trên đầu họ: bị tố giác một cách gian dối và có tổ chức, bị bắt thú tội công khai, bị đi đày, bị tù tội, bị nhân dân xét xử, bị ám sát một cách bẩn thỉu hoăc bị hành hình thô bạo trước đám đông;
Để bảo đảm sự thành công, cần phải làm cho mỗi người đánh mất nhân cách, không để con người được suy nghĩ và hành động một cách tự do. Cộng sản bắt ép, bẻ gãy con người, nhồi sọ và áp tải bằng sức mạnh, tẩy não, đe dọa mạng sống. Con người được cải tạo sẽ không được quyền suy nghĩ tự do, chính Đảng sẽ làm thay họ.
Tiếp đó, Đức Cha nhắc nhở con cái về những gì Thiên Chúa đã báo trước; đã đến giờ để chọn lựa Thiên Chúa hay Satan (Quỷ dữ), không ai có thể làm tôi hai chủ. Ngài truyền cho họ các mệnh lệnh: sống cuộc sống Ki-tô hữu mãnh liệt hơn, siêng năng tham dự các bí tích Giải Tội và Mình Thánh Chúa, đi đàng Thánh Giá và lần chuỗi Mân Côi. Học hỏi và đào sâu mọi tín điều của giáo lý Hội Thánh. Dấu hiệu chắc chắn về sự trung thành với Giáo Hội là sự trung thành với Đức Giáo Hoàng. Đó là lý do tại sao người cộng sản luôn bắt đầu muốn chúng ta không vâng phục Đức Giáo Hoàng.

“Chúng ta cũng phải loại bỏ nỗi sợ hãi khỏi con tim, xua tan mọi hận thù, mọi oán hận, mọi tư tưởng trả thù hay óc thống trị bạo tàn. “Hãy yêu kẻ thù”. Hãy tha thứ những điều dữ mà chúng đã gây nên hay sẽ còn gây ra cho chúng ta. Hằng ngày hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho họ. Hãy xác tín rằng không phải bạo lực hoặc vũ khí có thể đưa người cộng sản tìm về với chân lý và tuân phục Thiên Chúa, nhưng chỉ với chứng tá cuộc sống, chứng tá của tình yêu sáng ngời, chân thật và tinh tuyền của những người con Thiên Chúa nơi anh chị em”.

Đức Cha kết thúc bức thư dài, can đảm và sáng ngời như sau: “Phải chọn lựa: Tử Vì Đạo hoặc là Judas. Anh Chị Em rất thân mến, anh chị em là con cháu của các Vị Tử Vì Đạo, những tín hữu rất đáng ngưỡng mộ ở thế kỷ trước (thế kỷ 19) đã lấy máu mình tưới đẫm đất nước Việt Nam, hơn là chọn bất trung với Đức Tin và với Thiên Chúa. Bởi vì “máu của các Vị Tử Vì Đạo chính là hạt giống cho các Ki-tô hữu”, chính từ sự hy sinh của các Ngài đã nảy sinh ra Giáo Hội Việt nam đẹp đẽ mà chính Đức Thánh Cha đã gọi là “Trưởng Nữ của Giáo Hội Viễn-Đông”.

Hỡi Anh Chị Em tín hữu, Anh Chị Em có xứng đáng là hậu duệ của các Tiền Nhân là những Vị Tử Vì Đạo hay không? Anh Chị Em rất thân mến, Anh Chị Em có xứng đáng với Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã chết trên Thập Giá vì tình yêu đối với chúng ta hay không? Đã đến giờ để trả lời: giờ của sự chọn lựa quyết định.

Một cách liên lỉ và với tất cả trái tim, tôi phó thác toàn thể Anh Chị Em vào Thiên Chúa và vào Mẹ Thánh, Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Thánh Tử Vì Đạo.”

Vị Giám Mục đã ký bức thư mục vụ này trong bối cảnh lúc bấy giờ của đất nước đã không hề ảo tưởng về số phận đang chờ đợi Ngài nếu xảy ra một cuộc xâm lăng mới của Việt Minh. Ngài biết rõ mọi hành vi và việc làm của mình đều bị dò xét, ghi chép và chuyển tải đến cấp trên bởi đông đảo các tay gián điệp nằm vùng, với nụ cười dễ thương nhất núp phía sau từng nắm gạo.

Ngài đã tâm sự với ông Cố: “Lẽ tất nhiên sau bức thư này, “Đảng” sẽ cho con vào sổ đen, nếu như họ đã chưa làm trước rồi. Họ sẽ tính sổ với con nếu một ngày nào đó họ xâm chiếm miền Nam. Tuy nhiên điều đó không hề làm con lo ngại”.

Tái kiến thiết

Là Giám Mục Xây Dựng, Đức Cha Seitz, sau khi lánh nạn trở về, đã bắt tay xây dựng hoặc tái thiết các cơ sở vật chất cần thiết cho toà Giám mục của Giáo phận và cho những thành phố chính khác. Cần phải tiến nhanh hết sức có thể— ít nhất phải bằng– những kẻ phá hoại! Ngài thường lặp lại câu nói dí dỏm của một nhà truyền giáo kỳ cựu ở Bắc kỳ, một nhà kiến trúc vĩ đại trước Đấng Vĩnh Cửu, đã xây dựng một Ngôi Thánh Đường Mái Vòm to lớn — mà ngài đã hoàn thành tốt đẹp. Ngài nói: “Không khó để xây dựng, chỉ cần một đồng bạc và một cái cuốc. Khi đã có, chúng ta bắt đầu và ngay lập tức[1]”.

Tại Plei-Ku, Đức Giám Mục xây dựng một Nhà Thờ bằng vật liệu nặng. Tại Kontum, Ngài xây dựng trường nghề cho giới trẻ; trường Giáo Lý chỉ còn là một đống gạch vụn, Ngài xây dựng lại lớn gấp đôi; xây dựng và trang bị một xưởng in; sắp xếp một nhà dòng cho các nữ tu người Thượng.

Tại Ban-Mê-Thuột, nơi một cộng đoàn các Nữ Tu  Dòng Vinh Sơn hiện diện, Ngài xây dựng một căn nhà khang trang đầu tiên. Còn các Nữ Tu Biển Đức, họ đã tìm được các nhà hảo tâm nổi danh (hoặc chính Đức Cha đã tìm cho họ) đang khởi công xây dựng một tu viện thật sự bằng “vật liệu nặng”, có lầu, đủ chỗ cho 50 nữ tu trong khi con số hiện tại chỉ 12 người, gồm 7 tuyển sinh mới được tuyển mộ chỉ trong vòng 6 tháng! Còn phải xây dựng một Trường Giáo Lý thứ hai ở phía nam Giáo phận: Cha Bianchetti, Tông Đồ của người Rha-đê sẽ phải khai trường trong thời hạn chưa đầy 1 năm. Về phía Đông, nơi trú ngụ của dân tộc Jarai, nơi Tin Mừng chưa hề được loan báo, cần phải mở một giáo điểm, mặc dầu đang thiếu nhà truyền giáo trầm trọng. Đức Cha nói “mặc kệ, mỗi người cần phải làm việc nhiều hơn một chút…”.

Nhưng làm sao Đức Cha có thể thực hiện nhiều công trình rất tốn kém này trong khi Giáo phận truyền giáo không hề có một nguồn thu nhập nào cả? …Và trong khi tình hình chính trị đang rất bất ổn? … Đó là, vì những điều có vẻ như là những trường hợp bất lợi, lại trở nên có lợi cho Ngài. Thực tế, phía dân sự cũng như phía quân sự Pháp đang “thanh toán” những gì họ sở hữu ở Đông Dương. Họ ra đi với tâm trạng là những công trình liên quan đến con người hay thuần vật chất của họ sẽ đều sụp đổ. Họ biết rằng và họ thấy rõ ràng rằng, chỉ có một công trình có khả năng còn tồn tại sau tất cả những thảm hoạ đó, chính là công trình của những nhà truyền giáo người Pháp ở Đông Dương. Vì thế, họ tự động giúp đỡ để những người này bén rễ sâu hơn nữa. Chính Tướng Ely là người bắt đầu kế hoạch này và các nhà quân sự cạnh tranh nhau để đưa mọi thứ phương tiện vào chính sách này. Như thế, không cần phải ngần ngại nữa, ta tiến bước thôi.

Mặt khác, sự tăng viện của các nhà truyền giáo trẻ cũng đến từ nước Pháp: các linh mục Arnould, Clément, Bonnet và Rannou ngay lập tức và can đảm học tiếng Bahnar.

Bản tin của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại cho biết: “Các vị đã có những tiến bộ nhanh chóng vượt bực; Cha Rannou đã vượt qua kỳ khảo thí giải tội bằng tiếng Bahnar một cách xuất sắc, chứng tỏ Cha đã làm việc một cách cật lực.”

Ngoài ra, Đức Cha cũng đưa về bên Ngài những người cộng tác rất đáng quý từ Hà Nội: Cha Vacher là cánh tay phải cho công trình xây dựng Thị xá Ki-tô Vua; và cả bà Dubois, một người xả thân phục vụ, còn được gọi là “Bà Mẹ của các cô nhi” mà Ngài giao cho việc quản gia Tiểu Chủng Viện: làm bếp, may vá, làm vườn và bà đã hết mình chu toàn công việc cách nhẹ nhàng và kín đáo.

Ngoài những công trình to lớn mà Ngài đã bắt đầu, Ngài không thiếu những dự án cho tương lai: Ngài đã mời gọi nhiều dòng tu tới thiết lập các cộng đoàn trên Cao Nguyên: Các Sư Huynh Dòng La San, các cha Dòng Xi Tô, các cha Dòng Chúa Cứu Thế để rao giảng và các nữ tu Dòng Chúa Cứu Thế để trợ giúp các Ngài bằng lời cầu nguyện; Ngài hy vọng sẽ nhận được sự đồng thuận từ các Bề Trên của các Hội Dòng này. Tất cả làm việc như “sẽ ở lại lâu dài”, và luôn biết chắc chắn rằng tương lai sẽ thuộc về Thiên Chúa và cứ làm việc khi trời còn sáng.

Những hoạt động cùng với lòng nhiệt tâm của Ngài ít nhất có hiệu quả làm dân chúng bớt lo âu và vô hiệu hóa hoạt động bí mật của Việt Minh vẫn luôn hiện diện trong vùng. Tuy sự tin tưởng đang hồi sinh, vị chủ chăn không quên nhắc nhở với giáo dân phải luôn sẵn sàng cho những tình huống xấu nhất.

Không gì làm cho họ hiểu thấu đáo tình hình hơn bằng việc tổ chức các buổi “tĩnh tâm khép kín”, ở đó, Giám Mục, Linh Mục và Giáo dân đối diện với Thiên Chúa và cầu nguyện. Sáu buổi tĩnh tâm đã được thực hiện trong tháng giêng năm 1955; những buổi tĩnh tâm khác tiếp tục và sẽ được tiếp tục tới cuối năm. Tất cả mọi cộng đoàn đều tham dự tĩnh tâm. Con cái “bóng tối” không ngủ tại sao con cái “sự sáng” lại ngủ?…

Ngài viết cho ông Cố: “Tất cả mọi điều đó thật lý thú, nhưng cũng làm con rất bận rộn bởi vì con chỉ kể những nét chính yếu về cuộc chiến mà con đang phải đương đầu. Ngoài ra còn những điều thứ yếu, cuộc sống thường nhật với những khó khăn, những niềm vui cũng như không ít thất vọng. Thật là một ơn huệ cao cả khi được mời gọi sống trong một thời điểm như thế này!”

Chương trình sinh hoạt xã hội: Năm 1956-1957, Vị Đại diện Tông toà Kontum thấy rằng đây là thời gian thích hợp để xin chính phủ Việt Nam một sự trợ giúp thực sự về nhân sự, về tiền bạc, về vật dụng để giúp đỡ người Thượng và phát triển về văn hóa, điều kiện ăn ở và sinh kế của họ. Thật vậy, Đức Cha lo ngại khi nhìn thấy sắc dân rất dễ mến, can đảm và dễ dàng đón nhận Ki- tô giáo này đang sống ở thế kỷ 20 với những điều kiện sống như thời “các tổ tiên người Gaulois (Pháp)”. Lại thêm miền đất này đang bị tràn ngập bởi làn sóng người di cư từ Bắc vào mà chính quyền đang tái định cư trên vùng đất không có địa bạ mà những người dân bản địa đã sở hữu từ bao thế kỷ qua, nhưng không hề biết đến giấy tờ về quyền sở hữu đất.

Với khối óc tổ chức thiên tài và với sự giúp đỡ của chiếc máy đánh chữ, Đức Cha Seitz soạn một tập sách mỏng được phân phát rộng rãi ở Pháp với tựa đề “Chúng tôi không muốn chết”. Đây là một lời báo động để cho mọi người biết đến những người Thượng thân yêu, đã được truyền đạo bởi các vị thừa sai anh hùng tiền nhiệm của Hội Thừa Sai Paris. Các ngài đã bỏ xác nơi dây từ 100 năm trước, nhằm giúp họ tiến hoá và sống còn, khi tiếp xúc với những dân tộc tân tiến hơn mà không bị nuốt chửng và vẫn giữ được sắc thái dân tộc bản địa.

Tiếp theo đó, Ngài soạn “Chương trình hành động xã hội tổng quát của vùng truyền giáo Kontum” dài 26 trang mà mục đích được xác định một cách rõ rệt ngay từ dòng dầu tiên:

“Những người Thượng, chúng tôi muốn họ thành người.”

Những “con người” từ một cách sống còn lạc hậu và một lối sống còn sơ khai tiến tới một trình độ cá thể và xã hội cao hơn và phù hợp hơn với những đòi hỏi của thân phận làm người.

Những “con người” có khả năng sát nhập vào cộng đồng quốc gia Việt Nam.
Nhiệm vụ của chúng ta chính yếu thuộc về giáo dục, bao trùm mọi lãnh vực sinh hoạt của con người.
Hành động của chúng ta thuộc về cơ cấu vì, đúng như bản chất của nó, sẽ hướng tới việc làm “thay đổi những điều kiện xã hội cơ bản” của người Thượng.

Là nhà giáo dục, chúng ta hòa nhập một cách trọn vẹn vào ước muốn của chính quyền trong cuộc chiến “chống lại sự sụt giảm dân số nơi những người Thượng và tìm cách giúp đỡ họ thành lập những làng định cư sống nghề nông và chăn nuôi thay vì cuộc sống bộ lạc tùy thuộc vào núi rừng” (Chương trình phát triển kinh tế tháng 6 năm 1952). Với tất cả sự cộng tác và săn sóc, chúng ta cần thực hiện chương trình cấp thiết này như là cơ hội sống còn của người Thượng và cũng là niềm kiêu hãnh chính đáng của nước Việt Nam.”

Cần khai hóa và vun trồng trí thông minh, giáo dục ý muốn thích nghi với những tập quán mới lạ, uốn nắn lại năng lực phán đoán, hướng dẫn cảm xúc.

Phải làm thế nào đây? Trước hết cần biết đọc biết viết, biết những phép tính cơ bản; bằng cách dạy tiếng Việt, rồi bằng cách phổ cập chữ viết, bằng các phương tiện nghe-nhìn, bằng các sinh hoạt giải trí bổ ích, như âm nhạc và ca đoàn. Đức Cha Seitz nhận thấy người Thượng có một khả năng về âm nhạc tuyệt vời. Họ được thiên nhiên phú cho dây thanh quản và thính giác tinh khiết và chính xác làm kinh ngạc người quan sát. Đó là một khả năng thiên phú, một giá trị nhân văn cần phải trau dồi; người Thượng rất thích hát và luyện tập với một sự dễ dàng đáng kinh ngạc.

Không thể thiếu giáo dục thể chất, bảo vệ sức khỏe và nâng cao mức sống. Cần quảng bá những khái niệm về vệ sinh cơ bản, bằng giáo dục trong trường lớp, trong các trung tâm giáo dục dành cho phụ nữ, bằng các quy định về vệ sinh thân thể, vệ sinh nhà cửa, làng xóm, bằng các hoạt động thể thao lành mạnh và cân xứng nhằm thay thế các cuộc chiến giữa các bộ lạc.

Những người cùi là những đứa con thân yêu của Giám Mục. Giáo phận truyền giáo đã cho xây dựng một làng cùi cho 127 người, nhưng còn khoảng 1000 người cùi còn ở lại trong rừng, cũng cần được giúp đỡ.

Đức Cha Seitz kể: “Một ngày kia tôi vào trong túp lều tàn tạ của một người cùi đang hấp hối. Toàn thân đầy những vết thương, không còn hơi thở của sự sống. Tôi muốn an ủi anh ta, nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt đáng kính, trầm lắng, phản ánh nét đẹp và sự bình an của một tâm hồn thánh thiện, tôi bị lôi cuốn và chính tôi mới là người được an ủi. Tôi không tìm thấy điều gì tuyệt vời hơn là hiệp nhất với “người bần cùng nhất trong số những người bần cùng” của loài người, đang mỉm cười trong cơn hấp hối, để ca tụng vinh quang Thiên Chúa. “Những kẻ rốt hết sẽ nên những kẻ đứng đầu”. Tôi đã hiểu và thực sự cảm nhận anh là con người vĩ đại, rất vĩ đại và sẽ luôn thế mãi trong cõi trường sinh. Họ là những người con yêu quý của chúng ta vì họ là con cái thân yêu của Thiên Chúa, Chúa của những kẻ khốn cùng. Họ là châu báu và là kho tàng của chúng ta bởi vì họ biết rõ điều đó và họ vui sướng, hãnh diện vì đã tìm được một lý do và một ý nghĩa cho cuộc sống trong cơn bần cùng của cuộc đời”.

Cũng cần phải chiến đấu với sự thiếu thốn và đói khát mà những người Thượng thường xuyên gặp phải; để làm được điều đó cần phải nâng cao cách thức canh tác, bài trừ những mê tín dị đoan do các thầy phù thủy áp đặt, và nhất là bài trừ thói rựơu chè, một tật xấu bám rễ sâu nơi người Thượng đến nỗi có thể xem như một tai hoạ ghê gớm tàn sát người Thượng hơn là bệnh sốt rét và đậu mùa và dẫn tới một sự suy thoái không thể chối cãi về thể chất cũng như tinh thần của các bộ lạc. Các cuộc mua bán gian lận khai thác khuynh hướng về tật xấu này cần được nghiêm trị và khai trừ bằng các biện pháp mạnh của cảnh sát.

Những người Thượng cần nhận được quần áo. Sự trần truồng cũng như những căn nhà thiếu vệ sinh là căn nguyên các chứng bệnh nặng và thường xuyên về phổi.

Vị Đại diện Tông toà Kontum, ngoài tài năng của một nhà truyền giáo, còn có các đức tính của một bộ trưởng giáo dục quốc gia, bộ trưởng y tế,  bộ trưởng vật tư trang thiết bị. Ngài còn cả đức tính của bộ trưởng quy hoạch đất đai vì Ngài muốn tổ chức sự phân chia đất đai một cách hợp lý: những vùng dành riêng cho người di cư Việt nam và những vùng không thể đụng chạm tới và không thể chuyển nhượng dành riêng cho người Thượng, để quy luật nguy hại “lý của kẻ mạnh” không thể tiếp tục xua đuổi những người Thượng ra khỏi vùng đất của tổ tiên mình. Ngài nghiên cứu kế hoạch đô thị một cách chi tiết, không quên những dịch vụ dành riêng cho nhu cầu vệ sinh, những nơi dành riêng cho việc thờ tự cũng như văn hóa, những cây trồng để cho bóng mát và làm cảnh, và đương nhiên cả hệ thống dẫn nước sạch và mạng lưới điện mà lúc bấy giờ còn xa lạ với vùng Cao Nguyên.

Tiếp theo, Ngài còn là bộ trưởng nông nghiệp: chẳng phải Ngài đã là nông dân thời trai trẻ sao? Ngài muốn mang đến một cuộc cách mạng thực sự cho nông nghiệp – đó là từ mà Ngài sử dụng – về phương diện kỹ thuật nông nghiệp làng xã với những phương thức khoa học tân tiến. Người Thượng không nên chỉ chuyên việc trồng lúa. Tùy vào nơi chốn, chế độ mưa, chất lượng đất, người Thượng cần phải trồng cây lương thực, như đậu phộng cùng với lúa; trồng những loại cây công nghiệp như cà phê, trà, tiêu, thuốc lá …; trồng rau cũng như cây ăn trái; khai thác và trồng rừng để tôn trọng rừng.

Cũng cần hướng dẫn người Thượng thực hành cách chăn nuôi hợp lý: bò, trâu, heo, gà vịt với những bãi chăn thả khép kín và dạy cho họ cách thức chống lại những yếu tố có thể làm hại cho súc vật, từ lửa cho đến những sâu bọ hoặc thú dữ như heo rừng, cọp beo hay những thú dữ khác.

Vị Đại diện Tông toà còn được biết đến như bộ trưởng công nghiệp vì Ngài khuyến khích thành lập, như Ngài đã từng làm ở Hà Nội, những xưởng mộc, xưởng gỗ, xưởng nề, xưởng sắt, xưởng đan lát, xưởng dệt và những nghề khác, và tiếp theo đó là các nhà máy sản xuất trà, cà phê.

Chắc hẳn công trình mà Ngài thực hiện có vẻ rất to lớn, khó khăn và nhạy cảm. Vì vậy, Ngài chủ trương đào tạo những người phụ trách có năng khiếu về một số đức tính: trước tiên và nhất là phải có lòng tin, nhưng còn phải biết vô vị lợi, trung thực, nhẫn nại và kiên trì bền vững.

Về tổ chức chung của hoạt động xã hội này, Vị Đại diện Tông toà, tự cho mình đóng vai trò của giám đốc trường bách khoa, trường E.N.A (trường quốc gia hành chánh Pháp), trường nông nghiệp, dự kiến thành lập những trung tâm đặc biệt, được uỷ thác nghiên cứu tinh tế các vấn đề, đưa ra những hiệu chỉnh cần thiết, đào tạo cán bộ. Và Ngài đề nghị bắt đầu với việc thành lập những trường- nông trại.

Ngài cũng nghĩ tới những “trung tâm phụ nữ” để đào tạo họ về phái nam cũng như phái nữ, vì đàn bà có một tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội người Thượng. Chương trình nhằm đào tạo người đàn bà về tất cả những gì cần biết cho vai trò vừa là vợ, là mẹ vừa là bà chủ gia đình.

Đức Cha Seitz tha thiết thành lập sớm nhất có thể “những thành phố thí điểm”, mà Ngài đã có kinh nghiệm thành lập gần Hà Nội, tuy dưới mô hình thu nhỏ. Theo Ngài, đây là cách thức cần thiết và căn bản để làm bùng nổ sự ù lỳ, ảnh hưởng bất di bất dịch của môi trường gia đình và xã hội truyền thống của người Thượng.

Lẽ tự nhiên điều này sẽ vấp phải sức nặng của truyền thống, của sự sợ hãi các “thần linh”, của tính đa nghi và của sự thờ ơ tự nhiên cũng như của sự cạnh tranh giữa các làng với nhau. Tầm ảnh hưởng của các vị thừa sai sẽ có ưu thế vượt trội vì các tín hữu biết rõ về sự vô vị lợi, sự trung thực, sự hiểu biết và sự tận tâm của các Ngài. Cũng cần sử dụng tới tầm ảnh hưởng của các già làng để củng cố niềm tin nơi dân chúng vì dân Thượng có sự tôn trọng bẩm sinh đối với người có địa vị, quyền hành.

Bản báo cáo của Vị Đại diện Tông toà, mà chúng ta chỉ nói đến những điểm thiết yếu, kết thúc với các câu hỏi về nguồn tài chính. Bây giờ Ngài lại là “Bộ trưởng tài chính”. Các vị thừa sai có bổn phận dẫn dắt về mặt đạo đức và tâm lý cũng như về mảng giáo dục của cộng đồng sao cho tiến triển một cách tốt đẹp. Chính phủ bổ nhiệm một quản trị viên chịu trách nhiệm về sự phát triển kinh tế của thành phố.

Người ta có thể chỉ trích chương trình này như là “kinh tế chỉ huy” và “gia trưởng chủ nghĩa”: Đức Cha vui lòng thừa nhận nhưng khẳng định là không có gì là đáng chê trách vì cũng không khác gì sự “lệ thuộc” của trẻ con đối với cha mẹ trong những năm tháng đầu đời. Nếu chương trình các “thành phố-thí điểm” thành công và phát triển, người ta có quyền nghĩ rằng sau một thế hệ, tất cả xứ Thượng sẽ được biến đổi.

Đề án nhiệt tình và quảng đại nhằm giúp người Thượng trở thành “những con người đứng thẳng[2]” được gửi tới chính phủ Việt nam với hy vọng sẽ được cứu xét và sẽ nhận được một sự cộng tác có hiệu quả cho vùng Cao Nguyên, nhưng hỡi ôi, nó chỉ nhận được một câu trả lời lạnh lùng, một từ chối thẳng thừng của vị tổng thống rất công giáo Ngô Đình Diệm: “ Chúng tôi muốn đồng hóa dân tộc này.”

Và chính ông ta đã bị đồng hóa một thời gian sau, và không chỉ mình ông, nhưng cả dân tộc Việt nam, bởi chủ nghiã cộng sản…

Cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam Việt Nam

Mặc cho sự thờ ơ của các cấp chính quyền dân sự, mặc cho sự bấp bênh của thời cuộc, Đức Cha Seitz, thay vì đầu hàng, đã xắn tay áo, vén áo chùng thâm, và bắt đầu thực hiện những kế hoạch mới, như tất cả đều lệ thuộc vào Ngài, trong lời cầu nguyện liên lỉ. Ngài cũng kêu mời mọi người cùng cầu nguyện như tất cả chỉ phụ thuộc vào Thiên Chúa.

Ngài tin tưởng rằng các ý tưởng đã được trình bày và các giải pháp được đề nghị trong đề án của Ngài một ngày kia sẽ được công nhận như lẽ đương nhiên. Trong khi đó, việc thực hiện vấp phải nhiều chậm trễ và muôn vàn khó khăn. Hơn nửa thời gian của Ngài dành cho các chuyến đi, đôi lúc thật xa và trên những con đường mà người ở Pháp không thể tưởng tượng được.

Trong những năm 1956-1957, giáo phận truyền giáo Kontum gặp khủng hoảng nặng, nhưng là cuộc khủng hoảng phát triển. Dân di cư Việt nam từ miền Bắc vào rất đông, mà trong số đó có rất nhiều người công giáo. Vị Đại diện Tông toà tới thăm họ trong các ngôi làng mới dựng lên và họ xin Ngài cho họ linh mục: nhưng Ngài không có đủ linh mục mặc dầu có khoảng 15 linh mục đi theo dân di cư. Ngài chắp vá những chỗ cấp bách nhất, trong khi bắt đầu công trình sẽ cho kết quả sau một ít năm: số chủng sinh của tiểu chủng viện tăng lên từ 10 đến 60 rồi 100, tuy phải cần 15 năm mới đào tạo được một linh mục… Trường giáo lý tăng quân số lên một phần 3. Nữ Tu viện cho người Bahnar có 40 tu sinh. Các Xơ dòng Saint Paul thành Chartres lập một cộng đoàn, nhưng cần có thêm cả chục. Vì thế, Đức Giám Mục nghĩ tới việc thành lập một dòng tu của Giáo phận, tuy nhiên cũng phải mất nhiều năm mớicó được các nữ tu sẵn sàng làm việc.

Kết luận thực tế ngay bây giờ: phải xây dựng khắp nơi, tuy nhưthường lệ, Ngài vẫn không một đồng xu dính túi.

Người Thượng trở lại đạo càng ngày càng đông, đó là một niềm an ủi cho những nhà truyền giáo: ngoài 25 ngàn người công giáo còn có thêm 15 ngàn dự tòng; nhưng cũng làm tăng thêm công việc, các linh mục làm việc hết sức mình và nhiều khi còn vượt quá sức mình vì có nhiều vị phải nằm bệnh viện điều trị hoặc bắt buộc phải về Pháp dưỡng bệnh.

Theo đề án về giáo dục, trong vòng ít tháng, Đức Cha đã khai trương 100 trường làng và 3 trung tâm giáo dục dành cho thiếu nữ; các công trường xây dựng mọc lên khắp nơi. Bi kịch là, mặc dầu có cuộc thị sát tại chỗ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm,

“mọi cố gắng của giáo dục, của tổ chức, của tài trợ bởi chính phủ đều qui về một mối duy nhất: nhằm mang lại lợi ích cho những người di cư Việt nam! Những người Thượng bị đuổi khỏi đất của họ và được xem như hạng người đóng vai trò không đáng kể trong xã hội. Họ cay đắng cảm nhận điều đó, vị Giám Mục nhận định như vậy.”

Về chương trình mà Ngài đã đề ra: “Những người Thượng, chúng tôi muốn họ làm người”, Ngài đã nhận được câu trả lời là người ta muốn đồng hóa dân tộc này và sự đồng hóa này đồng nghĩa với sự tiêu hóa, sự biến mất. Ngài nhận xét đó vừa là một sự bất công vừa là một sự sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra cần phải nói sát nhập, hoà nhập vào cùng một dân tộc.

Luôn lạc quan, Đức Cha nghĩ rằng chính phủ có thể sẽ đi đến một thái độ thích hợp hơn đối với người Thượng, chỉ cần thời gian, sự nhẫn nại và sự thận trọng.

Đầu năm 1958, Ngài đúc kết tình hình di cư đang là điểm chính và chi phối đa số hoạt động trong Địa phận Tông tòa. Hiện đã có 200.000 di dân so với con số 35.000 cách nay 2 năm. Trong số này, số tín hữu từ 31.000 đã vượt lên 65.000. 25 giáo xứ mới được thành lập, mỗi giáo xứ khoảng 1.000 giáo dân.  28 Linh mục di cư từ miền Bắc đã tới để bổ túc quân số, nhưng còn tới 8 trung tâm còn thiếu chủ chăn. Chưa dừng lại ở đó vì dự kiến sẽ có tất cả khoảng 500.000 di dân vào vùng Cao Nguyên. Trong vòng 3 năm, thành phố Kontum từ 6.000 đã tăng lên 30.000 dân. Những con đường mới sẽ được mở ra: về phía tây hướng tới nước Lào, về phía đông hướng ra biển, và thành phố này sẽ trở nên trục giao thông và trung tâm buôn bán cho toàn vùng.

Nhà cửa, làng mạc, thị trấn mọc lên như nấm. Hàng ngàn mẫu rừng được khai hoang và khai thác: cả một vùng dân cư được nẩy sinh, baogồm nhóm người di cư, nhóm nông dân, những người nghèo từ vùng ven biển theo lời mời gọi cấp bách của chính quyền tới tìm nguồn sống trên vùng đất đầy hứa hẹn, và chính quyền đã ban cho họ sở hữu miếng đất họ được quyền và phải khai thác và họ cảm thấy rất mãn nguyện.

Ngoài những tín hữu gốc, còn rất nhiều những người dự tòng giữa những người di cư, những người đã bị mất gốc, xa rời các chùa chiền phật giáo, họ sẵn sàng gia nhập công giáo mà họ rất ngưỡng mộ; tuy nhiên cần phải giáo dục và dạy giáo lý cho họ. Rồi khi có một vị linh mục, cũng cần chỗ ở, cần xây dựng một nhà thờ, một trường học, rồi phải trang bị tất cả. Nhìn chung, việc đầu tiên cần phải xây dựng ngay là một căn nhà mái tranh, sườn, cột bằng tre, nhưng đó chỉ là “khởi đầu” với tính cách tạm bợ. Ngay sau đó cần tìm kiếm cách thức để xây dựng bền vững hơn như một căn nhà bằng gỗ, lợp tôn và nếu có thể nền tráng xi măng. Không phải là điều xa xỉ, tuy nhiên cũng khá đắt đỏ … Tất cả các trung tâm giáo xứ đều phải xây lại sau 5 tới 10 năm nhưng cũng đủ thời gian để thở đôi chút.

Nỗi băn khoăn to lớn nhất của vị chủ chăn là ngay từ bây giờ cần quan tâm tới đám đông người di cư, người tị nạn hay các nông dân, vì cách thức tổ chức và kết nạp họ ngay từ lúc đầu vào cộng đoàn giáo dânhiện hữu, sẽ ảnh hưởng tới diện mạo của giáo phận mà đa số đang ngoại đạo và dậm chân tại chỗ, để họ trở nên Ki-tô hữu nhiệt thành và năng động.

Chắc hẳn đó là nỗi băn khoăn lớn nhất, nhưng phải chăng Ngài chính là người của công việc, đúng nơi và đúng chỗ? Ngài nhận ra rất mau làcác người Việt di cư đang đảm nhận và sẽ đảm nhận một vai trò vượt trội trong quá trình phát triển của các bộ lạc người Thượng: chính Ngài và các vị thừa sai sẽ có trách nhiệm hướng dẫn cho họ làm tròn vai trò này, một vai trò tế nhị và không chấp nhận một sai sót nào. Để bắt đầu, Ngài thử nghiệm phương pháp giáo dục chung các trẻ em người Thượng Bahnar cùng với các trẻ em người Kinh với số lượng lớn hơn: đầu tiên 50 trẻ em người Thượng giữa 250 trẻ em người Kinh, dưới sự hướng dẫn của các Sư Huynh Dòng La san. Thành công mỹ mãn. Sau đó Ngài tăng dần tỷ lệ và Ngài có niềm vui được nhìn thấy tất các con cái Ngài sống chung hạnh phúc.

Cùng thời gian đó, Ngài cho mở 3 trường dạy nữ công tại Kontum, Cheo Reo và Ban mê thuột nhận các em người Thượng hoặc người Kinh, không phân biệt và giao cho các dòng nữ tu phụ trách.

Vào cuối thập niêm 50, trong thời kỳ di dân, thời gian người gia nhập đạo nhiều, thời gian của những đấu tranh, Ngài nhận thấy chung quanh Ngài một cuộc sống sôi động, đáng quan tâm, đang mở ra triển vọng tuyệt vời cho tương lai của Giáo Hội Việt nam,

Tuy nhiên, nếu …

Cuộc hành trình tới Phi Luật Tân

Tuy nhiên, nếu con người và ma quỷ không kết hợp để ra sức phá đổ những gì Ngài đã đang xây dựng và xây dựng lại không ngừng với sự can đảm của nhà tiên phong và sự kiên trì của con nhện trên lưới. May thay, Ngài không đơn độc, vì ngoài sự trợ giúp của Thiên Chúa mà Ngài khẩn cầu và kêu gọi khẩn cầu không ngừng, còn tình huynh đệ của tập thể các Giám Mục vùng Viễn-Đông. Với con số 114 vị, các ngài tham dự hội đồng các Giám Mục tại Manila, Phi Luật Tân, được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1958 dưới sự chủ trì của Đức Hồng Y Agagianian, Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo.

Hội nghị này tiền báo Công Đồng Chung Vatican Thứ II mà Đức Tân Giáo Hoàng Gioan XXIII đã loan báo và đang tích cực chuẩn bị ở Roma, đã cho chúng ta thấy hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Miến Điện, Mã Lai, Thái Lan, Cam Bốt, Việt Nam và cả Úc Đại Lợi đều có đại diện tham dự. Lẽ tự nhiên tiếng La Tinh là ngôn ngữ chung của các giáo sỹ công giáo; nhưng người ta cũng sử dụng tiếng Anh và tiếng Pháp trong các cuộc họp thu nhỏ.

Tất cả đều nhận ra rằng Á Châu đang trong tình trạng sôi sục, đang trong tình trạng biến chuyển. Giáo Hội đang bị bách hại tại nhiều nước và nhiều vấn đề khá tế nhị cần được nghiên cứu dưới mức độ toàn cầu. Trong suốt một tuần lễ, cả sáng và chiều, hoặc bằng các buổi làm việc riêng biệt hoặc bằng các phiên họp khoáng đại, tất cả các thảo luận đều diễn ra trong Đại Học rộng lớn Thánh Tô-Ma nơi có đến 24 ngàn sinh viên theo học.

Những đề tài được khai thác, cũng giống như những đề tài không bao lâu nữa sẽ được đề cập tới tại Công Đồng Chung, là những đề tài về Giáo Hội: cuộc sống của Giáo Hội, sự phát triển của Giáo Hội, sự hiệp nhất của Giáo Hội, với ghi chú đặc thù về các nước đang mở mang ở Viễn-Đông.

Đức Cha Seitz ghi nhận: “Hội nghị rất hữu ích, tôi trở về với lòng xác tín sâu xa hơn về hai điều: sự nghèo đói của con người bị thương tổn bởi tội tổ tông và sự thánh thiện của Giáo Hội luôn được Chúa Thánh Thần đánh động. Chính Giáo Hội là men cho thế giới.”

Ngoài các công việc chính thức, sự gặp gỡ và trao đổi giữa các Giám mục cũng đem lại lợi ích không nhỏ. “Tôi đã gặp lại ở đó các anh em đồng môn của “Đường du Bac” (địa chỉ của Hội Thừa Sai Paris-ND) họ đã là Giám mục và tôi chưa gặp lại từ hai mươi năm nay. Và các Giám mục thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau làm việc giống như tôi trong những vùng đất của người bản xứ còn sơ khai. Các cuộc trao đổi rất thú vị và hữu ích”

Sau khi đã diễn tả những điều Ngài đã thấy tại Manila và về sự Mỹ hóa tồi tệ của cuộc sống dân chúng mà Ngài gọi là “quái dị”, Đức Giám Mục Tông Tòa ước mong mau trở về lại Kontum.

“Chúng tôi được thu xếp chỗ ở nơi nhà dân một cách hoành tráng. Nhưng nếu tôi giữ kỷ niệm tốt đẹp nhất về sự lịch thiệp và hào phóng mà người ta đã tiếp đón chúng tôi thì tôi cũng cám ơn Đấng Quan Phòng đã cho tôi được chia sẻ với một Tòa Giám Mục lấm bùn ở đó dầu vắt mũi cũng không đủ đút miệng trong suốt năm, trong suốt cuộc sống. Kontum không giàu có nhưng tôi không có mảy may thèm muốn sự giàu có và tiện nghi của Manila. Những bữa ăn kiểu Mỹ vì nhiều lý do khác nhau, không gợi lên sự thèm khát của tôi chút nào: mứt táo với những lát mỡ, dứa chiên với thịt bằm, tất cả không nấu chín hoặc không để nấu, không nóng, không nguội, chắc có thể cám dỗ tôi hơn trong thời gian đền tội…”

Chấm dứt bức thơ gửi người cha vào tháng 1 năm 1959, Đức Cha Paul Seitz vẫn luôn trìu mến kể ra nhiều công việc bận rộn hiện tại:

“Đã một tuần lễ hoặc hơn thế con đã phải gác lại bức thư này: con đã lái xe đi tới tận phía bên kia của Tông Tòa, ở đó nhiều công việc cấp bách đang chờ con giải quyết. Trong hai ngày tới, con sẽ có 60 linh mục tụ họp tại Kontum cho việc cấm phòng năm. Sau đó có muôn vàn công việc tiếp tục vây lấy con. Trong số đó, con cần chuẩn bị hai chuyến đi để quảng bá Giáo phận: một ở Pháp, sẽ được giao cho Cha Simonnet và một ở Mỹ mà con dự kiến sẽ đích thân con đi, nếu Chúa muốn, vào tháng 8 năm tới, với mục đích kêu gọi cộng đồng tín hữu người Mỹ trợ giúp ngân quỹ cho Giáo phận ”

Tuy nhiên, chuyến đi Mỹ bị dời lại vô thời hạn vì thực tế vị Giám Mục không thể rời Tông Tòa trong thời gian lộn xộn này mà Ngài lại bận bịu bao nhiêu chuyện. Ngài giao cho bà Genevière de Galard, người nổi danh “Thiên Thần Điện Biên Phủ”, người vừa lập gia đình với một cựu hướng đạo sinh của Đức Cha, một Đại Uý trong quân đội viễn chinh, và vì bà có những mối liên hệ ở Hoa Kỳ, nhiệm vụ giới thiệu về công cuộc truyền giáo trên vùng Cao Nguyên, nhờ một bộ phim thực hiện về Kontum.

Bộ phim này, mà chính cha Simonnet cũng phổ biến vòng quanh nước Pháp, là một kiệt tác nghệ thuật thực sự, giàu cảm xúc, đi từ sự xót xa tới điều thú vị, từ rùng rợn tới hài hước, giống như hình ảnh sống động của mảnh đất hùng vĩ nhưng khắc nghiệt này. Vì nước Pháp không thể quên sự hiện hữu của đất nước cách xa 13 ngàn cây số này và phải tới trợ giúp dân chúng, những người không bao giờ quên họ.

Đức Cha viết: “Quê hương của chúng ta tuyệt không phải hổ thẹn, về 80 năm hiện diện và làm việc tại đây, nơi tồn tại nhiều tình cảm bạn bè thực sự nhiều hơn là người ta thường nghĩ. Đừng lầm tưởng rằng chỉ có một mối dây liên hệ tồn tại trong quá khứ: mối dây liên hệ thực dân. Còn và phải còn chỗ từ nay cho nhiều mối dây ràng buộc khác: các giáo sư, các bác sĩ, các thừa sai, các kỹ thuật viên, trong một bầu khí ngay thẳng, đóng một vai trò quan trọng và khẩn cấp: làm lan toả văn hóa của chúng ta, tôi muốn nói đến văn minh Ki-tô giáo, tâm hồn sâu thẳm của xứ sở này luôn thỉnh cầu và mong muốn.”

Ít nhất chính phủ Pháp cũng nhìn nhận sự xứng đáng, tính hiệu quả và lòng can đảm của Đức Giám Mục Kontum bởi vì, chính xác sau 10 năm ngày nhận Bắc đẩu bội tinh, Ngài được Tổng Lãnh Sự Pháp tại Saigon trao huy hiệu nâng lên hàng sỹ quan vào ngày 19 tháng 6 năm 1959, một cách kín đáo và thận trọng để tránh thêm rối ren. Đã có quá nhiều rồi. Nhưng cử chỉ này không kém ý nghĩa.

Đức Giám Quản Kontum làm gương và tiếp tục làm giàu thêm nguồn nhân lực bằng cách mời gọi những hội dòng mới: các nữ tu dòng Phanxicô Thừa Sai Maria được mời thành lập một trung tâm y tế trong miền rừng núi, rồi tiếp đó một trung tâm giáo dục; các nữ tu dòng Philadelphia xem xét thành lập một bệnh viện với các bác sỹ, các nhà phẩu thuật, các nha sỹ: thật tuyệt vời.

Mặt khác, ngôi trường nhỏ cho các nam sinh do các Sư Huynh dòng La san phụ trách đã trở nên một ngôi trường lớn với 700 học sinh. Ngôi trường cho nữ sinh do các Nữ tu dòng Thánh Phao lô thành Chartres phụ trách đã đi từ 120 lên 840 nữ sinh. Còn trường do các nữ tu dòng Vinh Sơn phụ trách, nhờ ngôi trường mới, đã đón 400 học sinh. Ngoài thành phố Kontum, các Nhà Thờ và trường học mọc lên ngày càng nhiều, bằng gạch, bằng ván và mái lợp bằng tôn lượn sóng. Các công trình xây dựng tạm thời này có thể giúp giáo dân tránh nắng và tránh mưa khi tham dự thánh lễ, tuy nhiên với làn sóng những người di cư công giáo từ miền Bắc vào, các công trình tạm thời này được lan rộng và trở thành lâu bền. Các bệnh xá cũng gia tăng, một trong số này được một giáo xứ nhỏ vùng Auvergne tặng, tuy còn cần nhiều hơn nữa để có thể chữa trị rất nhiều bệnh nhân trong các điều kiện tốt đẹp hơn.

Thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam (tháng 11 năm 1960)

Ngày 24 tháng 11 năm 1960 đánh dấu một ngày lịch sử của Giáo Hội Việt Nam: Đức Thánh Cha thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Đây là sự công nhận chính thức thành quả công cuộc truyền giáo đã được khởi sự từ hơn 3 thế kỷ trước bởi các nhà truyền giáo tiên phong: Đức Cha François Pallu ở Bắc kỳ, Đức Cha Lambert de la Motte ở Nam kỳ, và Cha Alexandre de Rhodes một cha Dòng Tên khác thường.

Việc thành lập Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc bảo đảm sự liên tục của công trình truyền giáo và các vị Giám Quản Tông Tòa cố gắng làm việc để thành lập hàng Giáo Sỹ Việt Nam. Trải qua bao nhiêu bắt bớ, cách mạng, và chiến tranh, Giáo Hội Việt Nam vẫn phát triển và đứng vững, nhiều lúc đã biến mất vào các hầm mộ để sau đó hồi sinh một cách mãnh liệt hơn. Dưới thời các Vua trị vì những năm 1820 đến 1883, có khoảng 100.000 vị tử vì đạo, trong đó bao gồm 8 Giám Mục, 115 Linh Mục người Việt Nam, 11 Linh Mục Truyền Giáo và khoảng 100 nữ tu người bản xứ. Đã có nhiều vị được phong Chân Phước và được phong Hiển Thánh. Bao thử thách và đau khổ đã kết sinh hoa trái và Giáo Hội Việt Nam đã phát triển một cách kỳ diệu.

Giáo Hội Việt Nam xứng đáng hơn bao giờ hết danh hiệu là “Trưởng Nữ của Giáo Hội Viễn-Đông”; Giáo Hội Việt Nam có một hàng linh mục bản địa khá đông đúc mặc dù sự hiện diện của các vị thừa sai vẫn còn rất đáng quý trong một vài lãnh vực, tuy nhiên không thể còn được gọi là “vùng đất truyền giáo”; trong hàng giáo sỹ, có những thành phần ưu tú đã được đào tạo từ các trường Đại học tại Roma và ở Pháp; chính quyền Pháp đã rút đi và được thay thế bởi chính quyền bản xứ; quân đội Pháp chỉ còn hiện diện như là một sự trợ giúp kỹ thuật và giao cho quân đội Việt Nam nhiệm vụ bảo vệ đất nước chống các cuộc xâm lược từ phía bắc.

Lẽ tự nhiên các Giáo phận Tông Tòa biến mất trong khi ba Giáo Tỉnh mới được thành lập: phía Bắc, dưới chế độ cộng sản, là Giáo Tỉnh Hà Nội với Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê làm Tổng Giám Mục với 9 Giám Mục, 300 linh mục, tất cả đều là người Việt Nam và 800.000 giáo dân trên tổng số 16.800.000 dân, khoảng 5% công giáo.

Phía Nam, Giáo Tỉnh Huế với Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, em của Ông Diệm và Giáo Tỉnh Saigon với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình. Ba Giám Mục của Hội Thừa Sai thoái vị để nhường tòa cho các Giám Mục người Việt Nam. Hiện chỉ còn giữ lại các Giáo Phận Kontum và Nha Trang cho các Giám Mục người Tây phương: Đức Cha Seitz và Đức Cha Piquet. Tổng cộng Giáo Hội Miền Nam Việt Nam gồm có tất cả 20 Giáo Phận với 18 Tổng Giám Mục hay Giám Mục bản địa, và 2 Giám Mục người Pháp; với 1400 linh mục cho 1.400.000 giáo dân trên 14.900.000 dân, khoảng 10% người công giáo. Thời bây giờ, mỗi năm có khoảng 30.000 người lớn được rửa tội. Cha Quéguiner, Bề trên Tổng quyền của Hội Thừa Sai Paris tán thành và chuẩn y những quyết định đó:

Ngài viết”: Trung thành với hiến pháp và truyền thống, Hội Thừa Sai Paris đã nhường lại tất cả 8 địa phận thừa sai cho các giáo sỹ người Việt Nam và vui mừng được nhìn thấy sự công nhận chính thức thành quả của công cuộc truyền giáo đã được khơi nguồn từ hơn 3 thế kỷ trước bởi các nhà sáng lập.”

Hiển nhiên rằng Đức Cha Seitz là người không thể thiếu và không thể thay thế trong thời gian này. Ngài ở lại Giáo Phận và tiếp tục công việc. Ngài ghi nhận với gần 10 năm hiện diện, Giáo Phận của Ngài – bây giờ đã thành Giáo Phận Chính Tòa không còn là Giáo Phận Tông Tòa nữa – từ 7000 giáo dân nay đã đạt con số 98.416 giáo dân, một phần cũng nhờ làn sóng di dân từ miền Bắc, trong đó bao gồm 66.930 giáo dân người Kinh, 31.340 giáo dân người Thượng và 144 người Âu châu trên tổng số 755.000 dân; các linh mục người Việt Nam đã từ 24 nay lên tới 60; Ngài cũng có 180 tiểu chủng sinh; 20.000 dự tòng cần phải dạy giáo lý; trường giáo lý nay đã có 150 học sinh; trại cùi, dưới sự coi sóc đầy tình mẫu tử của Nữ Tu Marie Louise, đang chăm sóc 350 người nội trú; và tất cả đều xuôi chảy tốt đẹp. Một công việc thật lớn lao.

Nhằm ủng hộ các Giám mục và Linh mục còn hiện diện tại chỗ, Cha Bề Trên Tổng Quyền Quéguiner tới thăm họ vào mùa thu năm 1961 và Đức Cha Seitz hân hạnh giới thiệu cho Ngài về thành phố và các địa hạt của Giáo Phận Kontum với những ngôi Nhà Thờ, Tiểu Chủng Viện Thừa Sai, các Dòng Tu, những ngôi trường Trung Học và Tiểu Học, xưởng in, các xưởng nghề làm cho Ngài có cảm giác đây là một thành phố chịu ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Ki-tô giáo. Ngài cũng để ý tới chiếc xe hai ngựa của Cha Giffard lỗ chỗ với 5 viên đạn súng tiểu liên.

“Kín đáo và thận trọng” đó là lời khuyên mới đây cho Đức Cha Seitz trong buổi lễ trao tặng Huân Chương Bắc Đẩu Bội Tinh: lý do là Việt Minh vẫn luôn hiện diện, nghe ngóng và luôn tìm cách khủng bố dân chúng. Các thảm kịch lẻ tẻ nói lên sự hiện diện và sự quấy rối của chúng và làm xao động con tim của các tín hữu và của vị chủ chăn. Trước tiên, Cha Minh, Cha Sở Giáo xứ Kon- Kola, một linh mục Việt Nam dễ mến và nhiệt tâm đã bị bắn chết ngày 28 tháng 9 năm 1960. Một năm sau đến lượt Cha trẻ Théophile Bonnet mà Đức Cha Seitz đã đặt thay thế Cha Minh, đã bị ám sát một cách lạnh lùng trong khi thi hành sứ vụ mục tử, đúng 100 năm sau ngày tử đạo của Á Thánh Étienne Cuénot không xa nơi đó. Ngày 8 tháng 12 năm 1961, Cha Bonnet, sau khi tham dự một buổi lễ ở Kontum, trước khi trở lại địa sở Kon-Kola, Ngài thú nhận Ngài biết đang gặp nguy hiểm:

“Tôi đã quyết định tiếp tục công việc xem như Việt Minh không hiện diện và đi thăm các làng bằng bất cứ giá nào”

Và Ngài đã thực hiện như vậy: cử hành các Thánh lễ, giải tội và an ủi các con chiên và họ biết rõ rằng tính mạng Ngài đang bị đe dọa. Các con chiên ngăn cản Ngài không rời khỏi nhà, không đi từ làng này qua làng khác vì một số làng bị bao vây bởi lính Việt Minh được trang bị vũ khí và đang rình rập Ngài, nhưng Ngài bất chấp các sự can ngăn. Sáng sớm ngày 13, sau khi giải tội và cử hành Thánh Lễ, Ngài thu dọn một cách nhanh chóng các vật dụng cần thiết và nói: “chúng ta ra đi nhanh lên, Việt Minh đang muốn giết Cha”. Ngài muốn sang làng bên cạnh và tiếp tục công việc mục vụ tới cùng. Một vài giáo dân, lẽ tự nhiên không mang theo khí giới, đi phía trước để bảo vệ Ngài. Một tràng súng tiểu liên đã ngăn cản và xuyên thủng Ngài. Ngài ngã gục, chết tại chỗ, tay phải còn nắm chặt cỗ tràng hạt. Các tín hữu vội chạy lại và kêu lên “Cha ôi! Cha ôi!” rồi hét lên với các kẻ sát nhân:

“Bây giờ các ông đã giết Cha của chúng tôi rồi, các ông giết chúng tôi luôn đi, hãy bắn chúng tôi đi”

Nhưng họ không còn thấy ai cả. Cuộc phục kích đã được chuẩn bị hoàn hảo và cuộc rút chạy cũng thế: các kẻ sát nhân đã biến mất vào rừng sâu.

Xác của Ngài đã được đưa về nhà nguyện làng Kon-Kola và cả làng tụ họp cầu nguyện và than khóc Ngài, trong khi ở quanh đó, bọn Việt Minh bắn các loạt đạn lên trời để ăn mừng và cười vang khoái chí.

Khi nhận được tin báo về thảm kịch, Đức Giám Mục rất đau khổ. Cha Bonnet là một trong những linh mục tiên phong rất can đảm mà Đức Cha đã tin tưởng nhất. Ngài đã ra đi ở tuổi 35. Nhưng còn gì đẹp hơn được chết trên đường truyền giáo? Được phúc tử vì đạo? được thông phần cuộc sống của Thầy Chí Thánh? Xác của Ngài về tới Kontum ngày 14 và hôm sau được an táng.

Cha Bonnet cùng với Jean-Charles Cornay, Théophane Vénard, Jean-Louis Bonnard và nhiều vị tử vì đạo khác giờ này đang dõi mắt trông nom các đồng nghiệp và toàn thể Giáo Phận.

[1] Piastre là đồng bạc Đông Dương
[2] (Des Hommes debout) Những người Đứng thẳng: Tên một quyển sách tuyệt vời và cảm động viết về những người Thượng thân yêu của Đức Cha mà Ngài xuất bản 20 năm sau đó.

Download file nghe: Chương VIII - 1

Download file nghe: Chương VIII - 2
Download file nghe: Chương VIII - 3

 **************************************************************

CHƯƠNG IX
CÔNG ĐỒNG VATICAN II
(1962-1965)


Biến cố lớn trong Giáo hội Công giáo

Sau bốn năm chuẩn bị, Công Đồng Vatican II được khai mạc long trọng vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chủ trì. Ngài là người đã có ý tưởng và theo dõi sự tổ chức của Công Đồng, cũng như chương trình của các chủ đề sẽ được đem ra thảo luận tại đây.

Đó là ngày 25 tháng 1 năm 1959, hai tháng sau khi đắc cử, Đức Giáo Hoàng tuyên bố, trước sự kinh ngạc của cả Giáo hội, ý định triệu tập một công đồng và, vào tháng 11 năm sau, Ngài đã thành lập mười hai Ủy ban chịu trách nhiệm chuẩn bị chương trình và các chủ đề sẽ được thảo luận. Ngài hy vọng rằng sẽ có được một sự trẻ trung hóa và “cập nhật hóa” của Giáo hội: ngôn từ nổi tiếng aggiornamento này – từ tiếng Ý  –  đã trở nên rất thông dụng và được lập đi lập lại trên môi miệng nhiều người trong một thời gian dài. Phải mất rất nhiều công sức để mọi thứ được giải quyết.

Tất cả các giám mục trên thế giới hợp nhất với Đức Giáo Hoàng đều được triệu tập, nhưng trong số họ, một số sẽ không thể đến được, bởi vì chính quyền dân sự sở tại làm khó dễ. Đây là trường hợp của các nước dưới chế độ cộng sản, đặc biệt là miền Bắc Việt Nam. Đó là mười giám mục – mà chính quyền dân sự thậm chí không trao thư mời của Đức Giáo Hoàng tới tay: do bị kiểm duyệt. Chắc hẳn các ngài cũng có thể ra đi, nhưng sẽ khó được phép trở về, mặc dù họ đều là người Việt Nam. Vì vậy, các ngài cảm thấy nên ở nguyên tại chỗ.

Vì giám mục của Kontum ở miền Nam Việt Nam, nên Ngài chắc chắn sẽ đến Roma, và Ngài đã chuẩn bị chu đáo, nghiên cứu các “lược đồ tiền soạn”.

Ngài rời Sài Gòn đến Bangkok, Thái Lan, nơi khoảng một trăm giám mục từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Lào đã hẹn nhau. Các ngài thuê một chuyên cơ và cùng bay đến Roma vào đêm mồng 7 rạng ngày 8 tháng 10.

Cuộc hành trình thú vị – Đức cha Seitz viết cho cha của mình từ Roma – hành trình thoải mái, bay qua những vùng sa mạc đáng sợ mà những người tiền nhiệm của chúng con, ba thế kỷ trước, đã đi bộ để tới được nhiệm sở của họ. Ở tốc độ 900 km/giờ, chúng con đã hoàn thành một hành trình tương tự đã đòi hỏi họ gần hai năm và phải trả giá với nhiều mạng sống con người.

Công đồng này là một biến cố phi thường: Giáo hội chưa bao giờ tổ chức một hội nghị to lớn như vậy bởi số lượng người tham gia và bởi tầm quan trọng của các vấn đề cần được thảo luận; đây là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ. Mọi người đều cảm thấy nhỏ bé, và mọi người thực sự trải nghiệm rằng Chúa Thánh Thần là người hướng dẫn Giáo hội, hơn là con người, cho dù họ có giỏi giang cỡ nào.

Ngày 11 tháng 10 năm 1962 chứng kiến ​​một buổi lễ thật to đẹp mà Giáo hội chưa từng thấy: tất cả các hồng y, tổng giám mục, giám mục và bề trên các hội dòng đến từ khắp nơi trên thế giới, khoảng hai ngàn ba trăm vị, đã long trọng bước vào vương cung thánh đường Vatican và, sau khi nghiêng mình trước mộ Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi, đã tới vị trí chỉ định trên những băng ghế rộng bọc vải đỏ, chiếm gần như toàn bộ gian giữa của Vương cung thánh đường. Hội Truyền Giáo Paris có không dưới hai mươi bốn giám mục hiện diện.

Mặc dù đã yếu vì bệnh, Đức Giáo Hoàng vẫn chủ trì Thánh lễ cầu Chúa Thánh Thần, sau đó Ngài rút lui và để các nghị phụ bắt đầu công việc. Chúng ta sẽ không đi vào chi tiết các diễn biến của những cuộc thảo luận kéo dài cả ngày, cả tuần, và cả những tháng sau đó, nhưng chúng ta có thể nói rằng đức cha Seitz không thờ ơ và thụ động: thật vậy, ba lần, trong phiên họp đầu tiên này, Ngài đã phát biểu (mỗi người được quyền nói tối đa không hơn sáu phút) và hàng tá lần khác bằng văn bản trong các phiên họp tiếp theo, các văn bản  thường  triển khai từ các ý tưởng được diễn tả bằng lời nói và sau đó sẽ được các Ủy ban nghiên cứu. Phát biểu đầu tiên của Ngài, vào ngày 5 tháng 11 năm 1962, liên quan đến dự thảo hiến chế về phụng vụ, mà Ngài rất quan tâm. Ngài giải thích: có hàng trăm ngàn dân tộc bản địa sống trên Tây Nguyên Việt Nam, nhưng chỉ hai mươi phần trăm trong số họ đã trở lại đạo. Trở ngại lớn nhất là cách thức thể hiện toàn bộ tôn giáo, đặc biệt là hình thức phụng vụ của chúng ta, không thích hợp với văn hóa của các dân tộc này. Do đó, Ngài yêu cầu chúng ta  phải mở cửa  cho việc thích nghi cần thiết để có thể thực hiện việc truyền giáo trong nền văn hóa bản xứ.

Nhật ký Công Đồng của Cha Henri de Lubac, s.j., chuyên gia Công đồng, ghi nhận vào ngày 8 tháng 11:

Sáng nay tôi đến khách sạn Picadilly, phía sau nhà thờ Thánh Gioan Laterano, nơi ở của Đức Cha Seitz và thư ký của Ngài, cha Jacques Dournes, để cùng nghiên cứu với họ hai lược đồ tín lý đầu tiên.

Vào ngày 13 tháng 11, Đức Cha Seitz lại phát biểu lần nữa, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, lần này, về nghệ thuật thánh. Ngài muốn chúng ta chứng tỏ rằng nghệ thuật thánh là để phục vụ cho phụng vụ; chỉ có Chúa Ki-tô trên thập giá được đặt cao trên bàn thờ, cùng với một chỗ dành cho Đức Mẹ; những hình ảnh đã được làm phép cách long trọng của Đấng Cứu Thế và Mẹ của Người không chỉ được sử dụng để trang trí, mà còn đóng vai trò phụng vụ; nhà thờ được xây dựng sao cho những người ngoại đạo có thể nhìn thấy là dấu hiệu đích thực của sự hiện diện của Chúa Ki-tô cách đơn giản, chân thật, nghèo khó.

Một phát biểu thứ ba, vào ngày 19 tháng 11, tập trung vào lược đồ về các nguồn Khải Huyền. Liên quan đến lần phát biểu này, chúng ta cũng tìm thấy trong Nhật ký Công Đồng của cha De Lubac:

Chủ nhật, ngày 18 tháng 11 năm 1962: lúc 2:30 chiều, viếng thăm đức giám mục Paul Seitz, cùng với nhà thần học của Ngài, cha Dournes, cả hai thuộc Hội Truyền giáo Hải ngoại. Hai ngài nộp cho tôi hai bài soạn thảo chuẩn bị về nghị trình mà Đức cha Seitz sẽ thực hiện vào ngày mai. Tôi chọn bài của nhà thần học; Đức giám mục vui vẻ từ bỏ bài của riêng mình. Tôi đề xuất một số cắt giảm và sửa chữa khác nữa.

Đức cha Seitz sẽ dùng lời lẽ nghiêm khắc vào ngày hôm sau để đề nghị xem xét lại các từ ngữ liên quan đến ý niệm “Kinh Thánh không thể sai lầm» và “linh ứng“, cũng như những từ ngữ dường như đang tạo ra ngờ vực đối với cả các học giả chú giải đang miệt mài tham gia nghiên cứu. Tinh thần mà theo đó lược đồ này được hình thành, theo Ngài, chứng tỏ một mặc cảm thế thủ không phù hợp với Công Đồng; cần xem lại!

Các tham luận bằng văn bản của Ngài chủ yếu liên quan đến lược đồ về Giáo hội, cũng như về Giáo hội Hiệp nhất, hoạt động tông đồ giáo dân, đời sống và sứ vụ linh mục, các Giáo hội Đông phương, tự do tôn giáo, Giáo hội trong thế giới hiện đại, và tất nhiên, hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Sự chỉ trích chính của Ngài đối với tất cả các lược đồ này là chúng không được kết nối đủ lại với nhau xung quanh Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), hiến chế chỉ đạo tất cả các lược đồ  khác.

Ngày đẹp nhất của phiên họp đầu tiên này của Công Đồng đối với các Giám mục Việt Nam là chủ nhật ngày 18 tháng 11, khi các ngài được tiếp kiến Đức Gioan XXIII, chỉ tiếc là chín Giám mục từ phía Bắc Việt Nam không có mặt. Đức Giáo Hoàng tiếp xúc với các ngài trong hơn một giờ đồng hồ, kể chuyện này chuyện kia, những giai thoại dí dỏm hoặc không đáng kể, kể về thời thơ ấu của Ngài, về Công Đồng Vatican I: đó là cách của Ngài, nhà ngoại giao tinh tế, không để khách đặt cho Ngài những câu hỏi lúng túng, và có lẽ đặc biệt là về các chủ đề nóng bỏng đang được thảo luận tại Công Đồng Vatican II.

Ta đã già, Ngài nói với họ vào phút cuối, ta sẵn sàng chết mỗi ngày. Ta hoàn toàn phó thác theo thánh ý của Chúa, ta vẫn tự tin, lạc quan. Ta không muốn làm phức tạp những điều đơn giản.

Chúng ta có thể nói rằng các giám mục truyền giáo cảm thấy hơi thất vọng về phiên họp đầu tiên này, kết thúc vào ngày 8 tháng 12, mà không có bất kỳ văn bản nào được ban hành. Người ta đã không nghe nói về sự trở lại đạo của những kẻ ngoại đạo và việc truyền giáo cho hai tỷ người còn chưa được rửa tội, đặc biệt là ở châu Á rộng lớn, mặc dù vị trí của các nhà truyền giáo trong Giáo hội là một đề tài nóng bỏng hơn bao giờ hết.

Đức Cha Seitz, sau khi ghé Pháp và thăm gia đình vài ngày, đã trở về giáo phận của mình, cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng, nhưng chỉ được trong vài tháng mà thôi.

Bởi vì Công Đồng chưa kết thúc, ngay cả khi cái chết của Đức Gioan XXIII, xảy ra vào ngày 3 tháng 6 năm 1963 đưa đến lo sợ bị đình chỉ. Nhưng không: Đức hồng y Giovanni Montini, được bầu vào ngày 21 tháng 6 để kế vị Ngài và người lấy tên Phaolô VI, sẽ khai mạc phiên họp thứ hai vào ngày 29 tháng 9 cùng năm. Từ ngày 30 tháng 9, cha Yves Congar, dòng Đa Minh và là hồng y tương lai của Đức Gioan Phaolô II, giống như cha De Lubac, đã ghi chú trong Nhật ký Công Đồng của ngài:

Vào buổi chiều lúc 5 giờ 15, Cha Dournes cùng với Đức cha Seitz và Đức cha Jacq, từ Việt Nam tới thăm. Các ngài nói với tôi là đang bị cô lập (với các giám mục từ đất nước của mình vì các ngài không sống Công Đồng). Các ngài đang tìm cách làm cái gì đó để đóng một vai trò tích cực và hữu ích cho Công Đồng.

Các cuộc thảo luận sau đó liên quan đến Giáo hội, các Giám mục và Giáo hội Hiệp nhất. Các cuộc tranh luận về cộng đoàn tính của hàng Giám mục đang gây sóng gió. Các quan điểm trở nên cứng rắn, và căng thẳng giữa phe “tiến bộ” và phe “chính thống”. Hai văn kiện được Đức Giáo Hoàng chính thức ban hành: Hiến chế về phụng vụ và Nghị định về truyền thông xã hội.

Chưa có gì về Sứ vụ Truyền Giáo cả! …

 Mừng 300 năm Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris

Tuy nhiên, đúng vào thời điểm đó lễ mừng ba trăm năm thành lập Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris được tổ chức tại thủ đô nước Pháp, với sự có mặt của một số đông đáng kể các nhân vật tôn giáo, mà phần lớn đang tham dự Công Đồng. Một ngày sau khi kết thúc phiên họp thứ hai, họ đáp lại lời mời của cha Quéguiner, bề trên tổng quyền của Hội, người đã chọn ngày 11 và 12 tháng 12 cho một cuộc hội thảo và các nghi lễ dưới sự chủ trì của Đức Hồng Y Agagianian, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo.

Hai Hồng y, Sứ thần Toà thánh, bảy mươi Tổng Giám mục và Giám mục – bao gồm hai mươi vị người châu Á – hai mươi bảy giám chức, một tá các tổng bề trên của các Viện truyền giáo, các đại sứ từ nhiều quốc gia truyền giáo, nhiều nhân vật quốc tế khác và hàng ngàn thân hữu đã vinh dự hiện diện trong lễ kỷ niệm mừng ba trăm năm này.

Đức Giáo hoàng mới được bầu, Phaolô VI, trong một tông thư, khen ngợi Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris về lòng nhiệt thành tông đồ và những thành quả đạt được qua chứng tá của Hội ở châu Á.

Nhưng danh hiệu vinh quang đẹp nhất của anh em, Ngài nói, đó chính là các vị tử đạo của anh em đã tuyên xưng đức tin bằng giá máu của họ. Trong số đó, mười sáu Vị đã nhận được danh dự phong chân phước. Chúng ta có thể áp dụng cho họ những lời của Thánh Augustino: “Nhờ cái chết của các vị tử đạo, tên của Chúa Ki-tô được lan rộng giữa các quốc gia.”  Cùng chia sẽ với anh em tâm tình cha con, trong niềm vui của ngày kỷ niệm đáng nhớ này, Chúng tôi xin anh em giữ nguyên vẹn di sản tuyệt vời này mà những người đi trước đã để lại cho anh em và tăng nó lên nhiều nhất có thể, cùng lúc đáp ứng các nhu cầu của thời đại.

 Phiên họp III

Sau đó Đức Cha Seitz đã vội vã trở về giáo phận của mình, với triển vọng sẽ sớm trở lại tham dự phiên họp thứ ba của Công đồng sẽ diễn ra từ ngày 15 tháng 9 đến ngày 21 tháng 11 năm 1964. Tuy nhiên, Ngài phải từ bỏ ý định này, vì tình hình ở Việt Nam; Ngài không muốn rời nhiệm sở và đàn chiên trong cơn nguy khó, nhưng rất tiếc vì không được tham gia vào các cuộc bàn luận về đề tài Truyền giáo.

Và ở đó, các giám mục truyền giáo rất hài lòng về sự tham dự trực tiếp, lần đầu tiên và gần như là lần duy nhất, của Đức Giáo Hoàng.  Ngài đích thân đến để khai màn cuộc tranh luận về chủ đề này. 

Anh em thân mến, hãy tin chắc rằng Chúng tôi rất mong muốn tham dự hội nghị Công đồng Đại kết này, được họp tại phòng  thánh của vương cung thánh đường Vatican. Sau khi đã quyết định chủ trì ít nhất một trong các đại hội của anh em, Chúng tôi muốn có mặt hôm nay trong khi sự chú ý của anh em được quay sang đề án về Sứ vụ Truyền giáo. Điều đã đưa Chúng tôi đến quyết định này là tầm quan trọng đặc biệt và duy nhất của chủ đề đang chiếm lĩnh tâm trí và trái tim của anh em ngày hôm nay. Trong lòng Chúng tôi, Người kế vị thánh Phêrô, và trong lòng anh em là những người kế vị các tông đồ, vang lên những lời nói của lệnh truyền  thiêng liêng: “Hãy đi khắp nơi trên thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”  Sự cứu rỗi của thế giới phụ thuộc vào việc hoàn thành Sứ vụ này.

Công đồng có nhiệm vụ chuẩn bị những cách thức mới, vạch ra những phương tiện mới, kích thích những nguồn năng lực mới để phổ biến Tin Mừng một cách hiệu quả  và rộng lớn hơn.

Sắc lệnh De activitate missionali Ecclesiae[1] đã được chuẩn bị rất lâu và kỹ lưỡng trong thời gian giữa các phiên họp: do đó, Đức Giáo Hoàng hy vọng rằng nó sẽ được chấp thuận mà không gặp khó khăn. Tuy nhiên, mọi thứ sụp đổ: hai mươi lăm hội đồng giám mục và bảy mươi bề trên của các Tu viện yêu cầu nó phải hoàn toàn được soạn thảo lại, và tránh sự nhầm lẫn giữa ” Sứ vụ Truyền giáo ” và “Giáo hội toàn cầu trong tình trạng truyền giáo” – vì điều này sẽ làm nản lòng những ơn gọi đặc trưng truyền giáo. Do đó, họ muốn có một Nghị định – hoàn chỉnh và có cấu trúc thần học; – vạch ra những chỉ thị rõ ràng cho hoạt động truyền giáo; – phù hợp cho việc tạo nên một động lực mới cho Sứ vụ này và khơi dậy ơn gọi.

Sắc lệnh Ad gentes về “Hoạt động truyền giáo của Giáo hội”, một bổ sung thiết yếu cho Hiến chế Lumen gentium, cuối cùng sẽ được bỏ phiếu trong phiên họp thứ tư và là phiên họp cuối cùng của Công đồng.

Vì sẽ có phiên họp thứ tư, diễn ra từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 8 tháng 12 năm 1965.

Đức Cha Seitz, giữa phiên họp thứ hai và thứ tư, vẫn ở lại trong giáo phận của mình, nhưng ở trong trạng thái nào của giáo phận! … Ngài mô tả nó với cha mình, trong một lá thư đề ngày 7 tháng 4 năm 1965, Ngài cẩn thận không gửi thư này qua bưu điện, vì lý do kiểm duyệt chính trị.

Rõ ràng, đây là sự hấp hối của Việt Nam; một sự hấp hối không ngừng. Hai mươi lăm năm chiến tranh: nó còn tồi tệ hơn bất cứ những gì con từng trải qua trước đây. Đất nước này đã trở nên không đầu và không xương sống, chính phủ chỉ là một cái bóng; chính quyền thì vô hiệu. Điều kỳ diệu là mọi thứ chưa sụp đổ. Đúng là chúng ta đang ở Châu Á nơi các tiêu chuẩn phương Tây không còn hiện hành và ở một đất nước đang hoạt động nhờ vào việc bơm hàng loạt đô la.

Năm 1954, sau sự thất bại của Điện Biên Phủ, và ngay trước hội nghị Genève, không có gì tốt đẹp cả, nhưng lúc đó Cộng sản chỉ nghĩ đến việc nhanh chóng chiếm giữ bằng quân sự càng nhiều đất đai càng tốt.

Ngày nay, những gì họ muốn – và trên thực tế họ đạt được – là “sở hữu” con người, và dứt khoát giữ trong tay, nếu có thể. Đây là tất cả sự khác biệt, nhưng nó có hậu quả nghiêm trọng (…)

Liên tục và ở khắp mọi nơi, họ chiến đấu, họ giết nhau. Họ chiến đấu bằng dao, bằng bom. Bởi vì người Mỹ đã bắt đầu một hệ thống mới: họ thả bom một cách dữ dội tất cả các khu vực được coi như khả nghi ở miền Nam, như họ đã thả bom ở miền Bắc. Và chỉ có Chúa biết có biết bao nhiêu mà kể! Không sao, họ đánh bừa bãi, để mặc Chúa phận sự phân biệt người tốt khỏi người xấu.

Không cần phải che giấu, chúng con sống trong nguy hiểm và thật ra, sẵn sàng cho mọi tình huống. Một trong những nhà truyền giáo của con, Cha Léon Dujon, đã bị Việt cộng bắt cóc đã một tháng mà chúng con không có tin tức gì về ngài. Đây là một luật trừ cho nguyên tắc “khoan dung” hiện tại của họ bởi vì nhà truyền giáo này tình cờ là một nhân chứng bất lợi ở một trong những vùng hoạt động của họ. Hầu hết các linh mục làm việc ở nông thôn sống trong nôn nao lo lắng. Dường như bất cứ lúc nào họ cũng có thể bị coi là đối tượng của “luật trừ” đó.

Chúng con thực sự giống như những con cừu được dâng cho chó sói. Đây là những gì chúng con phải và muốn trở thành. Con có một số linh mục không thể cầm cự được; Con đã phải cho phép họ rời khỏi xứ đạo của họ, ít nhất là trong một thời gian. Ai có thể trách cứ họ? Các chuyến thăm mục vụ của con rất tuyệt vời ở chỗ chúng cho phép con phán đoán chính xác tình huống và nó cũng mang nỗi an ủi tới các linh mục của con, đặc biệt là những người ở xa và bị cô lập nhất.

Thật ra, không phải là chỉ có Việt cộng duy nhất sẽ để lại một “pháo nổ chậm” ở phía sau họ. Con nhận ra rằng chúng con cũng sẽ để lại một cái. Và nếu họ có niềm tin vào chủ nghĩa cứu tinh nhân loại của họ thì họ có thể yên tâm rằng chúng con và tín hữu của chúng con cũng có một đức tin thậm chí còn sống động hơn nhiều, vì đây là một điều chắc chắn. Điều chắc chắn mà họ không thể có: chúng con có một đồng minh toàn năng và hiện hữu ở mọi nơi: đó là Thiên Chúa.

Họ có thể phá hủy tất cả mọi thứ: nhà thờ và các công trình của chúng con, nhưng điều đó không mảy may quan trọng: đó không phải là Giáo hội. Họ có thể bỏ tù tất cả các giám mục và tất cả các linh mục – hoặc hơn nữa là bắn vào sau gáy họ – điều đó cũng không thành vấn đề. Hay đúng hơn, đó chính là điều cực kỳ quan trọng: đảm bảo sự thất bại  của họ.

Chúa Ki-tô là một nghịch lý; Tin Mừng chứa đầy nghịch lý; cuộc sống của Chúa Ki-tô được nối tiếp trong chúng ta là một nghịch lý. Đó là Mầu nhiệm Cứu chuộc đang tiếp diễn, đó là cái chết mang lại sự  sống. Ai hiểu được thì hiểu! Nói ra điều này để minh chứng rằng chúng con hoàn toàn không có mặc cảm thất bại hoặc thảm bại, hoặc cảm giác về một cuộc sống vô dụng. Hoàn toàn ngược lại. Thực kỳ lạ: Con thấy niềm tin của tất cả mọi người tăng mạnh, việc trở lại đạo và các ơn gọi vẫn tiếp tục. Nó giống như một ánh sáng, một bình minh đang ló dạng.

Chủ nghĩa cộng sản sẽ còn phải đối phó với những gì chúng ta sẽ để lại cho nó khi nó dường như đã thanh toán chúng ta! Chính trong niềm vui, niềm tự hào và lòng nhiệt huyết mà chúng con sống hôm nay, và bình tĩnh chờ đợi ngày mai.

Giám mục Kontum chờ đợi “ngày mai” một cách bình tĩnh đến nỗi Ngài lập nhiều kế hoạch: Ngài sẽ sớm đến Phi Luật Tân, như vào năm 1958, lần này được mời để kỷ niệm bốn trăm năm việc rao giảng Tin Mừng ở đất nước này. Và sau đó, Ngài đăng ký tham dự phiên họp thứ tư của Công đồng vào tháng 9.

Nhưng tình hình ở Việt Nam ngày càng xấu đi vào mùa hè năm 1965. Vào ngày 12 tháng 7, Ngài viết thư cho chị gái Annette (người không thường xuyên may mắn nhận được thư của em trai mình!):

Em biết rằng đài phát thanh và báo chí nói về Kontum. Đúng như thế, chúng em đặc biệt bị đe dọa: không phải là không thể có một ngày rất gần, thành phố nhỏ Kontum sẽ bị tấn công. Tất cả các vùng lân cận chung quanh đã bị tấn công, sẽ đến lượt chúng em là điều hiển nhiên thôi.

Chỉ có một điều cần làm: chu toàn nghĩa vụ của mình đến cùng – và phó thác vào Chúa. Đây là những gì tất cả các nhà truyền giáo của em làm – họ là những người tuyệt vời.

Sự di chuyển của em càng ngày càng khó khăn hơn; tất cả các con đường đều bị cắt đứt. Em di chuyển bằng máy bay hoặc trực thăng.

Bây giờ là cuộc chiến tranh thực sự – nhưng cuộc chiến tranh mới, toàn diện, chiến tranh biển người; tuyến đầu ở khắp mọi nơi và không biết chắc chắn nơi nào cả. Đây là cuộc chiến tranh Trung-Mỹ được bắt đầu và chiến trường đầu tiên là Việt Nam. Kontum đơn giản chỉ là một trong những điểm quan trọng. Sự nguy hiểm và rối loạn càng tăng, em càng cảm thấy bình tĩnh. Tuy nhiên, những nỗi lo lắng thật nặng nề và em cảm thấy lo âu. Hãy cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho em. Cảm ơn chị.

 Phiên họp thứ IV và cuối cùng của Công đồng

Tuy nhiên tâm trí của Đức cha Seitz vẫn hướng về Roma, từ đó Ngài nhận được tin tức và tài liệu mà Ngài tham luận, và phúc đáp. Cha De Lubac đã ghi trong Nhật ký của Công đồng, ngày 3 tháng 10 năm 1965:

Sáng hôm qua, tôi đã nhận được một bản sao của những nhận xét phong phú về các lược đồ hiện đang được tiến hành, được Đức Cha Seitz (Kontum) gửi cho các Ủy ban và do cha Dournes biên soạn. Nhận xét thường hợp lý, sâu sắc và nghiêm khắc về đề án XIII. Có lẽ Đức cha Seitz và cha Dournes sẽ có thể đến Roma vào tháng 10 này.
   
Và ngày 5 tháng 11: Cha Jacques Dournes gọi điện thoại cho tôi; Ngài vừa đến Roma, từ Cao Nguyên Việt Nam, qua ngã Paris. Cha Dournes lưu ý đến tình trạng chóng mặt và hỗn loạn tinh thần của nhiều linh mục ở Pháp và sự suy nhược của cảm nghiệm siêu nhiên. Điều này báo trước một tương lai đen tối.
    
Bốn ngày sau, chính cha Congar lại ghi: Niềm vui lớn được Cha Dournes từ Tây Nguyên Việt Nam tới thăm. Rất tiếc là về quan điểm công vụ, Ngài đến sau trận chiến.
Ngày 11 tháng 11 , ngài lại ghi: “Vào buổi trưa, tôi đã mời  Đức cha Seitz và Cha Dournes ăn trưa.”

Để tránh các cuộc tranh luận sôi nổi đã xảy ra trong các phiên họp trước, Đức Phaolô VI cố gắng làm chủ vấn đề và quyết định rằng phiên họp này sẽ là phiên họp cuối cùng, và Ngài áp đặt các chỉ thị của mình, mà không trực diện làm mất lòng những người ủng hộ các lựa chọn khác nhau.

Trên hết, Thần khí của Chúa vẫn bao tỏa trên Thành Thánh, như đã từng bao tỏa trên vùng biển vào thời Sáng thế. Thần khí của Chúa đã truyền cảm hứng cho bài phát biểu của Đức Phaolô VI trong phiên khai mạc ngày 14 tháng 9 năm 1965, một bài diễn văn gây ấn tượng sâu sắc và phần nào làm dịu các tâm trí lo lắng. Ngài nhấn mạnh đến sự khiêm nhường đặc trưng cho Giáo hội hiện tại: “Giáo hội không phải là mục đích của chính nó: mà là để phục vụ tất cả các dân tộc”, và Ngài nhắc lại rằng chuỗi các công việc của Công đồng được thiết lập trên lĩnh vực truyền giáo – điều này làm cho trái tim của các nhà truyền giáo được vui mừng.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn và nhiều trở ngại, cũng nhờ các phản ứng lành mạnh đối với các lập trường tiến bộ đã giúp tránh được các lỗi lầm không thể sửa chữa, phiên họp cuối cùng đã kết thúc, sau  gần ba tháng, trong sự thanh thản tương đối, tuy vẫn còn nhiều người luôn giữ quan điểm của họ và hy vọng rút được từ Công đồng những thành quả mà họ mong muốn.

Các giám mục truyền giáo đã đạt được những sửa đổi quan trọng đối với lược đồ ban đầu được vạch ra về “Hoạt động truyền giáo trong Giáo hội” và sắc lệnh Ad gentes đáp ứng các yêu cầu được đưa ra, đặc biệt là của Đức cha Seitz. Sắc lệnh này đặt Sứ vụ Truyền giáo ở tâm điểm của Giáo hội, và đã được chấp thuận bởi một đa số rất lớn.

Vào ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội của “Đức Maria, Mẹ của Giáo hội”, Đức Giáo hoàng Phaolô VI tuyên bố kết thúc Công đồng Đại kết Vatican II – được hoan nghênh nhiệt tình – tại quảng trường Thánh Phêrô tràn ngập đám đông, dưới ánh sáng mặt trời mùa thu: một biến cố quan trọng của nửa sau thế kỷ 20, mà trong một thời gian dài, hậu quả của nó sẽ còn được cảm nhận cho đến những nhiệm sở truyền giáo xa xôi nhất.

[1] “Về hoạt động truyền giáo của Giáo hội”

Download file nghe: Chương IX-1

Download file nghe: Chương IX-2
*********************************************** 

CHƯƠNG X
DƯỚI LÀN ĐẠN CỦA VIỆT CỘNG
(1967-1971)


 Tình hình ở Việt Nam đã biến chuyển nhiều trong bốn năm qua khi các Giám Mục đã thường xuyên vắng mặt.
Thật tuyệt vời khi thấy rằng, mặc dù bao khó khăn chồng chất, bao nguy hiểm rình mò, đạo Công giáo vẫn tích cực phát triển: Đức Cha Seitz hết lòng thán phục các linh mục thừa sai đã không sợ nguy hiểm đến tính mạng, vẫn luôn trung thành với nhiệm sở của mình; Ngài thán phục sự can đảm và lòng mộ đạo của giáo dân, đặc biệt các giáo lý viên, các tân tòng càng ngày càng đông, cho dù họ phải chịu đủ mọi thứ áp lực; Ngài mến phục các chủng sinh của Ngài, gồm các đại chủng sinh cũng như tiểu chủng sinh, mà con số cũng càng ngày càng tăng.

Chủng viện thiếu chỗ không cho phép tiếp nhận hết các thỉnh sinh muốn vào dự tu: chỉ riêng Tổng Giáo phận Sàigòn, năm 1962, có 360 em muốn nhập học: vì không đủ chỗ, Đức cha Bình phải từ chối 2/3. Rất may, Bộ Trưởng Thánh bộ Truyền Giáo, đức hồng y Agagianian, đã chấp thuận dự án xây dựng một Giáo Hoàng học viện rộng lớn, được giao cho các cha Dòng Tên đảm trách và nhận thánh Pio X làm quan thầy. Ngân sách do Tòa thánh và các ân nhân thuộc Hội thánh Phêrô Tông đồ đài thọ; Giáo Hoàng học viện được xây lên ở thành phố Đà lạt, nằm khoảng giữa đoạn đường Kontum đi Sài gòn.

Ngày 23 tháng tư 1964, giữa khóa họp thứ hai và thứ ba của Công đồng, mười hai Giám mục của miền Nam Việt Nam dự lễ khánh thành chính thức công trình đồ sộ nầy, lúc bấy giờ đã đón nhận 100 thầy theo học, và dự trù sỉ số sẽ nhân lên gấp hai. Giáo trình gồm tú tài và cử nhân Thần học, cử nhân Triết, cử nhân Giáo luật, được các cha giáo kỳ cựu giảng dạy mà phần đông đã bị trục xuất từ Trung Cộng.

Người ta hy vọng Giáo Hoàng học viện Thánh Pio X sẽ đóng một vai trò càng ngày càng quan trọng trong việc đào tạo tâm linh và học vấn trình độ đại học cho hàng giáo sĩ triều Việt nam. Nhưng đó là không kể đến sức mạnh ma quái của chủ nghĩa cộng sản: «tự bản chất đã là tồi bại», nói theo lời của Đức Giáo Hoàng Pio XI.
Dư luận thế giới mà phe cộng sản với bản tính bành trướng đang lèo lái cách tài tình bằng chiến tranh tâm lý, tỏ ra lo lắng và kinh hoàng nhận thấy tình trạng ngày càng hỗn độn ở Miền Nam, trong khi Miền Bắc yên ổn nhờ chính sách khủng bố, dùng mọi thủ đoạn để bày mưu lập kế.

Thế giới kêu gào: « Hòa bình cho Việt Nam! Hòa bình cho Việt nam!”. Nhưng hòa bình kiểu nào mới được chứ? … Vì những chuyên viên chiến tranh tâm lý thét to át hết tất cả; nhưng đáng ra phải là tiếng kêu xuất phát từ con tim thì nó lại biến thành một khẩu hiệu chính trị, mà mục đích là trông vào sự mệt mỏi của Phương Tây hầu áp đặt một thứ hòa bình giả dối, đưa tới ngưng bắn và tạo điều kiện an toàn nhằm chuẩn bị cho một trận chiến khác.

Ngày 26 tháng 8 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gởi một thông điệp về hòa bình, được mọi người hoan nghênh, kể cả những người ngoài Ki-tô giáo. Và vào tháng chín, Ngài cũng gởi một bức thư cho Đức Tổng Giám Mục Sài gòn, nhấn mạnh ở điểm, sau cuộc chiến huynh đệ tương tàn, điều tiên quyết là phải tìm ra một giải pháp hòa bình hòa hợp dân tộc, hầu tránh thêm tang tóc, bằng cách kết hợp toàn dân, tập trung vào việc tái lập trật tự và tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình, cần thiết cho xứ sở được hưng thịnh.
Trong cuộc họp của Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam dưới sự chủ tọa của Đức Cha Pignedoli, đặc sứ Đức Giáo Hoàng Phao lồ VI, chủ đề bàn thảo đặt trọng tâm vào việc tìm một giải pháp hòa bình không thể có.

Hội đồng giám mục tuyên bố: Như Đức Thánh Cha dạy, chúng tôi cương quyết dành hết năng lực và mọi cố gắng để tìm cách tái lập hòa bình.
Tình trạng bi đát nầy là cơ hội để xích lại gần hơn với các tôn giáo không phải là Ki-tô giáo ở Việt Nam – Đức Cha Seitz cho đó là vấn đề then chốt. Một số đại diện các tôn giáo bạn đến gặp các Giám mục và Đức Cha Pignedoli tại tòa Khâm sứ ở Sài gòn. Vị Đặc sứ Tòa thánh đọc cho họ nghe thông điệp của Đức Giáo Hoàng kêu gọi hòa hơp, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ các giá tri thiêng liêng, đạo đức, xã hội và văn hóa, hầu tạo nên bầu khí an hòa cho tâm hồn và thịnh vượng cho xứ sở.

Chia cắt giáo phận Kontum (1967)

Chuyến đi Việt Nam của vị đặc sứ Tòa Thánh còn có một mục đích khác liên quan đến Đức Cha Seitz: đặt vấn đề về việc giáo phận Kontum quá rộng lớn, nơi định cư của hàng ngàn, thậm chí cả hàng trăm ngàn người di cư từ miền Bắc: phải chăng đây là gánh quá nặng trên đôi vai Ngài? Có nên lập một giáo phận mới về phía Nam Kontum không?
Sau khi xem xét và trao đổi, Roma quyết định, vào tháng 6 năm 1967, thành lập giáo phận Ban Mê Thuột bao gồm tỉnh lỵ nầy, và một phần phía bắc của giáo phận Đà lạt, và đặt Tòa Giám Mục tại thành phố Ban Mê Thuột. Đối với Đức Giám mục Kontum, như vậy có thể làm nhẹ bớt công việc cho Ngài, nhưng cũng là một hy sinh cay đắng đối với Ngài, vì Ngài mất đi một trong những tinh hoa đẹp đẽ và giàu có nhất địa phận Kontum mà Ngài đã gắn bó hơn tất cả: cũng giống như người ta đã chặt mất cánh tay phải của Ngài. Hơn nữa, chính ở Ban Mê Thuột là nơi có hội dòng Anh Em Hèn Mọn Thánh Giuse, cộng đoàn do vị tiền nhiệm là Đức Giám Mục Jean Sion sáng lập, đang phát triển mạnh mẽ và cũng được Ngài rất gắn bó. Tựa như người ta đã chặt thêm một chân tay của Ngài nữa.

Nhưng Ngài vẫn bình chân như vại, giống như những lúc đứng trước làn tên mũi đạn, hay trước cảnh tượng nhà thờ, cùng các cơ sở sụp đổ tan tành. Đó là ý Chúa, vì những gì con người gởi đến đều được Thiên Chúa cho phép. Như thường lệ, Ngài tiếp tục công việc của mình mà không màng ngoảnh mặt lại đàng sau.

Việt Cộng chiếm đóng Kontum

Cuối năm 1967, Việt Cộng quyết định phát động một chiến dịch tấn công qui mô. Trong một đêm, quân đội Mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) vượt qua vĩ tuyến 17, rồi như làn sóng thần, tràn ngập các tỉnh sát ranh giới. Thành phố Kontum cùng chung số phận, một nhóm tham mưu Việt cộng đã xâm nhập từ trước vào vùng Đak-Tô, xua quân tấn công các cứ điểm truyền giáo của hai cha Dujon và Arnould. Trận tấn công gây hậu quả nghiêm trọng, với mùa màng của người Thượng bị cướp bóc; quân đội Mỹ phản công bằng những cuộc dội bom dữ dội và đẩy lui địch quân khiến chúng phải lẩn trốn vào rừng sâu, nhưng sẵn sàng quay lại. Tinh thần của giáo dân cũng như của các Cha thừa sai không vì thế mà kém rực rỡ!
Đòn chí tử là cuộc tổng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân, ngày 30 tháng giêng năm 1968, vào đêm giao thừa mừng năm mới. MTGPMN ra lệnh tổng tấn công tất cả các thành phố Miền Nam (chừng một trăm). Cuộc tổng tấn công đã được chuẩn bị rất chu đáo trong vòng bí mật tuyệt đối và được thực hiện cách hoàn hảo.

Đức Cha kể lại chi tiết biến cố nầy ở thành phố Kontum, nhưng chúng đều áp dụng cùng một chiến thuật trên khắp đất nước.
Ngài kể: ”Ngày 28 và 29 tháng giêng, cả thành phố Kontum nhỏ bé hoan hỉ, mọi người diện áo mới đi thăm hỏi, chúc mừng nhau và chuẩn bị đón giao thừa. Tiếng pháo vang rền khắp nơi. Một bầu khí Tết vui nhộn.

Theo tục lệ, đúng lúc nửa đêm giao thừa, dân chúng chào đón những giây phút đầu tiên của ngày Tết. Không những khắp nơi đốt pháo tưng bừng, mà người nào có súng – mà chỉ có Chúa mới biết bao nhiêu người có súng! – đều bắn tệ nhất là một băng đạn mừng xuân. Người ta còn nghe những tiếng nổ lớn hơn, giống như tiếng lựu đạn công kích, những người lính bảo chỉ muốn gây chút ồn áo náo nhiệt, là chuyện đương nhiên vào thời điểm đó trong khi không làm hại ai, nếu cẩn thận — Từ nhiều năm nay, chính quyền quân sự và dân sự đều nhắm mắt làm ngơ trước cách đón giao thừa ngược ngạo nầy. Dù gì, cũng rẻ hơn tiền mua pháo. Đạn Mỹ viện trợ mà!

Rồi, trong từng nhà, trong trại lính, mọi người ăn uống, đàn hát vui chơi. Những giáo dân ngoan đạo đi xem lễ nửa đêm mừng năm mới. Cho nên, đến lúc 2 giờ sáng, hết ồn ào náo nhiệt, mọi người chìm vào giấc ngủ say: thêm một lần nữa, nghi thức đón Tết đã được thực hành đúng phong tục.”
Một nghi thức khác sắp bắt đầu.

Đúng 2g 20, cả thành phố bị kéo ra khỏi giấc ngủ đầu tiên của năm mới, bởi tiếng súng nổ, kèm thêm tiếng lựu đạn và đại bác. Có kẻ lạc quan— hoặc vô tư— vô nằm ngủ lại, càu nhàu mấy chú lính lại ăn mừng bừa bãi năm mới thêm lần nữa. Có kẻ linh cảm ngay là đang xảy ra chuyện gì nghiêm trọng.
Đúng vậy, tình thế rất nghiêm trọng: tại trung tâm thành phố, trụ sở tòa hành chánh, đài phát thanh và các cơ sở đã bốc cháy và hình như bị chất nổ và súng cối bắn phá nát. Việt Cộng tấn công từ phía Tây và phía Bắc Kontum.

Những người lính đang ngủ trong đồn bót hay ở ngoài, hốt hoảng chụp vội súng và bắn loạn xạ. Du kích Việt cộng, nhờ yếu tố bất ngờ, đã chiếm được một số cơ sở và vài lô cốt. Chúng đặt chất nổ, ném lựu đạn và dùng súng máy triệt hạ các mục tiêu. Gần như ngay lập tức, tiếng nổ long trời lở đất: đạn bay qua bay lại vèo vèo, hỏa châu và lửa cháy rực trời, bắn nhau loạn xạ.
Tòa Giám Mục nằm phía bắc thành phố Kontum, cách căn cứ quân sự chỉ một con đường nhỏ, mà một phần đã lọt vào tay quân Việt cộng, chúng đã chiếm giữ, vô hiệu hóa đài phát thanh. Sát bên căn cứ quân sự là Trung tâm Hành chánh, mục tiêu số một của trận đánh: như vậy, chúng tôi nằm ngay địa đầu giới tuyến. Cửa sổ phòng ngủ tôi nhìn ra ngay khu vực hai bên đang đánh nhau. Tức thì, đạn bắn vào tường rào, vào mặt tiền Tòa Giám mục, làm bể cửa kiếng, xuyên qua cả mùng ngủ của tôi, …

Giữa hai làn đạn, tôi mạo hiểm ngó ra ngoài: thật ngoạn mục, nếu như không phải là thảm kịch. Lúc rạng sáng, tiếng súng vẫn nổ ran và chỉ bớt dần khi trời sáng, nhưng vẫn còn nổ lai rai suốt cả ngày.(…) Tôi phải đi thăm, hỏi dò tin tức, tổ chức cấp cứu ngay nếu được. 8 giờ sáng, không một bóng người, đường sá vắng tanh, cấm đi lại. Từng toán lính nhỏ, mang súng, tuần hành ngoài đường — những tên nầy sẵn sàng nhả đạn, chỉ có khu vực phía nam Kontum dần dần rục rịch. Nữ tu Anne, bề trên hội dòng Bác ái, trên đầu sơ sài với chiếc nón kiểu công đồng Vatican II, là một trong những người xuất hiện đầu tiên ngoài đường.

Dần dần, dân chúng làm gan ra khỏi hầm ẩn nấp, họ nghe nói là cả khu nhà thờ Chính tòa, trường Cuénot và nhà dòng các nữ tu Bác Ái, không hề hấn chi: họ bắt đầu ùn ùn kéo nhau tới, tay ôm quần áo, tay dắt trẻ con. Cha Rannou để những người Thượng tị nạn trưng dụng trường Cuénot, cũng may lúc đó đúng thời điểm học sinh nghỉ hè. Họ thuộc đủ thành phần: công chức, gia đình binh sĩ, v.v… Những ngày kế tiếp, cha chu đáo tổ chức, kêu gọi tất cả mọi người thiện chí có khả năng về mọi lãnh vực: tiếp tế, vệ sinh, trạm xá, trật tự… Những phần vụ nầy đều do người Thượng điều hành. Có những người tài giỏi được khám phá . Cha Rannou điều hành, thúc đẩy, an ủi. Gần một ngàn người chạy nạn tạm trú nơi đây và mọi sự đều trật tự, ngăn nắp. Trẻ em, lấy lại niềm tin, cười nói như trước. Với một cha trẻ, mới về lại miền truyền giáo, đó là dịp thử nghiệm tuyệt vời và cha Rannou không thua gì những vị Thừa sai lão thành.

Ở nhà thờ chính tòa, trường học, ở nhà hội dòng Bác Ái, phần đông thành phần tị nạn là người Việt , họ chen chúc lên nhau, ẩn nấp ở cả dưới nhà thờ chính tòa, vì nhà thờ được xây kiểu nhà sàn, cho họ có cảm tưởng an toàn nhưng, nhà thờ làm bằng gỗ phơi nắng dưới mặt trời nhiệt đới đã từ nửa thế kỷ nay, nhóm khác lấy lớp học làm chỗ trú ẩn, dưới mái trường lợp tôn, kẻ khác núp dưới mái hiên, thậm chí trong cả các lều vải.
Tất cả đều tạm bợ, và hoàn toàn bấp bênh. Nhưng đây là nơi trú ẩn tốt nhất vì có đức tin phù trợ: ở đây là nơi gần nhà thờ có Mình Thánh Chúa, có các Cha, các nữ tu… và tất nhiên có Chúa ở cùng nữa.

Dĩ nhiên, đám người tị nạn nầy thuộc nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng họ đến đây để tìm một người hướng dẫn và sự an toàn. Sau này, vào thời điểm cao nhất, lên đến 3000 người. .
Tôi ghé ngang qua thăm vội Tiểu chủng viện ở phía bắc thành phố, khu vực không được yên ổn lắm. Thấy có nhiều vết bắn trên tường, đêm qua một đầu đạn rớt vào nhà cơm, làm mái nhà lủng một lỗ to tướng; một chú đầu gối bị thương. Cha Faugère lấy viên đạn ra và băng bó lại. Nghề của ngài mà.

Suốt những chuỗi ngày kinh hoàng đó, Đức Giám mục Kontum đi thăm viếng các bệnh viện, các nơi có người tị nạn tạm trú, trường học. Ngài chứng kiến nhiều cảnh tượng thật nguy khốn, đôi lúc không khỏi khôi hài, cũng như những trường hợp thật là anh hùng, ví dụ như các y tá và các nữ tu ở bệnh viện Minh-Quý cách thị xã 2 cây số. Bệnh viện bị Việt Minh bao vây. Chúng muốn giết bà bác sĩ Patricia Smith, chỉ vì bà là người Mỹ. Suốt bốn ngày, 11 người đàn bà bị cô lập, ngày đêm săn sóc chữa trị cho 300 người Thượng bị thương hay bị bệnh. Đức Cha cầu nguyện ngày đêm cho họ. Vậy mà, dù bom đạn nổ liên hồi, tứ tung chung quanh, nhà thương vẫn không hề hấn gì và không thấy bóng dáng một tên Việt cộng nào. Khi viên sĩ quan Mỹ tới giải vây họ, ông nầy không tin vào mắt mình, Patricia Smith đáp trả:

Nếu ông có đức tin, thì phúc cho ông. Nếu ông không có đức tin, thì đừng tìm hiểu làm gì. Chỉ có một cách giải thích duy nhất, đó là Chúa đã che chở chúng tôi.
Vẫn tiếp tục đánh nhau trong thành phố, vô số đạn bắn đi, rơi rớt bất kỳ chỗ nào, giống như trái rốc két Mỹ, bắn đi nhưng tầm bắn lại quá ngắn, khiến nó rơi vào kho đạn của phe mình, tạo thành một màn pháo bông không thể tưởng tượng, kiếng cửa tòa giám mục bể nát, phòng ngủ Đức Cha phủ đầy thạch cao.
Thật lạ vì chính vào những khoảnh khắc đó là lúc ta cầu nguyện sốt sắng nhất, Ngài tâm sự. Cha Charles de Foucald nói thật đúng:”May cho chúng ta là đôi khi chúng ta không còn lối thoát nào khác hơn là ngước mắt về Chúa…” Hơn nữa, năm nay là năm Đức Tin: Chúa cho chúng ta dịp hy hữu để sống đức tin thật sự. Tất cả là hồng ân.
Sự sợ hãi và lo lắng hiện rõ trên những khuôn mặt. Có người nói với tôi: “Thưa Đức cha, thành phố có đầy Việt cộng trá hình. Họ xâm nhập trong đêm và trà trộn giữa chúng con. Họ bắt chúng con phải biểu tình chống chính phủ, quân đội và người Mỹ”.

Hệ thống phòng thủ thị xã rất sơ sài: Lực lượng gồm khoảng 600 người, mà phải bảo vệ bộ tư lệnh, bệnh viện quân đội và phi trường; họ rất vất vả và bị tấn công nhiều lần. Ở nội thành, toàn nhân dân tự vệ địa phương, với khí giới sơ sài và thiếu kinh nghiệm chiến đấu: chỉ khoảng một ngàn người, dựa vào máy bay yểm trợ. Nhưng họ đã thành công trong việc bảo vệ thành phố. Còn nhà cửa và dân chúng hầu như không được ai bảo vệ, những căn nhà sàn bằng gỗ, vách đất trộn rơm dễ dàng bốc cháy và sụp đổ nhanh chóng. Có hầm trú ẩn, nhưng dân biết thế nào Việt Cộng cũng ném lựu đạn vào nơi ẩn núp của phụ nữ và trẻ em, nên không có ai muốn trú ẩn ở đó.

Hàng trăm người bị thương được chuyển về bệnh viện, nhiều người chết vì không được cấp cứu ngay. Hai nữ tu y tá kiệt sức với công việc ngập đầu. Cha Faugère (tên Việt: cố Cao – ND) đến phụ giúp một tay, mang theo hai nhóm chủng sinh. Một số chú giúp băng bó, chích thuốc, số khác đào huyệt, hiến máu. Đôi lúc, dù tiếng đạn bay vèo qua vách tôn, xéo qua mặt giường, cha Faugère vẫn tỉnh bơ, một tay cầm kéo, một tay cầm miếng băng. Đến nỗi, ngài cũng không để ý là bệnh nhân đã chui xuống gầm giường tránh đạn từ lúc nào.
Hiện trường có đủ bi hài, một thầy dòng Lasan (trường Lasan sát vách tường Tòa Giám Mục-ND) tin rằng mình nghe có những tiếng nói phát ra từ đống đổ nát, hàng loạt “tin vịt” tung ra, làm thiên hạ càng chắc rằng trong Tòa Giám Mục đầy nhóc Việt cộng, đến nỗi lính Mỹ cũng tưởng như thế và tính nả súng vào Đức Cha khi Ngài đang cố dọn dẹp phòng làm việc. Liều chường mặt qua cánh cửa, tay cầm chổi quét nhà, Ngài thấy một anh lính Mỹ, chỉa súng về phía Ngài và sẵn sàng bóp cò, miệng la lên: “Hello! Good afternoon, Sir; how are you?” — “My God! Where are Viêt-Congs?”— Ngài bật cười và giơ cao cây chổi gậy giám mục, giống như cành cây ô liu. “Please, Sir, I invite you to visit my “house-bishop !” Chàng lính trẻ có vẻ như tự hỏi: ai mới là người điên đây. Rồi hạ súng xuống và tiến đến gần Đức cha. Sau lưng anh ta khoảng 30 binh sĩ đang dàn đội hình sẵn sàng chiến đấu. Chính họ chuẩn bị cuộc tấn công vào địa điểm được đánh dấu là nguy hiểm, và đã bắn vài quả đạn pháo trên mái nhà Tòa Giám Mục. Nhiều tin đồn ngớ ngẩn lan ra khắp nơi, cần phải dập tắt ngay; tình trạng thiếu kiểm soát và tính cả tin của đám đông đang gieo rắc hoảng loạn.

Trưa ngày 1 tháng 2, một thầy đang giúp xứ trong một họ đạo quanh vùng, hớt hải chạy về, mặt mày tái mét. Đêm qua, một toán quân du kích Việt cộng khá đông đã chiếm đóng làng Phương Quý, họ len lỏi vô hết mọi nhà và ngay cả dưới gầm nhà thờ, vì giống như những nhà thờ khác, nhà thờ Phương Quý được xây kiểu nhà sàn. Đàn ông chạy trốn hết, vì người lớn và lớp trai trẻ có nguy cơ bị bắt làm lính để tăng quân số cho “quân đội giải phóng”. Trong làng chỉ còn lại ông bà già, phụ nữ và trẻ con: đó là một chiến thuật để giúp giới đàn ông trốn thoát. Rồi lợi dụng màn đêm, tất cả sẽ biến mất vào rừng. Như thế, nếu khi máy bay bỏ bom thì chỉ còn lại quân Việt cộng mà thôi.
Thầy giúp xứ không biết cha xứ đi về đâu, có thể ngài đã chạy trốn cùng đám đông.

“Vậy Mình Thánh Chúa đâu?” Đức Cha hỏi. Thầy đỏ mặt trả lời:”Dạ không ai nghĩ tới. Mình Thánh Chúa còn lại trong nhà thờ.”— Con ơi, con thấy không, trong suốt đời người, ít khi có dịp anh hùng để minh chứng đức tin. Khi cơ hội đến, đó là dấu chỉ của Chúa, một ân sủng. Lúc đó, ta cần bày tỏ một phản ứng tối thiểu để xứng danh là Ki-tô hữu…. Con có niềm tin không? Con có tin vào sự hiện diện thật sự của Người không? “ — “Thưa Đức cha, có”—.“Vậy thì con nghĩ xem bỏ Mình Thánh Chúa lại như thế, khi Ngài đã trao tình bạn cho chúng ta, có phải là chuyện bình thường không?” — “Thưa Đức cha, không.” — “Con có muốn trở thành linh mục nay mai không?”— “Dạ có.” — “Vậy thì! Hôm nay con có cơ hội chứng tỏ con có thể làm linh mục hay không: con hãy trở về lại làng và rước Mình Thánh Chúa về đây. Con có đồng ý không?—”Dạ có, thưa Đức Cha.” — “Có bốn trường hợp có thể xảy ra:
– Việt Cộng bắn con chết: thế thì tốt thôi. Vì «Vita mutatur, non tollitur»
– Có thể chúng để con hoàn thành sứ mệnh: như vậy cũng tốt.
– Hay họ bắt con làm tù binh, đem vô rừng. Trường hợp nầy xem ra không tốt mấy: nhưng con sẵn sàng chấp nhận mọi sự mà.
– Cuối cùng, chúng ngăn không cho con vô nhà thờ và đuổi con đi. Lúc đó, con giải thích, con “giảng giải”, con năn nỉ, con nhất định không đi đâu nếu không mang theo được Mình Thánh Chúa: đến khi chúng phải chịu thua….
– “Con vẫn đồng ý chứ?”
-“Dạ vâng. Xin Đức cha chúc lành cho con.”
Tôi lấy xe hơi, chở anh đi và bỏ xuống gần mép làng, sau đó, anh tiếp tục đi bộ. Tôi lợi dụng cơ hội đi thăm làng Kon Robang, một làng người Thượng công giáo, bị đe dọa và đang hoang mang báo động vì tình trạng ở làng Phương Quý. Họ đã sợ Việt Cộng đột kích, nhưng lại còn sợ máy bay Mỹ bỏ bom nhiều hơn.

Một giờ trôi qua. Trên con đường nắng chói, bụi bặm, tôi thoáng thấy bóng dáng anh chủng sinh của tôi trở lại, giơ cao chén Thánh. Mặt anh lộ vẻ vui mừng sung sướng. Tôi cũng vậy! Sau khi đặt và thờ lạy Mình Thánh Chúa, anh kể lại với tôi: khi anh tới nơi, Việt cộng đi ra khỏi nơi trú ẩn dưới nhà thờ và bao vây anh. Anh ta bèn giải thích cho họ là sáng nay, ra đi vội vã, nên quên mất một chuyện rất quan trọng. Và, anh giải thích là tại sao lại quan trọng đến thế. Chúng hơi cằn nhằn, nhưng rồi cũng cho phép anh vào nhà thờ mau…mau lên… Họ theo sát anh đến cung thánh. Vậy là xong việc…
—“Con của cha, con hãy vui mừng, vì hôm nay con đã minh chứng đức tin của con và ngoài ra con còn chiến thắng trên chính con: con đã chế ngự được sự sợ hãi. Cha rất hãnh diện về con.”.
Máy bay Mỹ tiếp tục ném bom, tàn phá toàn bộ nhiều khu vực; tiếng súng nổ lẻ tẻ vô lối khắp nẻo đường phố: người chết chất đống, số người bị thương dồn về các bệnh viện quá tải, bác sĩ và y tá kiệt sức; lợi dụng tình thế hỗn loạn, những tên vô lại đi cướp bóc. Trở về nhà sau một đêm giải phẩu, vị bác sĩ giám đốc rất tận tâm thấy toán binh sĩ “tăng viện” có nhiệm vụ canh gác nhà của bác sĩ, đang thản nhiên chất đầy bàn ghế và đồ đạc lên xe tải. “Một bọn khốn nạn… các anh dám ăn cướp nhà tôi”. Họ trố mắt kinh ngạc “Nhưng thưa bác sĩ, chúng tôi không biết nhà này là nhà của bác sĩ…”. Khi ba nữ y tá về lại nhà, thì thấy tất cả quần áo, đồ ăn và vật dụng cá nhân không cánh mà bay. Một chiếc xe tải nhà binh đã chở đi hết. Khi bà con hàng xóm chạy qua xứ đạo bên cạnh báo với Đức cha, thì họ bị chỉa súng đe dọa.

Tệ hơn nữa, bệnh dịch hạch lại bùng phát! Khu rừng sát cạnh đầy dẫy chuột. Mà xác người đã không được chôn cất trong nhiều ngày, ở các vùng xung quanh và cả ngay trong thành phố. Họ mau chóng bắt đầu chích ngừa cho toàn bộ dân chúng.
Đức Cha Seitz, ngày đêm chạy ngược chạy xuôi, hết nơi nầy qua nơi khác, an ủi, chăm sóc, và nhất là ban các phép bí tích giải tội và bí tích Thánh Thể và xức dầu. Ngài trông coi và nâng đỡ hàng trăm chú ở tiểu chủng viện, trẻ em cô nhi viện, và cả những người tị nạn, Ngài ngủ đêm lại với họ. Bọn trẻ thật vô tư không biết nguy hiểm là gì. Chúng kiếm chỗ gần nhất để nhìn rõ đám cháy, ngắm tia đạn bắn sáng cả bầu trời và thích thú thấy nhà cửa nổ tung và bốc cháy. Đức cha phải dạy bảo và nhắc nhở chúng phải tỏ lòng trắc ẩn và thông hiểu sự đau khổ của tha nhân.

Bốn ngày năm đêm sống trong hỏa ngục. Cuối cùng, quân Việt Cộng bị đánh bại ở Kontum. Tàn quân, còn tử thủ trong đôi nhà, bi xe tăng bắn cháy tan tành. Dân chúng thở phào và chui ra khỏi hầm trú. Người ta chôn cất xác chết, trong đó có cả xác Việt cộng, một số bị cấp chỉ huy còng chân vào nơi đặt ổ súng liên thanh để chúng khỏi tháo chạy; trong một chiếc túi của tên chỉ huy, người ta lấy được danh sách liệt kê những nhà chức trách và những nhân vật phải thủ tiêu trước hết. Chuyện nầy gặp đi gặp lại nhiều lần.
Ngày 6 tháng hai, Đức Cha vui mừng thấy nhiều cha thừa sai tản mát trong vùng về dự buổi họp hàng tháng. Các ngài cũng bị Việt cộng tấn công; quân đội đã can thiệp trong các buôn làng. Có nhiều người thiệt mạng cả hai bên, nhiều người bị thương, và nhất là nhiều vụ cướp bóc. Kẻ thù bị đẩy lui, nhưng vẫn lẩn trốn đâu đó và thề sẽ trở lại.

Ngày mồng 7, Đức Cha mới đi thăm được Pleiku, một trong các xứ lớn nhất của giáo phận. Ngài đi theo sau đoàn xe Mỹ và giữ khoảng cách kha khá. Đoàn xe mất nhiều chiếc vì trúng mìn. Ở đây cũng như những nơi khác, thành phố bị tấn công vào đêm 29-30 tháng giêng vào giờ H. Nhờ có đông quân Mỹ đóng gần đó, nên ngay chiều 30, cuộc tấn công của Việt cộng đã bị đẩy lui, sau một trận giao tranh ác liệt và đẫm máu. Nhiều nạn nhân dân sự, nhưng cha Thung một linh mục trẻ, cũng bị một tràng đạn giết chết: thêm một nạn nhân trong danh sách tử vì đạo trên Miền Truyền Giáo nầy. Các cha xứ trong thị xã, toàn người Việt Nam, lập tức tổ chức cứu trợ. Đức Giám Mục đi thăm viếng các trường học và bệnh viện đầy ắp người bất hạnh, người bị thương, người không nhà. Có người chịu thiệt hại lần nầy là lần thứ tư trong vài năm gần đây.

Cuối cùng, ngày 9 và 10 tháng 2, vị mục tử giáo phận đến thăm được Kon Horing, họ đạo mà từ lâu Ngài dự định làm một chuyến kinh lý mục vụ và ban phép thêm sức. Mọi sự diễn tiến tốt đẹp. Lễ trọng, có 300 em lãnh phép thêm sức trong bầu khí yên vui, dưới bầu trời xanh biếc và bên khu rừng xanh mát, trong bầu khí nghiêm trang và sốt sắng lạ thường… Với tính hài hước, Đức Cha ghi nhận Ngài thu hút được đông người chú ý nghe hơn là những cán bộ tuyên truyền Việt Cộng.
Tổng kết trận tổng tấn công Kontum gồm có 250 người cả dân thường và quân đội bị chết, phía Việt cộng có 883 chết, 16 tù binh; 550 người dân bị thương, còn phía Việt Cộng thì không biết bao nhiêu; 460 căn nhà bị phá hủy, và người không nhà không cửa tăng gấp mười lần. Quân chính phủ tịch thu được một số lớn vũ khí hiện đại, chẳng hạn như 86 súng bắn rôc két và chừng 5 tấn đạn dược.

Tổng kết cũng cho thấy là quân đội Việt Nam một mình chống chọi mãnh liệt và anh dũng chiến đấu trong 48 giờ đầu, trong khi đợi quân Mỹ tiếp viện. Đàng khác, Đức Cha Seitz có thể khẳng định rằng, toàn thể dân chúng chống lại quân tấn công, ngoại trừ nhóm gián điệp nằm vùng đã len lỏi vào trong thành phố trước để chuẩn bị cuộc tấn công, nhưng nhờ dân chúng, họ bị loại trừ ngay lúc đầu.

Nếu quân đội và dân chúng đã rầm rộ ngã theo Mặt trận Giải phóng Miền Nam, thì Kontum — cũng như các thành phố Miền Nam khác, — đã mất ngay từ giờ phút đầu. Hình như phía Việt cộng đã chủ quan về lực lượng của họ và họ cũng tưởng là được dân chúng ủng hộ, nên họ đã phạm một lỗi lầm tâm lý dẫn đến hậu quả tai hại cho họ. Ngoài ra, trên toàn miền Nam, họ mất từ 20000 đến 25000 quân trong chiến dịch nầy, một tổn thất quá lớn — cho dù nguồn tiếp viện từ miền Bắc và Trung Cộng là vô tận.

Đức Cha Seitz luôn lạc quan về tương lai, biết rằng, dù dân chúng mất tin tưởng ít nhiều vào chính quyền hiện tại nhưng vẫn ủng hộ chính phủ nầy hơn là một chính quyền của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vì chính quyền nầy sẽ chắc chắn dẫn tới chế độ cộng sản. Lúc đi thăm bệnh viện quân đội ở Kontum, Ngài chuyện trò với các tù binh bị thương, vô từ miền Bắc. Trên nét mặt họ hiện rõ trạng thái đã kiệt sức. Người lớn tuổi nhất trong đám là một thanh niên 25 tuổi; người ta nói với Ngài là có những trẻ em 16 tuổi, sau khi bị ép dùng thuốc kích thích và nhồi sọ, chúng được gởi ra chiến trường làm bia đỡ đạn. Những tên Ngài gặp còn trong tình trạng sốc tinh thần và kiệt quệ. Nhưng theo Ngài quân lính bị thương của cả hai bên, anh em một nhà, đều cùng chung một nỗi khổ. Được chăm sóc, thậm chí được quan tâm đến, làm cho họ có cảm tưởng như một người chết đuối được cứu sống.
Tôi hãnh diện về các linh mục thừa sai Paris của tôi. Các ngài thực sự thấm nhuần ân sủng truyền giáo. Còn lớp trẻ sẽ đến, họ không thua kém gì. Tôi tin chắc như vậy, mặc dù đã tám năm, tôi không nhận thêm được ai.

Tôi nghĩ là, trong khi chờ đợi tình trạng sáng sủa hơn, nếu dựa vào sự năng động của các đội ngũ nữ giáo dân truyền giáo, hoặc chúng ta rơi vào chế độ mẫu hệ, hoặc thanh niên trai trẻ ngày nay cũng không thua kém.
Tôi mong rằng, những ứng sinh muốn làm việc truyền giáo biết chắc điều nầy (hình như tôi đã phải trả một giá khá đắt để nói lên với họ điều nầy!): điều thiết yếu cho sứ vụ truyền giáo là một con người khỏe mạnh, quân bình, sẵn sàng cho hết và cho mãi mãi.
Họ phải chuẩn bị bằng hành động – nếu không họ không hội đủ điều kiện.
Và, như vậy, tôi giữ nguyên lời mời gọi các thí sinh muốn đi làm việc thiện nguyện “hợp tác văn hóa”, niên khóa 1968, và tôi xin Hội đồng trung ương gởi cho tôi các vị truyền giáo trẻ. Sứ vụ truyền giáo ở miền nầy chưa kết thúc.

Kiến trúc sư – nhà kiến thiết không biết mệt.

Nguy hiểm đã qua, tình hình tương đối yên ổn trở lại. Phải sửa sang những đổ bể, tái thiết những gì bị phá hủy hoặc hư hại. Đức giám mục, cùng cánh tay phải của Ngài là cha Vacher, cả hai cùng xắn tay áo lên và bắt tay vào việc ngay: tòa giám mục, tiểu chủng viện, trung tâm cấm phòng mang tên “Thiên đường”, không kể các nhà thờ ở Võ Lâm và Plei-Ku, bị phá hủy một trăm phần trăm: tất cả các cơ sở nầy đều rất cần thiết cho sinh hoạt của giáo phận, và sẽ nhận được những sửa chữa đầu tiên. Còn thiếu 50,000 mỹ kim. Nhưng Ngài nói: “Những thiệt hại vật chất nầy ít gây thảm hại hơn là phạm một tội nhẹ”.

Kontum sinh hoạt trở lại, nhiều gia đình tạm trú trên căn nhà đổ nát của họ. Nhiều phụ nữ trẻ chít khăn tang trắng. Lòng buồn vời vợi hiện rõ trên gương mặt mọi người. Nhưng những người sống sót bắt đầu lại vì phải tiếp tục sống. Với lòng can đảm, những người dân thấp cổ bé họng bị bách hại nầy bắt đầu trở lại công việc.
Lời cuối của Đức Giám mục kết luận về những ngày tang tóc và cay đắng:
Tôi thành khẩn mời những ai đề ra giải pháp hòa bình cho Việt nam cốt ở việc phải rút quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam – hãy đến và sống cuộc sống của người dân miền Nam trong một ngôi làng hẻo lánh. Cũng như tôi cũng mời tất cả những kẻ “diều hâu ” đến đây sống – tất nhiên cùng với vợ con – để có dịp cùng khóc với những người đang khóc: khóc cho vô số nạn nhân của một cuộc chiến đáng nguyền rủa.

Việt Nam hóa chiến tranh

Trên toàn quốc, phải cần một thời gian lâu hơn và khó khăn hơn Kontum, mới lấy lại được tình hình. Nếu MTGPMN đã không thấy dân chúng nổi dậy ủng hộ mình, thì ít nhất họ cũng đã đạt được một trong những mục tiêu: một mặt phô trương khả năng phá rối, mặt khác chứng tỏ sự khó khăn tìm kiếm một giải pháp hòa bình, nếu như MTGPMN không được chính thức mời tham dự hòa đàm, hòa đàm sẽ mang lại nhiều thuận lợi đáng kể cho họ, sẽ dễ dàng dẫn đến dành được chiến thắng khác trong tương lai theo kế hoạch của chúng.
Vào ngày 31 tháng 3, Tổng thống Johnson tuyên bố ngưng bỏ bom miền Bắc, và Hà nội chấp nhận tham gia hội nghị hòa bình Paris.
Tuy vậy, du kích Việt Cộng, dù bị đánh bật ra khỏi các thành phố, nhưng chúng vẫn tiếp tục tấn công bất ngờ, bắn rốc két hay pháo kích bừa bãi… gây thương vong cho dân chúng.
Trên quốc lộ hay đường mòn, gần như ngày nào cũng có mìn gài trong đêm nổ chết người. Vì thế, ngày 13 tháng 5, Cha René Sanier bị giết và người bạn đồng hành là cha René Thomann bị văng ra xa, chiếc xe 2 ngựa trúng mìn chống tăng bị nổ tan tành.

Hơn mười giáo xứ hoặc cộng đoàn giáo dân xung quanh Kontum đều bị cướp phá, như Dak-Cho thuộc bộ lạc Sedang, nhà thờ và tất cả các cơ sở đều thành tro bụi, công lao cha Paul Renaud với 35 năm dài gầy dựng đều bị sụp đổ trong vài giờ, Đức cha thở dài! Kon Som Luh, cơ sở trước đây hoàn toàn do cha André Marty gầy dựng nên từ con số không cũng cùng chung một số phận.

Nhà thương Minh Quý, cách Kontum hai cây số, được bác sĩ người Mỹ Patricia Smith coi sóc, bị tấn công vào ban đêm và một cô y tá trẻ người Đức bị bắt làm con tin. Nhà thương, với hàng trăm người bị thương và bệnh tật, phải tản cư khẩn cấp và tạm trú trong một trường học của thành phố. Có những y tá trẻ khác, gan dạ hay điên rồ, đã tình nguyện đến làm việc cho người nghèo – họ là những nhà thừa sai giáo dân chân chính — Đức Giám mục thốt lên: “Ngợi khen Chúa”. Và nhà thương không vơi bớt bệnh nhân, vẫn tiếp tục hoạt động.
Đó là một giai đoạn đáng ngưỡng mộ của thiên sử thi Việt Nam ở thế kỷ XX, được viết vào thời đại chúng ta đang sống, Đức cha ghi nhận: sự ý thức của giáo dân về sứ mệnh truyền giáo toàn cầu của mình, được Công đồng Vatican II nhấn mạnh. Nhưng còn nhiều chương nối tiếp…

Đăk Tô là một trong những nơi nóng sốt, một trong những trọng điểm của trận chiến Cao Nguyên, bởi vì đây là nơi cuối con đường nổi tiếng mang tên “Đường mòn Hồ Chí Minh”, con đường huyết mạch vận chuyển tiếp tế lương thực, khí giới từ miền Bắc đến miền Trung và miền Nam Việt Nam. Tại đây, có bảy vị thừa sai của chúng tôi. Có những điều mà vì khiêm tốn các cha thừa sai không thể nói ra. Nhưng tôi thiết nghĩ tôi có bổn phận phải nói thay họ, ít là một lần.

Trong thời gian hậu Công đồng này, ngay sau cuộc cách mạng năm 68 (năm 1968 đánh dấu sự nổi loạn của giới trẻ ở Pháp-ND), lúc mà cuộc khủng hoảng trong Giáo Hội và trong nền văn minh đang đặt toàn bộ xã hội Tây phương vào vòng nguy hiểm, Đức Cha đã mạnh mẽ phản kháng. Ngài gào lên :
“Trong khi ở một số nơi trên thế giới, nhiều linh mục đang đặt vấn đề về ơn gọi, về tư cách giáo sĩ, thậm chí cả về tình trạng độc thân của mình, trong khi những người khác lại bôn ba chạy từ hội thảo này sang diễn đàn nọ, dự hết buổi thuyết trình này đến lớp bồi dưỡng nọ, để tìm kiếm gì Chúa ơi? có phải là tìm kiếm Ngài không?… và trong khi những kẻ khác nữa, do quá căng thẳng, đang đứng trên bờ vực suy sụp thần kinh, thì các vị thừa sai đó, ngay giữa đám cháy, lại giống như ba đứa trẻ trong lò lửa: các ngài cầu nguyện, các ngài hát ca, như thể lửa không hề thiêu đốt, như thể đang ở dưới làn sương mai. »

Với các vị thừa sai, không có vấn đề. Một khi đã cho đi tất cả, phó thác mọi sự vào Chúa, tinh thần và con tim của các ngài được tự do. Họ làm việc trong những hoàn cảnh khó khăn không tưởng tượng được, nhìn dưới góc cạnh con người, nhưng dựa trên kinh nghiệm của họ, họ biết rằng “Thiên Chúa là chủ tể điều không thể”. Họ là nhà nghiên cứu và nhân chứng của Đấng Tuyệt đối; họ đã gặp được và tâm hồn họ an bình, không khác gì những nhà nghiên cứu và chứng nhân khác của Thiên Chúa là các tu sĩ sống đời chiêm niệm. Đừng, bạn đừng lầm, ơn gọi truyền giáo cũng là một ân sủng đặc biệt, một quà tặng của Chúa. Về những điều đó, các ngài là những nhân chứng sống.

Tôi tha thiết muốn mời những kẻ đang tìm kiếm và cả những người hoài nghi đến nơi chúng tôi ở, nghỉ ngơi và sống với họ.
Mong muốn nầy của vị Giám mục không phải là một ước muốn suông, vì những tâm hồn giàu lòng cùng kết nối đi theo gương của Ngài. Nhưng Ngài vẫn còn kêu mời những thiện nguyện viên tham gia vào sứ vụ truyền giáo: linh mục, chủng sinh, sinh viên. Ngài cần thêm y tá, chuyên viên giáo dục, giáo sư, người lo nhà trẻ, thành viên của phong trào Giới trẻ nông nghiệp Công giáo (J.A.C.), hướng đạo sinh và thậm chí cả thợ máy và nhạc sĩ.
Các bạn hãy đến! Ai cũng có việc cả. Nhưng đừng nuôi ảo tưởng, các bạn sẽ cùng với chúng tôi chia sẻ sự nghèo khó, bất an, bất lực, bó tay, nhưng cũng cùng san sẻ với chúng tôi niềm vui sướng và sự tự do.
Còn chuyện khác, chúng ta phó thác vào “Đấng chủ tể những gì không thể”.

Đứng vững, cố sống… cho đến ngày Chúa gọi chúng ta về với Ngài. Đơn giản thế thôi!
Giữ vững… giữ những thứ gì có thể giữ được: trước nhất là tinh thần… Còn những chuyện khác thuộc về Chúa. Các bạn yên tâm, chúng tôi vẫn bình yên, khỏe mạnh. Còn tinh thần của người khác? Kẻ nào giữ được cho mình một tinh thần vững vàng thì đã hoàn thành được 80% công việc rồi.
Bảo toàn những gì còn tồn tại: cơ sở, giáo xứ, phong trào, trường học, giáo lý viên, trợ giúp những kẻ bị nạn. Không phải tất cả đều tan hoang, tạ ơn Chúa! Có vô số công việc và không ít khó khăn. Ngày quá ngắn: không có gì buồn chán. Tôi bảo đảm với bạn.

Trong tương lai còn rất nhiều dự án nẩy sinh. Một số đã được khởi công, dù có chiến tranh, chẳng hạn bệnh viện Kon-Horing, cũng như một số giáo xứ đã được sửa sang lại ngay lập tức. Có ba mươi nhà xứ phải xây lên hoặc xây lại. Cha Vacher, tuổi đã sáu mươi bảy, vẫn không ngừng khởi công và đôn đốc việc xây cất.
Trên bình diện mục vụ, đối với chúng tôi rõ ràng điều quan trọng hơn hết, lý do sống và hành động – là chấp nhận chịu đựng khí hậu, chiến tranh và đe dọa… và mọi thứ khác – là Chúa Giêsu, là lời Ngài dạy. Đó chính là truyền giáo. Đó là dẫn đưa các linh hồn tới đức tin bằng rao giảng.

Cho nên, điều chúng tôi lấy làm an ủi và vui mừng là khi thấy một dân tộc với một tâm hồn đơn sơ và bản chất hướng về tôn giáo đã đón nhận Tin Mừng cách đặc biệt. Những giáo dân ở xa xôi, lẻ loi, không có linh mục, không ngần ngại đi 20 hoăc 30 cây số, tất nhiên là lội bộ – để được lãnh nhận bí tích giải tội và bí tích Thánh Thể.
Đức Cha nhắc nhở rằng tất cả các nhà truyền giáo, cho dù làm cha xứ, tuyên úy hoặc giáo sư không thể cưỡng lại tiếng gọi nầy. Ai giữ một trách nhiệm gì trong giáo phận, đều gánh thêm một việc nầy hay việc khác trong các giáo xứ. Nhiều vị để tâm vào chuyện dịch thuật để mọi người có cuốn Kinh Thánh và các văn bản phụng vụ bằng tiếng thổ ngữ người Thượng. Vì thế,
Đức Cha vui mừng khi Cha André Rannou, làm công việc công phu giống như chính các tu sĩ dòng Biển Đức, sau khi duyệt lại và sửa đổi, đã cho tái bản cuốn giáo lý diễn nghĩa rất quan trọng. Đồng thời, ngài cho in cuốn Thánh Kinh đầu tiên bằng tiếng Bahnar. Sau bảy tháng miệt mài với công việc, ngài làm tôi hồi tưởng tới lời của Đức cha Leroy: “Ranh giới giữa văn minh và mọi rợ chỉ bằng độ dày của cuốn giáo lý”. Đúng vậy! Nhận biết Chúa là quan trọng hơn hết. Và nếu một ngày nào đó chúng ta phải rời khỏi miền truyền giáo này, thì ít nhất việc làm của chúng ta sẽ còn ảnh hưởng trong một thời gian dài nữa. Tôi chỉ còn việc phải thanh toán tiền nong thôi: 100.000 quan Pháp. Nhưng in tất cả 20.000 cuốn, thành ra chỉ tốn mỗi cuốn 5 quan. Nếu bạn muốn bố thí, đây là chỗ cần giúp đỡ, bạn có thể chọn giúp những người giáo dân nghèo khó có được món ăn tinh thần này, vì “con người không chỉ sống bằng bánh mì – hay bằng cơm gạo”. Xin cám ơn!

Nạn thiếu thành phần giáo sư cũng là một mối lo âu của Ngài, và Ngài kêu gọi các cha già về dạy cho 230 trẻ em cấp tiểu học, 70 em cấp trung học và đặc biệt là làm giáo sư tiểu chủng viện — một công việc biết bao là khó khăn! — trong đó có 26 chủng sinh người Thượng. Một số cha thừa sai già và đã hưu trí trở lại làm việc, trong niềm vui được chết trong khi thi hành nhiệm vụ, và cũng là một niềm vui cho Đức cha khi được gặp lại các ngài.

Thân phụ qua đời

Nhưng năm 1968 nầy, ngoài việc Ngài phải vất vả chạy ngược chạy xuôi, trước khi chiến tranh xảy ra, trong lúc Việt cộng tấn công, rồi sau cuộc tấn công phải lo sửa chữa những hư hại đáng kể, cũng là năm Đức cha phải gánh thêm một thử thách khác: ngày 15 tháng 7, cha Ngài, vị trưởng tộc có bộ râu dài bạc trắng, được Chúa gọi về với Người, hưởng thọ 94 tuổi. Ông cụ Edouard Seitz vẫn hoàn toàn sáng suốt cho đến những ngày cuối, không tật nguyền, không đau ốm. Cụ ra đi như cây chết đứng, không ồn ào, giống như lúc cụ sống, chỉ vì tim ngừng đập khi đã quá mỏi mòn. Annette, con gái cụ là người luôn chăm sóc cụ sau khi cụ bà qua đời trước đó 21 năm, đã mô tả ông như một nhà hiền triết, một người đàn ông nhân hậu và không rắc rối phức tạp, kiên nhẫn, thông cảm và xét đoán quân bình, có tính hài hước riêng biệt, mà con cháu của cụ giữ nhiều kỷ niệm khôi hài. Tóm lại, bà nói:
Một người đàn ông dễ sống, truyền lại cho chúng tôi tình thần gia đình, ý thức trách nhiệm, tính lương thiện… Những điểm thiết yếu!

Đối với Paul, con trai cụ, đó là một thử thách quá lớn, dù đã đoán trước một phần nào. Ở xa xôi cách trở khiến niềm đau tăng thêm bội phần khi mất một người thân ruột thịt. Và với một linh mục, sau Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, có gì thân quý hơn cha và mẹ mình? Ở tuổi nào cũng thấy mình côi cút khi mất cha mất mẹ. Tuy nhiên, Ngài không nao núng, cũng không tìm kiếm an ủi của nguời khác. Phải chăng còn có nhiều tang tóc và đau buồn hơn nhiều chung quanh Ngài do chiến tranh gây nên? Cuộc chiến này có ngày kết thúc chăng?…

Quân đội Mỹ rút đợt đầu tiên, quân Việt cộng gia tăng tấn công

Những tháng cuối năm 1968 tình hình có vẻ lắng dịu hơn. Nixon, kế vị tổng thống Johnson, tiếp tục chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, muốn thấy quân đội Việt Nam tự đảm nhận lấy việc bảo vệ đất nước mình, nhưng với viện trợ vũ khí và thiết bị cực kỳ hiện đại, chính sách nầy cho phép ông ta bắt đầu rút quân đội Mỹ. Tháng 2 năm 1969, lữ đoàn bảo vệ Đăk Tô, nằm ở phía bắc Kontum, đã rút đi, để trống một hành lang thênh thang cho Việt cộng xâm nhập, và họ đã tận dụng cơ hội. Chúng đã rải truyền đơn trước:
Mỹ đã thua, đồng bào thấy không, chúng bỏ chạy. Mặt Trận đã thắng, chúng tôi vẫn còn đây, đồng bào còn cơ hội, đừng chần chờ, hãy về với chúng tôi, nếu không sẽ bị trị tội.
Một lần nữa, nỗi sợ hãi và lo âu tràn ngập lòng người, đặc biệt là trong những làng mạc thiếu phòng thủ. Ngay cả như vậy – Đức cha ghi nhận – cũng không có ai theo.
Vì vậy, Việt Cộng chuyển từ hăm dọa sang làm thiệt. Cùng một cách và gần như cùng lúc nầy năm ngoái. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 2, chúng tràn ngập Kon-Horing, một địa điểm lớn tập trung gần 10.000 người Thượng tị nạn mà đã nhiều lần là nạn nhân bị đánh đuổi và đã trông chờ từ hơn tám năm một cơ hội tái định cư giúp họ trở về những ngôi làng yên tĩnh dưới thung lũng và trên núi đồi.

Nên nhắc lại là hai trong số các cha thừa sai của họ, cha Minh năm 1960, cha Bonnet năm 1961, đã bị sát hại. Nhưng không vì thế mà họ bị bỏ rơi: cha Gabriel Brice và Christian Léoni vẫn ở lại bên họ, cũng như sư huynh Camille Mairot, thuộc Trường Lasan, hay sáu nữ tu người Việt thuộc dòng St Vincent de Paul (Vinh Sơn) cùng bà bề trên, nữ tu Helen, đến đây sau mười bốn năm phục vụ ở Congo.
Tất cả những người này hiến thân, ngày đêm lo cho linh hồn và thể xác: truyền bá phúc âm, trường gia chánh, trường học, nhà trẻ, trạm xá và bệnh viện. Mọi người đều tiến lên phía trước, bất chấp cơn bão tố. Và họ đã nổ tung ra từng mảnh. Nạn nhân đầu tiên là Cha Léoni mà một tràng tiểu liên bắn ngài ngã quỵ xuống đất; ngài có cảm tưởng là sẽ có một phát súng ân huệ khiến ngài chịu cùng số phận với hai cha đi trước, nhưng địch quân bị đẩy lui phút chót bởi một cuộc phản công. Cuộc giao tranh ác liệt kéo dài trong vài giờ, kết quả 65 người tử thương, phần đông là đàn bà và trẻ em. Cuối cùng địch quân rút lui.

Trong túi đồ của anh phụ tá An ninh Việt Cộng bị giết, người ta thấy có một danh sách gồm một trăm tám mươi hai thân hào nhân sĩ của quận Dakto. Ai cũng có lý lịch; tất cả đều “có tội ” chống lại Mặt trận Giải phóng, tội trạng được ghi rõ, cũng như hình phạt dành cho kẻ thù của nhân dân: hành quyết bí mật hoặc hành quyết công khai theo bản án của tòa án nhân dân. Cha Rannou xác quyết đã nhìn tận mắt danh sách này mà vị tỉnh trưởng đưa cho ngài coi. Những người nầy không phải là những người trực tiếp chống cộng, nhưng là những người có chút danh giá ngoài đời nên có ảnh hưởng trên dân chúng. Giống như bọn Sô viết đã làm trong rừng Katyn: hai mươi hai ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắn, phải chặt đầu thành phần đầu não của một quốc gia nhằm ngăn cản quốc gia đó chống lại chế độ mới.

Địch quân quay lại sáu lần trong những tháng tới, phá hủy hơn hai trăm ngôi nhà, làm bốn ngàn người không nhà không cửa, khiến hầu như toàn bộ dân chúng đều di tản về Kontum, chúng cướp và phá hủy hàng trăm tấn gạo, số lượng dự trữ cho cả năm.
Về phần cha Léoni, nát một cánh tay, ngài thoát chết và thậm chí may mắn không bị cưa tay, nhờ bảy lần phẫu thuật và chín tháng điều trị. Tuy vậy, ngài nhất quyết từ chối về lại Pháp và tiếp tục ở lại để chia sẻ cuộc sống của dân ngài.

Có những phương pháp sinh con không đau, Đức giám mục bày tỏ: có ” Anglais sans peine ” và rất nhiều “đồ nghề” để tăng thêm tiện nghi. Không có, sẽ không bao giờ có sự cứu rỗi nếu không có Thánh Giá. Và không có phương pháp nào, không có “công cụ” truyền giáo nào khác ngoài sự bền vững, lòng trung thành, sự chia sẻ cho đến chết với đời sống của một dân tộc.
Lúc địch quân tấn công lần thứ bảy, chỉ còn lại vài trăm người bám víu cách tuyệt vọng vào mảnh đất của họ. Cha Gabriel Brice, như bao nhiêu người khác, không có tính muốn làm anh hùng chút nào, nhưng ngài chỉ nói đơn giản với nhóm nhỏ giáo dân còn lại của ngài: “Khi nào người cuối cùng trong các con đi, cha mới đi”. Nhờ đó Giáo xứ tránh khỏi bị tan rã hoàn toàn. Tất cả các đồng nghiệp khác của chúng tôi trong khu vực đầy thử thách này cũng đều hành động như vậy và đó là cái giá phải trả để cộng đoàn giáo dân có thể tồn tại được.
Tất nhiên, tôi sẵn sàng chết, Sư huynh Camille nói, ông quyết định ở lại và bị pháo kích chung quanh. Nhưng tôi thấy rằng tôi chưa nên vội chết…
“Tất cả chúng tôi đang sống như vậy đó!”. Đức Cha quả quyết. Cũng không một nữ tu nào thuộc Dòng Thánh Vinh Sơn chùn chân cả. Nếu truờng học tạm ngưng hoạt động, thì trái lại, phòng bệnh xá không khi nào vơi bớt. Họ đích thực là “Chị em Bác ái”, không phải chỉ là một danh xưng cho đẹp mà thôi.

Cuộc tấn công Kon-Horing không phải là trường hợp đơn lẻ: từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1969, hơn sáu mươi ngôi làng, phần đông là công giáo, bị Việt-cộng quấy rối, đột kích, chiếm đóng. Những người chống cự bị giết chết hay bị hành quyết tại chỗ. Xe hơi, xe cứu thương đến cấp cứu bị trúng mìn, đó là trường hợp của bác sĩ Chistiane Granger. Bà biết chắc là bà cần phải có mặt nơi đang đánh nhau, bà vội leo lên xe jeep và nói: “Tôi lao đi ngay”. Đó là lời nói cuối cùng của bà! Ngay sau đó, có những người tình nguyện khác từ Thụy Sĩ sang thay thế bà: hai người Công giáo và hai người Tin lành, họ muốn thực thi tinh thần đại kết trong việc thi hành đức bác ái, họ xin Đức Cha giao việc cho họ và sai họ đi
nơi nào hữu ích nhất, không đặt vấn đề nguy hiểm hay không.
Tôi phản đối không đồng ý: Tôi lo cho họ: đã quá nhiều nạn nhân ở chốn nầy rồi! Thật đáng khâm phục cách họ phản đáp lại. Và tôi đã hiểu rằng món quà “nhưng không” là một món quà Thiên Chúa ban cho, là “ân sủng” tuyệt vời. Tôi hiểu rằng tôi không có quyền từ chối, rằng tôi phải im lặng chấp nhận, vì im lặng và cảm tạ là thái độ phù hợp nhất đứng trước bàn tay can thiệp của Thiên Chúa.

Và điều này khuyến khích tôi tiếp tục dự án xây thêm nhiều bệnh viện khác… Tại sao không, vì là việc cần làm. Tại sao không? Vì luôn có những “thủy thủ đơn độc” sẵn sàng ra khơi, họ có tên là Simon Pierre, Thomas Merton, Dr Schweitzer, Christiane Granger hoặc Jane Beguin – người đến sau cùng. Danh sách vẫn còn dài thêm từ đời nọ đến đời kia.
Sẽ có một ngày cuộc chiến tranh nầy kết thúc chăng?… hay chỉ chấm dứt khi Việt cộng tận diệt hết lớp giáo dân Việt Nam, nghèo khổ nhưng đáng khâm phục? Danh sách người tử vì đạo còn dài thêm không? Hay danh sách nầy cũng kéo dài từ đời nọ đến đời kia?
Vào cuối năm 1969, cha Quéguiner, Bề trên Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris, đi kinh lý nhằm nhận định tình hình và khích lệ con cái của ngài ở Viễn Đông đang gặp nhiều thử thách, và cũng để biểu lộ sự gần gủi của ngài với họ.

Tôi không thể không bày tỏ lòng khâm phục đối với những anh em linh mục của tôi ở Việt Nam, ngài tâm sự khi về lại. Các ngài lao vào công việc và hiến thân sống giữa đồng bào. Các ngài là những chứng nhân tuyệt vời, được mọi người quý trọng.
Tôi nhận thấy các cha thừa sai của tôi vẫn ở tại chỗ và dành tất cả cho công việc rao giảng lời Chúa, mặc cho hiện thời đầy dẫy khó khăn, lòng các ngài vẫn nung nấu một tinh thần ngoại hạng. Phải chăng đó mới là điều đáng kể? Ở việt nam, tôi đã găp 82 vị thừa sai trên tổng số 83 vị có mặt thời đó.

Đức giám mục Kontum rất hoan nghệnh sự hậu thuẩn của cha Bề trên Tổng quyền. Đức cha đau buồn vì nhiều lúc bị hiểu lầm, cũng như về thái độ hững hờ với công việc truyền giáo ở chốn xa xôi, trong lúc đó, Ngài nhìn thấy các vị thừa sai, giáo dân của mình hy sinh sức khỏe, tài sản và cả mạng sống của họ, để phục vụ Chúa và Giáo hội. Tháng tư năm 1970, cha trẻ Dominique Tung, phó xứ Kon-trang Monei, giật mình bật dậy vì một tiếng nổ phá sập cửa nhà xứ, chỉ có mình ngài ở đó. Việt cộng nhào vào bắt Cha, tra khảo và đe dọa, cuối cùng trói quặt hai tay sau lưng, rồi đem dẫn ngài đi trên con đường mòn mất hút trong rừng rú. Ngài biết chuyện gì sẽ xảy ra: trại cải tạo, mất mạng. Thình lình, ngài nhảy vọt qua một bên và cắm đầu cắm cổ chạy giữa đêm tối, cánh tay vẫn bị trói. Việt cộng bắn xối xả, đạn bay vèo bên màng tai nhưng không một viên nào trúng ngài. Quân sát nhân tưởng ngài đã chết nên ngưng đuổi theo. Ngài ngã quỵ trong một túp lều tranh, và được cứu sáng hôm sau. Nhưng ngài hoàn toàn bị giao động, nên ngài phải nhập viện.

Tháng bảy, Cha Joachim Khoa, sau khi dâng lễ Chúa nhật xong tại Mang-Yang, lên đường về Kontum, với sáu người cháu cả trai lẫn gái, cùng theo ngài về đây nghỉ hè. Chúng tôi tìm thấy bảy xác chết vất dưới hố ven đường, cách Kontum 20 cây số. Hơn 30 viên đạn xuyên lủng chiếc xe. Sáu quan tài trả về cho gia đình, có cả em bé mới 2 tuổi. Đức Cha chôn cất thêm một cha thừa sai nữa, lòng quặn đau. Và cứ điểm truyền giáo Mang-Yang đầy hứa hẹn vẫn còn trống vắng mục tử trông coi – cảnh làm Đức cha Seitz vô cùng đau lòng – vì ở đó có hàng ngàn người Thượng đang trên đường trở lại đạo.

Hai tháng sau, cha Dominique Thanh, vào khoảng giữa chiều, trở về từ chuyến thăm một trung tâm tị nạn lớn người Jarai. Ngài lái xe một mình. Việt cộng biết ngài sẽ đi ngang đó, chúng rình rập để thủ tiêu ngài, bởi vì ngài có uy tín lớn với dân chúng. Một tràng liên thanh phá nát phần sau chiếc Land Rover, cánh tay ngài bị gãy vì trúng đạn. Ngài giữ bình tĩnh và tiếp tục lái xe chạy thêm được vài trăm thước. Lại thêm lọat đạn khác, chiếc xe ngừng lại bất động, lần này, ngài bị thương nặng ở cổ và mặt. Máu chảy làm mờ mắt, cha nhảy ra khỏi xe và chạy thục mạng trên con đường dẫn đến một làng người cùi. Họ đón vị linh mục: ngài đã kiệt sức, và ướt trũng do trời mưa to. Tuy vậy, một chiếc trực thăng tới bốc ngài, lúc đêm đã khuya. Ngài thoát nạn. Chỉ hai tháng sau, tay còn bó bột, người gầy nhom và hốc hác, ngài trở lại nhiệm sở của mình.
Thưa Đức cha, con không sợ. Đức Cha đừng lo: con sẽ tiếp tục.

Phải trực diện đối phó. Con cái thừa hưởng tính can trường của cha mình. Vậy mà Đức cha vẫn phải ghi nhận là chỉ trong năm 1970 này, giáo phận truyền giáo Kontum đã mất mười một linh mục, bị chết vì bệnh tật, tuổi già hoăc vì bị giết cách tàn bạo. Giáo phận cũng không có một linh mục mới nào được tấn phong, cũng như không có một cha thừa sai trẻ nào từ Pháp đến tăng cường.

Như vậy, những vị còn lại phải đảm nhận công việc càng ngày càng nặng nề và có nhiều vùng phải để sang một bên đã, chỉ có các giáo lý viên giúp đảm bảo những điều tối thiểu; nhiều nhóm người chưa có đạo gởi đại diện tới xin một linh mục, nhưng giám mục không thể đáp lại yêu cầu của họ .
Tôi có thể chấp nhận được rất nhiều chuyện làm tôi mủi lòng, Ngài than thở, nhưng đây là một trong những điều không thể chấp nhận được. “Hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ gặt đến”. Khi nói lời nầy, chắc hẳn Chúa Giêsu là người đầu tiên đã cảm nhận được nỗi buồn. Hôm nay, tôi hiểu Ngài hơn một chút.
Còn bao nhiêu lần nữa trong năm nay, làng mạc bị đốt cháy, các thân hào nhân sĩ Công giáo bị giết, nhiều gia đình phải chạy trốn… Quân “cách mạng” tiếp tục bạo hành, bách hại, tạo nên bao nỗi khốn khổ. Bọn du kích địa phương có trách nhiệm duy trì tình trạng mất an ninh và khủng bố.
Đức cha Seitz nêu lên một khía cạnh khác: đó là sức sống và tuổi trẻ của dân tộc Thượng, mặc dù chiến tranh tàn khốc, dân số vẫn tăng trưởng rất nhanh. Ngài thán phục sức chịu đựng đau khổ phi thường của họ và hơn bao giờ hết, thái độ cự tuyệt sự áp đặt chủ nghĩa cộng sản: họ hoàn toàn không muốn và họ ngạc nhiên đến tức giận khi nghe những người ngoài cuộc cho rằng đó là giải pháp tất yếu và hơn thế nữa đó là giải pháp phù hợp nhất cho họ.

Các Nữ tu dòng Chúa Quan Phòng Portieux chấp nhận thành lập một chi nhánh mới nơi những người Thượng. Ngay trước khi họ đến, làng nầy bị tấn công: bảy người chết, khoảng hai chục người bị thương, mười sáu gia đình không nhà không cửa. Nhưng không vì vậy mà các Dì bỏ cuộc. Chi nhánh dòng được thành lập và họ còn tính lập thêm ở những nơi khác. Đức cha nhận xét: “Tính thận trọng là mẹ của mọi tật xấu…”. Nếu Ngài dùng câu dí dỏm nầy theo hoàn toàn nghĩa đen, sợ rằng tiến trình phong chân phước sẽ bị bế tắc, vì Ngài quên rằng tính thận trọng là một trong bốn nhân đức căn bản! Ngài tố thêm:
Có một đức liều lĩnh do Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn: tựu trung là đừng sai lầm thôi. Tôi tin rằng các Nữ tu hoàn toàn đi đúng đường.
Và Ngài cũng vậy, chúng ta yên tâm! Cha Rannou công nhận không thấy khi nào Đức cha rảnh rỗi cả, trong đầu Ngài luôn có một ngàn lẻ một dự án, khổ hơn nữa, Ngài hầu như không bàn hỏi với các cộng sự của mình và Ngài sẽ không khi nào có giờ để ngồi học tiếng Thượng. Ngài là một người muốn mau chóng hoàn thành những dự án mà Ngài cho là phải thực hiện. Hết dự án nầy đến dự án khác, ít khi Ngài chịu bỏ dở dang ý định của mình mà đôi khi người khác cho là không thể thực hiện được, và tiếp tục con đường đã dự định, lặp lại lời Phúc âm: “Ai tin thì sẽ được !”.

Các chuyến đi lại của Ngài vượt quá địa hạt giáo phận. Ngoài Sài Gòn, nơi Ngài thường hay tới, tháng 3 năm 1971, Ngài bay qua Manila. Cha Parrel, phụ trách chuyên mục cho tờ báo Rue du Bac, ghi lại:
Chúng tôi tiếp đón nhiều người ở Trụ sở vùng. Người đầu tiên tôi nghĩ đến trong đầu không ai khác là Đức giám mục Kontum, Ngài đi đây đi đó không biết mệt. Ngài ghé Sài Gòn trước khi bay qua Manila dịp Đức Thánh Cha Paul VI công du ở đó, và Ngài cũng không quên liên lạc với các vị khác trong Hội đồng Giám mục.
Nhưng lần này, tôi phải nói rằng tôi không ngạc nhiên, như lần họp hội đồng Giám mục hồi tháng giêng, khi bất chợt bắt gặp Ngài mang cuốn Asterix (loại truyện tranh vui dành cho trẻ em-ND) vào thư viện giữa hai phiên họp; ai cũng biết là các nhà báo thường có khuynh hướng phóng đại như loa phóng thanh, bạn có tưởng tượng rằng tôi đi đến kết luận sau: Hội đồng Giám mục đã cảm thấy cần phải dùng đến lọ thuốc tiên nào đó. (Tôi sẵn sàng chấp nhận lời đính chính, nếu cần phải đính chính).

Vị nầy còn kể lại, vào tháng 8 cùng năm, khi đi chung xe với Đức cha Seitz,
“do đường trơn trượt, chiếc Land Rover Ngài lái đột nhiên chao qua chao lại và cuối cùng nằm chình ình bất động như con vật to bự dưới con suối bên đường. Cảm ơn Chúa, chúng tôi không hề hấn gì, chỉ sợ hết hồn thôi. Một chiếc xe tăng canh gác gần đó đến kéo chúng tôi lên và chúng tôi lại tiếp tục chạy về Kontum như không hề có chuyện gì xảy ra cả.”
Vâng, đúng vậy, vị Giám mục nầy luôn xông xáo. Và khi Ngài không bị Việt cộng tấn công thì phải chính quỷ dữ đích thân quyết chí hạ Ngài cho bằng được… Đó là một dấu hiệu tốt! Cho thấy công việc của Ngài làm đẹp lòng Chúa.

Gởi các em người Thượng sang Pháp

Ý định nầy của Đức cha Seitz đã chín mùi từ lâu: Ngài nghĩ ra một phương thức độc đáo là xin các gia đình Công giáo Pháp nhận nuôi một em bé người Thượng, giống như chính con ruột của họ; một em có tư chất thông minh để được theo học trong môi trường an toàn, trong bầu khí hiền hòa an bình và thanh thản. Các em nầy sẽ được tiếp nhận trong các gia đình ở nhiều nơi khác nhau. Đức cha trông coi theo dõi từ xa. Học chữ hay học nghề tùy vào năng khiếu và sở thích mỗi đứa, đến khi thành tài trở về nước, sẽ đảm nhận trọng trách.

Đức cha giải thích cho các gia đình người Pháp biết các em không phải là trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi, ngược lại chúng là những người con trai xuất thân từ các gia đình người Thượng lành mạnh, nghèo, có đạo. Cũng là công dân Việt Nam, tuy nhiên, người Thượng khác người Việt chính cống ở chỗ họ là người Á châu nhưng không phải da “vàng”. Họ thuộc một chủng tộc da “ngâm ngâm đen” sống rải rác khắp nơi trong lưu vực Thái Bình Dương. Các nhà dân tộc học phân loại họ thuộc hệ “Mã lai-Polynesia”; ở Việt Nam họ được gọi là “Mọi”, tên gọi nầy không mang tính chất miệt thị khi viết trên các sách báo khoa học. Tuy nhiên, từ nầy bị cấm dùng trong giao tiếp hàng ngày bởi vì “Mọï” trong tiếng Việt có nghĩa là “man di, mọi rợ”, do đó gọi họ là “Thượng” để chỉ “Người vùng miền núi”. Ở miền Nam Việt Nam dân số người Thượng khoảng chừng 800.000, bị đẩy vào rừng và sống biệt lập trong vùng núi rất khó tiếp cận từ nhiều thế kỷ nay ở Trung phần và Nam phần Việt Nam sát biên giới Lào và Cambốt mà người ta còn thấy ngày nay. Có khoảng bốn mươi bộ lạc, mang nhiều tên khác nhau và mỗi bộ lạc dùng một ngôn ngữ riêng biệt, nhưng tựu trung gom lại hai nhóm ngôn ngữ chính là nhóm Môn-Khmer và nhóm Chàm. Cho đến cuộc chiến tranh gần đây, người Thượng không có hệ thống tổ chức chính trị-xã hội, chẳng có ở cấp bộ lạc, cấp làng mạc cũng không. Đơn vị duy nhất có tổ chức và hệ thống thứ bậc là gia đình. Hội đồng gồm các chủ gia đình quyết định sau khi “bàn bạc” chứ hội đồng không phải là cơ quan lãnh đạo.

Bây giờ Đức cha Seitz xem lại tình hình, và Ngài thấy rằng Chính quyền Trung ương, trong khoảng thời gian mười năm, đã biến đổi người Thượng từ chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ sang chế độ dân chủ. Giáo phận của Ngài, từ đầu và đến bây giờ cũng vẫn còn là một “cứ điểm truyền giáo” tiên phong – giảng đạo cho người Bahnars, Sedang và Jarai từ năm 1852. Hiện có 41.000 người Công giáo và dự tòng trên dân số 400.000 người Thượng.
Từ lúc Ngài được bổ nhiệm cai quản giáo phận, ba sự kiện rất quan trọng đã thay đổi hoàn toàn dòng lịch sử của những “con người của núi rừng”, bị cuốn vào một thế giới vật chất một cách thô bạo, có kẻ thích nghi được, có kẻ bị bóp nghẹt:
– Trước hết, cuộc di cư ồ ạt của người Việt lên Cao nguyên khiến hai dân tộc sống chung đụng với nhau, một bên năng động, bành trướng, phát triển; một bên chậm tiến, mặc cảm, thiếu chuẩn bị cho sự tranh đua từ nay không thể nào tránh khỏi.
– Thứ đến, chiến tranh trong hai mươi lăm năm qua, đã tàn phá tan hoang người Thượng cũng như người Kinh, buộc họ phải sống một nhịp sống khác, thay đổi các cơ cấu cổ truyền của gia đình và làng mạc. Theo cung cách tàn bạo của nó, chiến tranh là một yếu tố của sự tiến hoá. Nhưng có theo đường hướng tốt lành không?… Chúng ta có thề bàn cãi vấn đề nầy.
– Cuối cùng là cuộc chạm trán giữa hai ý thức hệ đối nghịch, mà họ đã và vẫn còn là đối tượng tranh đấu: một bên chủ nghĩa cộng sản, một bên là chủ nghĩa quốc gia dân tộc Việt nam, chủ nghĩa nầy dần dần giúp cho người Thượng nhận ra tính đặc thù của họ, mở đường cho tư tưởng “vùng tự trị”.

Sau đó, Đức Cha cắt nghĩa cho các gia đình người Pháp mà Ngài muốn gởi trẻ em biết cá tính các em Ki-tô hữu trẻ nầy. Ở xứ Núi rừng, con là vua. Chúng sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương đùm bọc của gia đình, được hoàn toàn tự do, nhưng không vì vậy mà chúng lạm dụng. Bẩm sinh, chúng hiền lành. Ít khi thấy những đứa con trai cãi nhau hay đánh lộn. Không bao giờ cha mẹ bắt con cái vâng lời, đó là một thiếu sót nghiêm trọng và đặt tình thương không đúng chỗ.
Người thầy tuyệt đối và nghiêm khắc, thưởng phạt công minh chính là thiên nhiên, môi trường mà chúng sống hòa hợp chặt chẽ với. Rừng vừa là nơi thù nghịch vừa là nguồn nuôi dưỡng. Đứa trẻ biết rõ điều đó, từ nhỏ đã cảm nhận được và chịu tuân phục; người lớn không cần phải chỉ dạy môn học nầy, nhưng chỉ chuyển đạt lại cho chúng phong tục tập quán, mà nếu chúng không tuân thủ, thì rất nguy hiểm cho chính mình, có thể mất mạng nữa là khác.

Chúng là những “Mowgli” tí hon, những hướng đạo sinh thực thụ, chúng thông thạo tên từng cây cỏ, từng thú vật, côn trùng, những phong tục cũng như những điểm mạnh điểm yếu của mình; chúng biết hết tất cả những dấu chỉ “cá biệt” của con người. Nhưng là người của núi rừng. Vì vậy, chúng có óc quan sát, một trí nhớ thị giác rất bén nhạy và một sự khéo léo về thủ công. Thêm vào đó, hầu như tất cả đều rất có năng khiếu về âm nhạc. Từ lúc mới sinh ra, chúng quen sống đời sống mộc mạc và cùng nhịp với thời tiết nhiệt đới.
Nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng những đứa bé nầy sống như vậy là hạnh phúc và tốt lành là chúng ta rơi vào chủ thuyết Rousseau . «Thế giới con người» thu hút chúng, lôi kéo chúng cũng như mọi người khác theo một vận hành tiến hóa, phát triển, nhưng kèm theo nhiều nguy hiểm. Chúng cần được trang bị, ít là bằng hay hơn những người khác để đương đầu với cuộc sống. Chúng sẽ bị kết án tử hình nếu chúng ta từ chối không cho chúng tham dự vào ván bài vĩ đại và khủng khiếp của nhân loại đang tiến bước: rút cục tiến bước tới chổ hoàn tất, tới Thiên Chúa. Con người sống để làm vinh danh Thiên Chúa.

Người thầy giáo đầu tiên của những em nầy, không phải ghế nhà trường, bàn học, cũng không phải là phấn trắng bảng đen, cũng như không phải bằng những khái niệm trừu tượng: hiện thời, chúng không biết đọc biết viết cho đến chín hoặc mười tuổi. Vì vậy, chúng là những em bé “học trễ”, nhưng không phải là những đứa trẻ “kém thông minh”. Phải tạo cho chúng lòng tự tin vào mình.
Điều mà Đức cha Seitz yêu cầu các gia đình người Pháp là không phải họ nhận con nuôi, nhưng là nhận đỡ đầu cho chúng toàn bộ: nuôi dưỡng, dạy dỗ, học vấn cho đến tuổi trưởng thành. Sau đó, chúng về nước để chính mình đảm nhận các công việc nhằm phục vụ anh em đồng bào, với tư cách một giáo dân hay là — tại sao không? – như một linh mục.
Tất nhiên thử nghiệm nào không có rủi ro, giống như rất nhiều dự án khác mà Ngài đề ra. Nhưng tất cả đều gom về một mối: sự rủi ro của đức tin. Ngài hoàn toàn chịu trách nhiệm với cha mẹ các em, — Ngài hỏi ý kiến và được họ tán thành —, cũng như bàn hỏi với các gia đình người Pháp, Ngài xác định là “cái rủi ro lớn nhất là không dám nhận lấy rủi ro”. Đó, con người Ngài là như vậy…

Tôi nghĩ là không bao giờ máy tính có thể nẩy sinh ra một toan tính như vậy, Ngài khẳng định: nó thuộc về một lãnh vực hoàn toàn khác biệt.
Lần đầu, Ngài gởi thử hai em theo cách nầy, mang lại kết qủa khả quan. Tiếp đến Ngài kêu gọi thêm các gia đình khác. Họ đáp lại với lòng tin yêu, trong tinh thần truyền giáo. Vì vậy, có gia đình nhận ba em; gia đình khác, đã sáu đứa con, còn nhận thêm hai em nữa, như con thứ bảy, thứ tám trong nhà.
Sau một thời gian rút kinh nghiệm, Ngài có thể quả quyết rằng nhiều nhận định về khả năng của người Thượng chỉ là thành kiến vô căn cứ, như “giỏi học tiếng, nhưng dốt các môn khoa học chính xác”. Nhưng không, Ngài có trước mặt sổ điểm của các em. Tất cả, mặc dầu lúc đầu phải công nhận các em bị thua thiệt, nhưng dần dần các em khắc phục được, trong lớp các em thuộc vào hạng khá, kể cả môn toán hay khoa học. Và khi những người không tin và tiếp tục công kích, Ngài khẳng định:
Đó chỉ là vấn đề giáo dục mà thôi, và tôi tin tưởng vào sự khôn ngoan và khéo léo của những người mà tôi đã gửi các em cho họ, cũng như vào sức mạnh của việc cầu nguyện. Và rồi, bạn cho tôi hỏi: Các bạn nghĩ gì về điều này: tất cả các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ và Châu Phi, đều có một thời qua Pháp, qua Anh hoặc nước khác trong châu Âu cũ, lâu đời thấm nhuần Thiên Chúa giáo? Họ không trở về quê hương sao? Chẳng lẽ người Ki-tô hữu lại ngu muội hơn những người khác mà phần nhiều theo chủ nghĩa mác-xít, chính họ đã đào tạo lớp người lãnh tụ đó?

Đã đến lúc cần ý thức trách nhiệm của chúng ta, tin tưởng vào tác động của Phúc Âm, cũng như vào Con người. Thật là đơn giản, và đã đến lúc đón nhận một cách khôn ngoan những con người biết nhận ra giá trị của những điều học hỏi từ chúng ta.
Chỉ có những người đã chết – nhưng cũng có lớp người sống mà như đã chết – là nằm yên bất động; không còn rủi ro gì nữa. Phần chúng tôi… “chúng tôi muốn sống!”. Và lối sống nầy cũng giá trị không kém các lối sống khác.
Và một lần nữa, Đức cha kêu gọi các gia đình Pháp đón nhận thêm các trẻ em người Thượng :
Ngài viết cho ho : điều quan trọng và đáng công ờ đây không gì khác ngoài sự cứu rỗi của một dân tộc thông minh, tiến hóa, và đáng mến, dưới cái nhìn thế tục cũng như dưới khía cạnh siêu nhiên.

Đến Giáng sinh năm 1971, có khoảng một chục em được nhận nuôi theo kiểu nầy. Ngài bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các gia đình Pháp, nay đã trở thành bạn bè thân thiết của Ngài.
Nếu đẹp lòng Chúa, Ngài viết, xin cho chúng tôi thêm nhiều bạn bè cùng tầm cỡ nầy! Về phần các “con đỡ đầu”, chúng là niềm vui của chúng tôi dựa vào những khả năng tiềm tàng mà chúng tôi phát giác ra, qua sự thành công ở học đường, qua sự kiên trì trong đức tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một cái gì đó đã thay đổi, một cái gì đó chưa từng xảy ra, ở trên vùng đất Tây Nguyên mang truyền thống khép kín, không nhúc nhích từ nhiều thế kỷ.

Lúc bảy tuổi, Ngài ghi nhận, tâm lý của một đứa trẻ đã thực sự được in khắc sâu đậm. Không có chủng tộc nào thua kém chủng tộc nào cả. Chính giáo dục đào tạo con người; nếu từ nhỏ chúng ta cung cấp cho đứa trẻ tất cả mọi phương tiện giáo dục, y hệt như những phương tiện dành cho các trẻ em nhiều may mắn thuộc tầng lớp giàu có, thì một thế hệ mới, một lớp người ưu tú mới sẽ phát sinh. Với một chút ít – hay đúng hơn, với nhiều! – sự tôn trọng và lòng yêu thương, với những phương pháp thông minh và đã được áp dụng hiệu quả, nhiều vấn đề về phát triển hoặc thích ứng của các dân tộc sẽ được giải quyết. Bao giờ ngân sách khổng lồ dành cho chiến tranh sẽ được sử dụng cho mục đích nhân đạo hơn?
Trên phương diện tôn giáo, “những giáo dân kỳ cựu” thuộc thế hệ thứ ba thứ tư, người Bahnar, hay nhất là người Sedang, đem lại cho các cha thừa sai nhiều phấn khởi vì lòng trung thành của họ, lòng sùng đạo và sự can đảm trong thời bách hại. Chỉ cần nhìn quang cảnh các thánh lễ ngày chủ nhật tại xứ cha Brice, cha Arnoult, cha Bình… chỉ kể chừng đó nơi thôi, cũng đủ thuyết phục bạn – thậm chí làm lòng bạn giao động.

Trong nghèo nàn, nguy hiểm và khốn cùng, nhiều lúc đói khát – Đức cha ghi nhận – dân tộc nầy giữ và sống đức tin. Sẽ là một khám phá kỳ diệu biết bao cho chúng ta, khi mọi sự sẽ được tỏ bày trong Ngày phán xét của Chúa! Chính chúng ta đã một phần được chứng kiến sự kỳ diệu của Thiên Chúa, và được khích lệ.
Còn nữa: các vùng rộng lớn và đông dân cư, như vùng của sắc tộc Jarai, thuộc hai tỉnh Plei-Ku và Cheo-Reo, được chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có. Ngày xưa, hầu hết mọi nỗ lực truyền giáo đều thất bại; ngày nay, chính dân Jarai xin Đức Giám mục gởi các cha thừa sai đến cho họ.
Đúng vậy, vùng núi rừng đang chuyển mình, mặc dù – hay hoặc vì – đã phải chịu bao nhiêu đau khổ. Không gì có thể cản trở được tác động của Chúa Thánh Thần. Và cuối cùng thì chính Người sẽ toàn thắng. Người là Thánh Thần của Tình yêu!
Đó là niềm hy vọng cuả chúng tôi. Chúa đang thực hiện công trình của Ngài.

Bản tổng kết Giáo phận Kontum sau hai mươi năm mục vụ

Vào đầu thập niên 1970, Đức Cha Seitz nhìn nhận, mặc dù trong tình trạng chiến tranh và bị bách hại, các việc phi thường vẫn được thực hiện quanh Ngài, trong đại chủng viện và tiểu chủng viện, trong các giáo xứ, các trường học, cũng như các bệnh viện… nơi đã cứu sống nhiều sinh mạng, cả bên thù lẫn bên bạn, chưa kể các trẻ em :
Ngài nói: « Cách đây 20 năm, tỷ lệ tử vong của trẻ con Thượng là 75%. Hiện nay, trong vòng hoạt động của các bệnh viện, tỷ lệ nầy chỉ còn lại 15%. »
Tòa Giám mục gần đây đã được xây dựng lại, kiên cố hơn trước khi bị bom phá hư hại.

Khi không tự mình lái chiếc xe Land Rover đi thăm giáo phận mênh mông của Ngài, Đức Cha luôn sẵn lòng tiếp đón những ai muốn tới gặp Ngài và cửa phòng làm việc của Ngài luôn rộng mở. Ngài tiếp đón các đồng nghiệp Việt Nam hay các cha thừa sai, đồng thời cũng tiếp những khách vãng lai lưu lại qua đêm.
Hội Thừa sai Paris cũng có một ngôi nhà dành riêng cho các đồng nghiệp qua đường có nơi ăn, chốn ở và gởi lại các đồ đạc cá nhân không cần thiết tại địa sở. Khi không đi giúp mục vụ các nơi khác, cha Rannou ở tại đây, và đảm nhận việc dạy giáo lý nơi ký túc xá người Thượng cũng như đào tạo tâm linh cho các nữ tu Tiểu muội Bahnar.
Ở Tiểu chủng viện, nằm cách Tòa Giám mục vài chục thước, có hai trăm năm mươi chủng sinh theo học các lớp tiểu học và trung học để chuẩn bị làm linh mục, sau đó lên Đà Lạt hoàn tất chương trình học, rồi được gởi vào Đại Chủng Viện Saigon.

Trường Cuénot quy tụ một trăm ba mươi cậu bé ngưởi Thượng, được đào tạo trong thời gian bảy năm, để có trình độ làm giáo lý viên, giữ vai trò như một cha phó giáo dân nhằm phục vụ cộng đoàn nơi các quận lỵ miền núi. Tại đây có một nhà in xuất bản sách giáo khoa, kinh thánh, sách giáo lý và sinh ngữ cần thiết cho việc đào tạo học sinh và sự phát triển của trường.
Cư xá người Thượng nhận một trăm hai mươi cô gái trẻ từ các buôn làng để theo một khóa huấn luyện ba năm, do hội dòng các Nữ tu Bác Ái đảm trách; ngoài việc trau dồi kiến thức tôn giáo, các cô gái nầy còn được chỉ dẫn cách chăm lo căn bản cho gia đình, chăm sóc trẻ em, thêu,dệt: tất cả những điều giúp họ trở thành những «người chủ của gia đình» trong môi trường sống của họ, nơi họ sẽ có tầm ảnh hưởng và làm tấm gương sáng, khuyến khích sự thăng tiến về nhân bản và về đời sống Ki-tô hữu của cả một dân tộc.

Viện các Nữ tu Tiểu muội Bahnar, quen gọi là dòng “Ảnh vảy phép lạ”, được thành lập trước khi Đức Cha Sion qua đời một thời gian ngắn, ngài là vị tiền nhiệm của Đức Cha Seitz, hiện có tám mươi nữ tu. Sau một thời gian dài học tập dưới sự hướng dẫn của một Nữ tu dòng Bác Ái, họ lên đường đi phục vụ những anh em dân tộc. Họ có mặt ở Đăk Tô, ở Ngô-Trang là các nơi mà họ trông coi trường tiểu học, họ cũng làm việc ở bệnh viện trong vai trò y tá; nhiều chị đã đậu được các bằng cấp quốc gia, một số tốt nghiệp ở Hoa Kỳ. Họ giúp Nữ tu dòng Bác Ái phục vụ ở trại cùi hay làm giáo viên của Trường Đức Mẹ Hy vọng ở Kontum, nơi có 1.800 học sinh theo học.

Những thành quả nầy mang lại nhiều an ủi cho Đức Giám Mục giáo phận. Ngài chỉ biết ghi nhận công việc vĩ đại của ơn Chúa trên toàn giáo dân mà Ngài coi sóc. Có lẽ Ngài có quyền tự hào và hài lòng với thành quả nầy? Hoàn toàn không! Thay vì quay lại phía sau, Ngài lại dấn bước về phía trước và chỉ nhìn thấy còn bao nhiêu công việc lớn lao khác đang cần phải thực hiện. Vùng ngoại ô Kontum là mối bận tâm lớn của Ngài, vì dân số người Thượng gia tăng đáng kể trong những năm gần đây: hàng chục ngôi làng đã phải di tản về định cư ở đây – phải nói là cắm dùi thì đúng hơn – chung quanh thành phố, tạo nhiều khó khăn to lớn cho chính quyền và cho giáo phận về vấn đề an ninh, tiếp tế lương thực và cả về hoạt động tông đồ .
Và rồi, tại các vùng rừng núi, có cả làng ước ao được nhận biết Chúa Ki-tô. Họ họp lại, cùng nhau tự vệ chống lại Việt Cộng, họ khẩn khoản yêu cầu giáo lý viên, linh mục đến cử hành thánh lễ, loan báo Lời Chúa. Nhưng lại thiếu linh mục. Làm sao có thể dửng dưng được trước cảnh đau khổ nầy!..Trước lời van xin của các dân tộc khát khao tìm Chúa!
Như cha Bề trên vùng, Georges Dozance, viết:

Dường như với các bộ lạc sống rải rác trên vùng Cao nguyên, “giờ của Chúa” đã điểm: chắc hẳn phải đáp trả hết sức mình… và trông nhờ vào ơn Chúa, Đấng không phụ những kẻ tin vào Người. Phải cần gấp một nhóm thầy cô dạy giáo lý để phụ giúp cha Rannou ở huyện Mang-Yang đang lớn mạnh, phải cấp tốc dựng thêm vài căn nhà để có chỗ cho các dự tòng học đạo, và cần phải có một bệnh xá.

Cần phải… Cần phải… Các cha thừa sai với công việc nhiều ngập đầu, và chẳng những không còn hy vọng có một đội ngũ thừa sai khác tới thay thế, mà cả đến một vài cha trẻ đến tăng cường cũng không có. Khủng hoảng ơn gọi theo sau công đồng Vatican II ảnh hưởng sâu xa đến Hội Thừa sai Paris cũng như trong phần đông các chủng viện. Không kể đến thành phần bỏ cuộc… Nhưng Đức Cha Seitz vẫn nỗ lực phấn đấu hơn bao giờ hết, các linh mục trong giáo phận, dù Việt hay Pháp cũng vậy; các ngài đều giữ vững tinh thần, quyết tâm trung thành với ơn gọi và tiếp tục công việc, bất chấp rủi ro, sợ hãi, bấp bênh của ngày mai.

Rồi đây, ngày mai sẽ thật là kinh hoàng …

 

****************************************************

CHƯƠNG XI

 KONTUM THẤT THỦ (1972)

 

    Ngày 15 tháng 5 năm 1971, trong buổi tiếp kiến riêng Đức GiáoHoàng Phaolo VI, Đức Cha Seitz trao cho Đức Thánh Cha một “Bảnghi nhớ” để Đức Thánh Cha suy nghĩ:

    “Kontum, địa phận đang chịu thử thách vì chiến cuộc, ghi nhận những tổn thất về nhân sự như sau: 23 người bị giết, 32 người bị thương nặng hoặc què cụt, 27 người bị Việt Cộng bắt làm tù binh; 33 giáo xứ bị xóa sổ hoàn toàn và giáo dân tản mác khắp nơi.”

    Cuối buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha chia sẻ sự đau đớn và niềm tin tưởng của Ngài: 

    “Đức Cha hãy chuyển lời cho các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên và giáo dân của Đức Cha rằng Ta biết và cảm thông trọn vẹn với nỗi khốn khổ, những thử thách và lòng trung thành của họ trong bổn phận và đức tin; với tất cả tấm lòng của vị Cha Chung, Ta chia sẻ biết bao cơ cực mà họ phải gánh chịu; Ta cảm phục họ, toàn thể Giáo hội cảm phục họ trong vai trò chứng nhân mà họ đang thể hiện, xứng đáng với những buổi đầu của Ki–tô Giáo;Ta không ngừng cầu nguyện cho họ. Phải, nguyện xin Thiên Chúa ban cho họ ơn bình an – một sự bình an chân thật cho đất nước Việt Nam thân yêu mà Ta đang đặc biệt quan tâm. Sau cùng hãy nói với họ rằng Ta khuyến khích họ kiên trì trong niềm hy vọng: Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi những ai tín thác vào Ngài.”

    Một năm sau, vị Giám Mục Kontum lẽ ra đã có thể bổ sung vào bảng tổng kết của mình: 192 xứ đạo bị phá hủy với 45.000 người tỵ nạn. Ngay Kontum cũng đã bị bao vây và dội bom như năm 1968, mất một nửa sau đó được tái chiếm. Cái chết của chủ tịch Bắc Việt, nhà cách mạng cộng sản Hồ Chí Minh, ngày 3 tháng 9 năm 1969 (thực tế Hồ Chí Minh chết lúc 9h47 ngày 2/9/1969-ND), đã không làm thay đổi quyết tâm của Việt cộng xâm chiếm miền Nam Cộng hòa: các cuộc đàm phán, hiệp ước và thỏa thuận giữa các chính phủ Mỹ, Trung quốc và Việt cộng đã không ngăn cản các cuộc thâm nhập dọc theo con đường mòn nổi tiếng mang tên cựu chủ tịch, trong khi lực lượng viễn chinh Mỹ rút lui.

    Ngày 30 tháng 3 năm 1972, thứ năm Tuần thánh, các lực lượng cộng quân Hà Nội, chẳng cần tuyên bố chiến tranh và cho dù các thỏa thuận đã được ký kết tại Genève, tấn công lần thứ ba phía nam vĩ tuyến 17. Mục đích của G.R.P – Chính phủ Cách mạng Lâm thời – do tướng Giáp, tên tướng khét tiếng chỉ huy, là lợi dụng cuộc rút quân của Hoa Kỳ và sự hao mòn của lực lượng Miền Nam nhằm xâm chiếm lãnh thổ một cách có hệ thống. Lực lượng này tiến hành một cuộc tấn công toàn diện : hỏa tiễn, xe tăng, pháo binh đến từ Liên xô; các vũ khí nhẹ, xe tải và lao công do Trung cộng cung cấp.

    Chỉ trong vài tuần lễ, sau những trận đánh gây thương vong khủng khiếp và những cuộc ám sát các sĩ quan quân đội, các nhân sĩ và chính khách không đồng tình với mục tiêu thống trị của họ, cộng sản chiếm đóng toàn khu vực phía bắc của Việt Nam Cộng hòa. Tiếp đó, chúng tràn vào vùng Tây nguyên và tiến về hướng Pleiku và Kontum, tiến tới đâu, chúng lập nên chính quyền của chúng, bắt nhốt tù tất cả các phần tử chống đối trong các trại cải tạo. Dân chúng, khiếp sợ, chạy trốn hoặc chấp nhận sự thay đổi bằng cách giả bộ tùng phục qui hàng; các cán bộ nằm vùng địa phương, được tẩy não hoàn hảo, làm cho tình hình càngthêm rối ren .

    Lực lượng Nam Việt Nam chẳng thể đủ sức để chống lại một cuộc tấn công qui mô như thế trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên, lực lượng không quân Mỹ, theo lệnh của Tổng thống Nixon, bắt đầu lại kế hoạch dội bom mà họ đã dừng từ năm 1968, và chỉ trong vài tháng, gần 850.000 tấn bom được ném xuống các trung tâm đầu não của Miền Bắc Việt Nam. Thành phố Hà Nội thân yêu mà Cha Seitz đã rời bỏ cách nay 20 năm, cũng lại tiếp tục bị bom cày nát tan hoang, với hàng ngàn người chết, nhưng vẫn không khiến cho G.R.P giảm đi cơn sóng thần thảmkhốc . 

    Bây giờ lại đến phiên thành phố Kontum thân thương của Ngài, một lần nữa hứng chịu những tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Trong đêm 21 rạng ngày 22 tháng 4 năm 1972, Việt Cộng tấn công Giáo xứ Dak Chu, cách Kontum chỉ mấy cây số về phía bắc.

     Đức Cha Seitz vội vã rời Sài Gòn, nơi Ngài đang đến thăm giáo dân tỵ nạn của mình ở đó; vừa đáp xuống phi trường Kontum, máy bay bị pháo kích: một cô tiếp viên chết, nhiều người bị thương. Trục giao thông độc nhất Kontum-Pleiku bị Việt Cộng cắt đứt, xe tăng của chúng ngang nhiên tuần hành. Vị Giám mục quyết tâm sống ở giữa đoàn chiên của mình, mặc cho chuyện gì sẽ xảy ra, nhằm khích lệ tinh thần và tăng thêm lòng can đảm nơi mọi người bằng niềm tin vào Chúa Quan Phòng, vượt qua nỗi sợ hãi dưới làn đạn của kẻ thù, dường như không muốn để tâm tới những hiểm nguy mà Ngài có thể đối mặt mọi nơi mọi lúc: nếusự sợ hãi hay lây, thì lòng can đảm càng lây mãnh liệt hơn. Ngày lễ Thăng Thiên, Ngài dâng thánh lễ ngay trên tiền sảnh Nhà thờ Chính Tòa trước sự hiện diện đông đảo của 4 đến 5 ngàn tín hữu người Thượng. 

    Các cuộc mưu sát vẫn tiếp tục trên các trục đường lộ. Liệu người ta có thể dùng cách gọi nào khác thay cho tai nạn thảm khốc ngày 14 tháng 5 đã lấy mất sinh mạng của cha Thomann và làm trọng thươngcha Chastenet trên đường đi Banmêthuột: cả hai vị thừa sai lưu thông trên một chiếc xe tải nhỏ và tới một khúc cua gắt trên đoạn đường hẹp, các ngài đối đầu với 2 chiếc xe tải lớn vận chuyển gỗ tròn dừng bên cạnh nhau. Va chạm là không thể tránh khỏi, cabin xe bị nghiền nát. Cha Thomann cách đó 4 năm cũng đã trúng mìn. Người anh duy nhất của Ngài đã chết tại Dachau. Tất cả tín hữu khóc thương ngài và dân chúng thể hiện một sự thương tiếc vô bờ. Ông tỉnh trưởng yêu cầu tất cả các ban ngành sẵn sàng: gửi xe cứu thương và y tá tới, điều ngay một máy bay để chuyển cha Chastenet về Sài Gòn. Ông đích thân tới tham dự lễ an táng cha Thomann tại Nhà Thờ Chính Tòa Banmêthuột mới, cùng với sự hiện diện của phu nhân, người đã túc trực cạnh cha Chastenet một phần đêm hôm đó. Khi người ta đến để cám ơn vị Tỉnh trưởng – một người không công giáo – vị này chỉ trả lời đơn giản:  

    “Thưa Cha, con chỉ làm bổn phận của con; đất nước con mang nặng nợ đối với các vị linh mục này là những người đã bỏ tất cả để đến giúp chúng con một cách vô vị lợi. Chúng con chỉ thể hiện lòng biết ơn đối với các ngài.” 

Thư mục vụ ngày 14 tháng 5 năm 1972

     Dưới những trận mưa bom không ngừng nghỉ, Đức Cha Seitz vẫn dành thời gian để viết một Lá Thư mục vụ gửi cho các linh mục và giáo dân của Ngài, lá thư được chuyền tay nhau, truyền miệng nhau, và sẽ tăng thêm sinh lực cho cả phần hồn lẫn phần xác:

    “Anh chị em rất thân mến, Kontum bị đe dọa, Kontum lo sợ. Thật thế, người ta có thể e ngại điều tồi tệ nhất, và chúng ta chẳng có gì nhiều nơi con người để cậy trông nữa!

    Thế nhưng, chính lúc tất cả dường như bị mất đi như thế mà chúng ta phải tiếp tục “hy vọng ngược với mọi hy vọng”, bởi lẽ, vượt lên trên con người, còn có Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chủ của lịch sử, Ngài có thể làm thay đổi mọi kế hoạch và dự tính của con người. Chúng ta đang sống trong sự buồn bã và lo sợ như Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani; vậy thì giống như Ngài, chúng ta phải cầu nguyện nhiều với lòng tin mạnh mẽ và kiên vững hơn nữa: Chúa sẽ nghe tiếng kêu xin của chúng ta, lời cầu nguyện của chúng ta! Hơn nữa chúng ta không đơn độc: một cộng đoàn đông đảo đang cầu nguyện thay cho chúng ta….

     Một ngày kia, tiên tri Êlisa bị nhiều kẻ thù bao vây trong thành phố nhỏ Dotan. Người đầy tớ của ông khiếp sợ kêu lên: “Ôi, Ngài ơi, chúng ta tính sao đây?”. Êlisa đáp: “Đừng lo, phe mình đông hơn phe chúng mà”. Và ông cầu nguyện rằng: “Lạy Đức Chúa, xin mở mắt cho nó thấy!”. Đức Chúa liền mở mắt người đầy tớ của ông ra và nó thấy núi đầy những ngựa và xe đỏ như lửa vây quanh bảo vệ ông Êlisa [1] 

     Anh chị em rất thân mến, tôi mời gọi anh chị em, giống như thời của vị Tiên tri, mở mắt ra mà xem. Thật vậy, Địa phận truyền giáo Kontum đang đón nhận đông đảo bạn bè thân hữu cùng những tiếng nói đầy quyền uy đang cầu nguyện cho chúng ta, cùng với chúng ta; trong đó: Thánh Stêphano Cuenot, tử đạo, đấng sáng lập Địa phận; các vị thừa sai tiên khởi cùng với Thầy Sáu Do; tất cả những người từ 120 năm nay, đã cầu nguyện, đã chịu đau khổ, đã hiến mạng sống mình cho giáo phận này; và bảy mươi hai linh mục của Hội Thừa Sai, Việt Nam và Thượng, mà phần đông đang yên nghỉ trong nghĩa trang bé nhỏ trên đường Nguyễn Huệ.” 

    Vị Giám mục tiếp tục nhắc đến tất cả các vị bảo vệ trên Thiên quốc và những tâm hồn đạo đức, trên toàn thế giới, biết đến những khốn khổtại Việt Nam và đang cầu nguyện.

    “Và rồi, anh chị em hãy nhớ chúng ta đang ở trong tháng 5, tháng của Đức Maria; đừng quên rằng Địa phận truyền giáo Kontum, đã được Đức Cha Jean Sion dâng kính cách riêng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ Maria từ ngày 15 tháng 12 năm 1943, và việc dâng kính đó đã được lặp lại nhiều năm sau đó, và một chút nữa đây sẽ được lặp lại. Thật thế, chẳng phải là uổng công vô ích, vì tất cả các tín hữu người Thượng và người Kinh ngày xưa đã nhận thức rõ điều đó: đã bao lần năm xưa, Kontum được Mẹ chở che khỏi cơn nguy khốn ! (…).  

    Tin tưởng và cậy trông vào sự bảo vệ che chở đầy quyền năng của Đức Trinh Nữ Maria đối với thành phố Kontum của chúng ta và toàn thể địa phận, hôm nay đây, tôi nghĩ đến việc mời gọi tất cả anh em, cùng với tôi, giám mục của anh em và cùng với tất cả các linh mục long trọng khấn hứa: nếu Kontum thoát khỏi đổ nát, thoát khỏi cái chết, khỏi mối hiểm nguy mất đức tin, chúng ta cam kết thực hiện lời khấn hứa rằng khi hòa bình trở lại, chúng ta sẽ xây dựng, bằng chính đôi bàn tay của mình, bằng mồ hôi, bằng nguồn lực của chúng ta, hai khu nhà ở cho người nghèo, cho những người nghèo khổ nhất, không phân biệt tôn giáo, mỗi khu như vậy gồm năm mươi căn nhà: một cho người Thượng, một cho người Kinh. Mỗi khu nhà này sẽ được dâng hiến cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta, và sẽ mang tước hiệu của Mẹ. Lời khấn hứa này sẽ tồn tại cho đến khi khu nhà được xây dựng xong và trao tặng cho những người nghèo khó nhất.” 

    Giám mục và các linh mục của anh chị em, cùng với biết bao nhiêu những tu sĩ nam và nữ đầy lòng can đảm, những giáo lý viên đáng thán phục, những tông đồ tình nguyện, cùng chia sẻ với tất cả và mỗi người trong anh chị em không chỉ nỗi lo sợ trong những ngày sống bấp bênh này, mà còn, và nhất là lời cầu nguyện và niềm hy vọng đang mang thêm sinh lực và niềm an ủi cho mỗi trái tim của chúng ta. 

    Tự tận sâu thẳm đáy lòng, tôi ban phúc lành cho tất cả anh chị em trong Chúa Ki–tô, Đấng giải thoát chúng ta.  

    Kontum, ngày lễ Thăng Thiên, 14 tháng 5 năm 1972.”

Một sự yên tĩnh tạm thời

    Việc công bố lời khấn hứa này đã không vô ích. Một lần nữa, Đức Cha Seitz lại thoát khỏi điều tồi tệ nhất, và Kontum cũng thế, nhưng chịu biết bao đổ nát!..

    “Tôi luôn cảm giác rằng mình sẽ bình an vô sự khi thoát ra khỏi cuộc mạo hiểm mới đầy bi thảm của Kontum…  Ngài viết như vậy một tháng sau đó, và cho đến bây giờ, biến cố xảy ra đã xác thực cảm nhận này. “Mà đúng vậy, tôi đã thoát hiểm cách ngoạn mục….

    Kontum, không chỉ bị bao vây, dội bom nặng nề – sáu đến bảy trăm quả róc két hoặc đạn pháo mỗi 24 tiếng đồng hồ – Kontum còn bị Việt cộng chiếm giữ tới 50% diện tích trong khoảng 10 ngày. Và tôi nằm kẹt lại trong phần bị chiếm. Lần đầu, tôi đã phải bỏ rơi Tòa giám mục cho số phận: lần thứ hai, vào một buổi sáng mưa nhiều, tôi đã phải chạy như một con thỏ, V.C lọt vào trong khu vườn của nơi mà lúc đó tôi nghĩ là an toàn hơn, trong khi tôi lẻn qua cổng phía đối diện… Không có gì vẻ vang cả!!

     Báo chí địa phương lúc đó loan tin là tôi đã bị V.C bắt và giải đi; câu chuyện thật ra lại khác: lần thứ hai này, tôi đã chạy trốn vào được phần đất nhỏ nhoi còn lại do quân đội quốc gia trấn giữ.

    Tiếp sau đó là cuộc phản công của quân đội quốc gia để “tái chiếm” thành phố, theo mô hình cổ điển nhất của Mỹ đã trở nên qui tắc chung của các cuộc chiến tranh hiện đại: người ta đánh sập tất cả để đuổi kẻ thù ra khỏi đó. Trong chiến dịch đó, những dân thường – phụ nữ, trẻ em, người già – hoàn toàn xem như không có. Mặc kệ nếu họ nằm trên đường đi của sấm sét.

    “Ngay cả lực lượng “bạn”, cũng hành xử như đang trên phần đất của kẻ thù: cướp phá, đập bỏ, phá hủy. Trăm cơn bão cũng sẽ chẳng tàn phá được như thế trên phần đất tái chiếm. Từ hơn một tuần lễ nay, tất cả phần đất đã mất được thu hồi xong: không còn một lính V. C nào trong thành phố, và ngày qua ngày, người ta thấy vòng vây an ninh được mở rộng ra. Máy bay đã có thể sử dụng lại phi trường: việc tiếp tế trở lại bình thường.

    Cuộc sống thường ngày trở lại: nhưng trong một  bãi đất đổ nát còn bốc khói với nhiều kẻ than khóc người thân đã chết hoặc bị thương. Trong khoảng từ mồng một tháng năm cho đến những ngày này, người ta ước tính có đến 6.000 người, phía chính phủ, đã bị loại khỏi cuộc chiến: điều đó nói lên cường độ không thương tiếc của cuộc chiến này. Về các tổn thất của V. C., chỉ Thiên Chúa mới biết tới mức độ nào… Tất cả những gì tôi biết được, chính là sự kinh hãi khi thấy những vùng tan hoang ngay cận kề Kontum, từ trên trực thăng đưa tôi về Pleiku: qua đó tôi biết thế nào là một khung cảnh trên mặt trăng…

     “Cuộc chiến ở Kontum đã chấm dứt chăng? Tiếc thay, không! Người ta bảo họ rút phần lớn lực lượng để chuyển đi nơi khác; nhưng thật ra, chúng tôi vẫn sống dưới sự đe dọa của đạn pháo kích, chúng bắn bất cứ nơi đâu, không cần biết đó là mục tiêu quân sự hay dân sự. Mới hôm qua, ngay trước khi tôi đáp máy bay đi, khu đất mà máy bay tôi sẽ cất cánh đã bị chúng nhắm bắn, nhưng không trúng đích, mà lại bay lạc vào ngay trong thành phố. Điều đó phá hỏng sự tự hào của những thànhquả quân sự. 

    Riêng đối với Địa phận…. từ 50 đến 60% kết quả của 20 năm tiết kiệm và kiên trì làm việc đã bị ném xuống đất. Dầu sao cũng còn tự an ủi là vẫn có từ 40 đến 50% đứng vững.

    Chúng ta sẽ bắt đầu lại, đơn giản thế thôi. (…). 

    Tôi nhận được tin tức từ các linh mục và các nữ tu đang sống trong vùng V.C chiếm đóng, phía bắc địa phận, từ khi bắt đầu chiến dịch. Không có gì phấn khởi: chỉ duy nhất một người mà chúng tôi vừa “nhận về”. Vị này đã sống hơn 40 ngày trong rừng, như một con vật, cùng với khoảng 150 giáo dân của ngài (trong số 3.500!). Cuối cùng họ cũng đã tới được Ben Het, một đồn lính giáp biên giới Lào vẫn còn cầm cự được, rồi được di tản về Plei Ku. Một linh mục người Kinh khác, tuyên úy quân đội, bị bắt làm tù binh chiến tranh. Bốn thừa sai Pháp bị “nhốt tù” đâu đó trong rừng, với một trong số họ bị lần này là lần thứ ba trong vòng hai mươi năm. Họ không còn trẻ nữa: khoảng năm mươi hết rồi. Tôi lo lắng cho sức khỏe của họ. Và khoảng hai mươi nữ tu cũng bị bắt đi – Chúa biết họ bị bắt đi đâu. 

    Và Đức Cha kết thúc lá thư như sau:

    Vậy đó! Tôi đặt niềm tin vào lời cầu nguyện của anh chị em. Mầu nhiệm “các thánh thông công” là một sự thật. Xin đừng ngoảnh mặt làm ngơ: chúng tôi đang cần tới sự giúp đỡ của anh chị em, chính sự trợ giúp này. Cám ơn anh chị em!”

    Tưởng chừng như chiến tranh và sức hủy diệt của nó, qua bốn mươi bốn ngày lửa đạn vẫn còn chưa đủ, nên một trận lụt ập đến, chỉ xảy rahai mươi năm một lần, tàn phá vùng trũng Kontum, mực nước ngập vào nhà tới hai mét, phá hủy một số khu vực trồng lúa còn sót lại, mang cát và sỏi phủ đầy tất cả khiến cho đất không còn có thể canh tác được nữa trong nhiều năm: chắc chắn sẽ thiếu ăn, bóng ma của nạn đói đã là thực tế đối với nhiều người dân rồi. Vị Giám Mục nghĩ sao về tai ương mới này?  Ngài nói:

    “Xét trên bình diện con người, đó là một thảm họa. Thế nhưng với con mắt đức tin, đó là một dấu chỉ của hy vọng, một lời hứa cho tương lai. Bởi lẽ từ đau khổ, Thiên Chúa, Đấng đã không tha chính Con Mình, đã đem lại sự sống. Những gì chúng ta đã trải qua chính là thông dự vào mầu nhiệm Cứu chuộc. “Đức Ki–tô đang chịu hấp hối cho đến tận thế”.

    Trong tháng năm, chúng ta đã nói: « Tin cậy ». Lúc này đây, khẩu hiệu của chúng ta là: « Sự Phục sinh ».”

    Ngài phấn khởi truyền đạt tiếp :

    “Việc đầu tiên: hãy cho những ai đang đói của ăn. Hơn thế nữa, hãy cho họ một công việc được trả lương và xứng đáng. Đó là điều chúng ta đã làm khi giao ngay một vài công trường để dọn dẹp, thậm chí là thực hiện trùng tu sơ bộ.

    Đối với ai chỉ trích cho rằng: “Sẽ là tốt hơn nếu chúng ta chờ cho đến khi hòa bình chắc chắn trở lại”, chúng ta sẽ phản biện: “Không gì làm mất phẩm giá người khốn khổ hơn là cho họ ăn không giữa những mớ hỗn độn và bẩn thỉu”. Như vậy, chúng ta hãy bắt tay vào việc, trong niềm hy vọng vào sự phục sinh, một sự phục sinh mà chúng ta sẽ không ngồi chờ, nhưng sẽ thực thi mỗi ngày với sự trợ giúp của Thiên Chúa.” 

    Và như thế, Tòa Giám Mục sẽ trả lương cho hơn hai trăm người làm, nhờ vào sự trợ giúp của các ân nhân, điều này bảo đảm sự sống còn của cả ngàn người. Đốc công, trong trường hợp này, chính là cha André Rannou, người mà, theo vị Giám mục, “với cả tấm lòng, lương tri, được bạn bè khắp nơi giúp đỡ, trong đó có các nữ tu người Bahnar, là hình ảnh của Đức Ki–tô đầy cảm thương giữa đám đông”. Và thế là mỗi sáng sớm, sau khi dâng thánh lễ, ngài tiếp đón tất cả những người đưa tay ra để nhận chút gạo. Tất cả, gạo trong tay, nhận được một lời an ủi, một tia hy vọng, và ra đi với nụ cười, phản ảnh nụ cười của vị thừa sai.

    “Và đó là một sự thi đua đích thực giữa những người phụ trách coi sóc dân tỵ nạn, và lúc này con số đã lên tới ba mươi ngàn. Chúng tôi lập bản vẽ của một trăm căn nhà đã hứa cho người nghèo. Các tòa nhà của tiểu chủng viện, bị hư hỏng nặng, chắc sẽ phải cần đến một năm để sửa chữa.”

    Ngày 27 tháng 8, ngày hồng ân, bốn cha thừa sai là cha Dujon, Arnould, Brice và Carat, và cả ba nữ tu, trong đó có hai nữ tu người Bahnar, bất ngờ về tới, sau khi được Việt Cộng trả tự do. Các ngài trông ốm yếu, kiệt lực, nhưng đầy sức sống và rạng ngời niềm vui, một niềm vui lớn lao mà cả Địa phận cùng chia sẻ. Bốn tháng trong rừng! Với cha Dujon, đó là lần thứ ba ngài bị bắt tại Việt Nam; riêng cha Carat, ngài đã biết đến các trại tập trung ở Đức. Niềm vui của Đức Cha Seitz và các đồng sự, cũng như của nhiều giáo dân người Thượng vì họ đã nhanh chóng nhận được tin mừng.

    Không trì hoãn, cha Dujon và cha Brice quay về lại vùng Cao Nguyên, tìm kiếm và nỗ lực qui tụ lại những giáo dân người Thượng thân yêu của các ngài. Chắc hẳn những người Thượng nầy phải thật làdễ thương dễ mến.

[1] Sách các Vua quyển thứ 2, chương 6.

 ********************************************************

Chương XII

Tìm kiếm một nền hòa bình không thể có
(1972-1975)

Hòa bình!… Từ biết bao năm nay, người Việt và nhất là người Thượng, đã khát vọng hòa bình! Suốt hai mươi năm, kể từ khi Đức Cha Seitz là chủ chăn của họ, Ngài đã chỉ biết có chiến tranh, với biết bao nhiêu người chết và bị thương, với các khổ đau, tang tóc, với bao đổ nát và tái thiết lại. Nhưng cũng có các nghĩa cử anh hùng, những người trở lại đạo ngày càng nhiều hơn, mà các cuộc bách hại chỉ làm tăng thêm mà thôi.

Thiên Chúa biết rút tỉa sự lành từ sự dữ, và Đức Cha biết chia sẻ niềm hy vọng của Ngài và làm nó lớn mạnh hơn nữa: niềm hy vọng là đề tài được Đức Cha lập đi lập lại trong mọi lá thư, trong các buổi nói chuyện và các bài giảng của Ngài. Ngài không bao giờ nhìn về đàng sau, nhưng luôn luôn hướng tới phía trước, xác tín Thiên Chúa che chở và quan phòng trên Ngài và trên các con chiên của Ngài, mặc cho các thử thách, mà Ngài còn xem như suối nguồn của ơn thánh. Tâm hồn Ngài sống trong an bình và tươi vui: an bình là ”sự điềm tĩnh của trật tự”; tươi vui là “hoa trái của lòng bác ái”.

Tuy nhiên, cuộc xung đột tại Việt Nam vượt ra ngoài biên giới quốc gia, và sẽ chỉ tìm thấy được giải pháp trong bối cảnh của các quan hệ quốc tế. Hoa Kỳ phải đối thoại với Trung Quốc và kết bạn với Liên Xô, như ông M. Kissinger, người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ chủ trương. Và thế là tổng thống Nixon sang thăm Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa: ba cường quốc đều muốn kết thúc cuộc xung đột vô ích và tàn phá này. Họ đi đến một thỏa hiệp – lại thêm một thỏa hiệp nữa… – và ngày 27 tháng giêng năm 1973 lệnh ngưng chiến được công bố: đối đầu từ bình diện quân sự bước sang bình diện chính trị.

Nhưng điều này có nghĩa gì đối với miền Nam Việt Nam, bị các nhóm quân cộng sản miền Bắc tấn công với mục đích duy nhất là thống nhất toàn đất nước, đương nhiên chỉ có lợi cho họ? Trở về nước sau mười bảy năm lưu vong, Hoàng đế Bảo Đại cổ võ sự thống nhất quốc gia, bằng cách kêu gọi hòa giải là điều mà đa số thầm lặng mong ước. Thật ra, người dân trông thấy “cái bóng kinh hoàng của hòa bình” lan rộng – theo kiểu nói của một trong các vị lãnh đạo – và coi cuộc ngưng bắn như “một tấm da beo”: một bản đồ mầu vàng lớn điểm đầy các chấm đen diễn tả các nơi chiếm đóng của lực lượng việt cộng rải rác khắp nơi trong nước.

Quả thế, chính quyền Sài Gòn của tổng thống Thiệu không còn có cách nào loại trừ các người cộng sản và phải giàn xếp với họ, như với Mặt Trận Giải Phóng, Chính Quyền Cách Mạng Lâm Thời, nhưng cả với các khuynh hướng khác nhau của miền Nam, từ cực hữu sang cực tả, “ lực lượng thứ ba”, để thảo luận và đưa ra các biện pháp nhân đạo, xã hội, kinh tế và chính trị, theo thỏa hiệp ngày 27 tháng giêng. Ông Kissinger loan báo rằng Hoa Kỳ không chống lại việc tái thống nhất hòa bình của Việt Nam, trong khi các Giám Mục tuyên bố rằng

người công giáo chỉ miễn cưỡng chấp nhận việc phân chia Việt Nam như một sự kiện lịch sử, mà về lâu về dài Lịch Sử sẽ phải giải quyết một cách chính trị và dân chủ.
Nhưng chủ nghĩa cộng sản sẽ giải quyết nó một cách mau chóng – mà không tôn trọng chính trị – lại càng không tôn trọng dân chủ. Và các Giám Mục sẽ gánh chịu các hậu quả cùng với các linh mục và tín hữu của mình.

Du hành Hoa Kỳ và Pháp

Đức Cha Seitz không quên các bọn trẻ, đã được Ngài tín thác cho các gia đình bên Pháp, và Ngài không từ bỏ dự định sang nhận định tại chỗ sự tiến bộ của chúng. Sau cùng Đức Cha đã thực hiện được chuyến viếng thăm vào tháng 12 năm 1973. Tạt sang Hoa Kỳ, nơi Đức Cha hy vọng quyên góp các trợ giúp cho hàng ngàn người tỵ nạn, sau cùng Ngài tới Pháp để cử hành lễ Giáng Sinh của Hoàng Tử Hòa Bình, trong một sự yên tĩnh, mà Ngài đã không được biết đến từ bao năm qua. Đức Cha đã có được một sự nghỉ ngơi rất xứng đáng, thăm bà chị tại Normandie, viếng mộ song thân, và nhất là tìm lại các con cái thân yêu của vùng Cao Nguyên sống rải rác tại Ile-de-France, Picardie và các nơi khác. Thật là vui sướng và an ủi biết bao, khi Ngài thấy chúng tiến triển, khỏe mạnh, cũng như tìm được bầu khí Ki-tô giáo trong các gia đình quảng đại nhận nuôi chúng như chính con cái họ, cung cấp cho chúng mọi trợ giúp về việc giáo dục và việc đào tạo Ki-tô giáo, nhân bản, học vấn, xã hội, với sự khéo léo, dịu hiền, và ngay cả cứng rắn khi cần.

Đức Cha Seitz không dấu các em là sau khi học xong, có nghề nghiệp rồi, việc trở về quê hương của các em sẽ cam go, mặc dù có niềm vui gặp lại cha mẹ và gia đình – niềm vui lớn biết bao từ hai phía – vì các em sẽ phải chia sẻ cảnh sống nghèo túng bần cùng của dân tộc mình; nhưng bây giờ các em biết thế nào là công việc, làm sao để thành công hầu có được một cuộc sống liêm chính và trở thành tầng lớp Ki-tô giáo ưu tú, mà nước Việt Nam đang cần có để tái thiết trên bình diện nhân bản, tinh thần và vật chất.

Ngập đầu bởi nhiều cuộc hẹn lo công chuyện, gặp gỡ với các giới chức dân sự và tôn giáo, viếng thăm các ân nhân tương lai, ba tháng mà Đức Cha tự ban cho mình tại quê nhà qua đi nhanh chóng; Ngài chẳng được nghỉ ngơi chút nào. Nhưng có bao giờ người ta thấy Đức Cha Seitz nghỉ ngơi đâu?…

Đức Cha nôn nóng trở về đất nước quê hương thứ hai của Ngài. Hơn nữa bầu khí buồn nôn Ngài đã cảm nhận được tại Pháp trong các năm hậu 1968 làm cho Ngài không muốn mình bị lún sâu trong bùn. Đức Cha trở lại Kontum ngày 23 tháng ba năm 1974. Kontum luôn bị đe dọa, luôn là mối tranh giành của các lực lượng cách mạng theo đuổi các cuộc xâm nhập ban đêm và các vụ đánh bom gây chết chóc. Và điều đó cứ xảy ra mặc cho các thỏa hiệp Paris.

Tháng 3 năm 1975 tiếng kèn cáo chung

Các biến cố xảy ra dồn dập. Bằng nhiều làn sóng dữ dội, Việt cộng lại đổ quân tràn xuống phía nam vĩ tuyến 17, trong khi các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị đè bẹp bởi quân số, tuy chống trả anh dũng, nhưng phải rút lui. Như luôn xảy ra trong trường hợp này, là cảnh hỗn độn, cảnh người chạy trốn, kể cả những kẻ đào ngũ; nhưng điều này cũng xảy ra ngay ở phía bên kia. Dân chúng trốn về các thành phố, chẳng bao lâu bị bao vây; tuyệt nhất là họ tìm đường trốn ra biển với hy vọng kiếm được tàu thuyền để bỏ nước ra đi. Các tầu Mỹ cuối cùng còn trong các hải cảng mau chóng bị quá tải; các ghe độc mộc, thuyền, bè vá víu chở đầy người ùa ra biển, tiến ra khơi, mà không có các phương tiện hải hành, không thực phẩm, không biết gió thổi về đâu. Có người sẽ được tầu vớt, nhưng có biết bao người trong số các thuyền nhân nầy sẽ chết mà không để lại dấu vết gì, làm mồi cho cướp biển hay cá mập, đầy dẫy trong các làn sóng biển này! Trên đất liền là cảnh tháo chạy, hoảng loạn, cảnh tàn sát đối với những người còn thử chống cự.

Thành phố Huế nơi 80 phần trăm dân số đã bỏ đi, rơi vào tay Chính quyền Cách mạng Lâm thời, rồi tới phiên Đà Nẵng. Kontum bị bao vây và không còn các phương tiện để chống cự, vì quân đội chính quy đã rút lui, lấy cớ cho việc bảo vệ hậu cần… Người ta ngượng ngùng nói đó là việc “rút lui chiến thuật nhằm tổ chức phản công tốt hơn”!

Đức Cha Seitz đã ở lại chỗ của Ngài và chỉ liều mạng di chuyển đến cứu giúp các linh mục và giáo dân của Ngài đang gặp nguy hiểm. “Liều mạng mỗi tuần một lần không phải là anh hùng, mà là vệ sinh tinh thần” Ngài đã nói như thế với một nhà báo ngần ngại không giám liều mình đi trên các con đường bị gài mìn. Đức Cha trợ giúp những người kiệt quệ, đưa cho các bà mẹ đang đói những phần gạo cuối cùng, săn sóc, chuyên chở, luôn luôn nói lời động viên khích lệ, kèm theo nụ cười trấn an.

Ngài là người luôn luôn lạc quan. Vào cuối tháng hai Đức Cha còn ký hợp đồng xây một cư xá cho các sinh viên đại học người thượng tại Sài Gòn. Ngày mồng 7 tháng ba Ngài lại bay ra Đà Nẵng để giảng tĩnh tâm năm cho các linh mục. Nhưng ngày mồng 10 đài phát thanh loan tin Ban Mê Thuột đã bị tấn công trong đêm và trận đánh diễn ra khốc liệt. Thành phố này là một điểm chiến lược, và tướng Giáp coi chiến thắng sẽ thuộc về người làm chủ được Cao Nguyên, nơi thống lĩnh toàn vùng duyên hải miền Trung và đồng bằng miền Nam. Nếu nó thất thủ – và thật ra nó đã thất thủ rồi – thì ngày mai sẽ tới lượt Kontum.

Đức Cha bỏ các linh mục tĩnh tâm và tìm được một chuyến bay đáp xuống Pleiku, Ngài nhảy lên chiếc xe Mehari của ngài, trong khi đạn pháo nổ rền khắp sân bay. S au bốn mươi tám cây số đường không an toàn, Đức Cha tìm thấy thành phố của Ngài bị bỏ bom, một phần chủng viện trúng đạn, đạn pháo bao quanh một trường học với 200 học sinh nội trú. Ngài lập tức ra lệnh đóng cửa trường và cho các em về với gia đình – may ra các gia đình còn sống sót…

Ngài cho di tản tất cả các em yếu đuối nhất cho tới khi nào Ngài còn tìm được xe và các con đường có thể đi được. Ngày 15 tháng 3 toàn quân đội chính quy rời bỏ Kontum và di tản lính tráng, xe cộ và thiết giáp khỏi các đồn trú bảo vệ thành phố.
Kontum đã bị quân Pháp bỏ năm 1954; quân đội Mỹ bỏ năm 1969; và giờ đây quân đội chính quy của Việt Nam Cộng Hòa.
Kontum bỏ ngỏ cho chế độ cộng sản cực đoan nhất.

Tức thì, Đức Cha Seitz thấy nổi lên giữa dân chúng một cơn gió của sự kinh hoàng, hoảng loạn kinh dị; và thế là hàng ngàn và hàng chục ngàn người đã chạy loạn từ các làng trong rừng về thành phố tỵ nạn để tránh cuộc tàn sát, nay đổ xô ra đường chạy trốn theo các con lộ hướng về miền Nam hay đi ra biển, thà chịu sự bần cùng và cái chết còn hơn là làm nô lệ. Đó là cuộc tháo chạy trong một sự hỗn loạn không thể nào tả nổi của phụ nữ, trẻ em, người già, súc vật và xe cộ đủ loại. Chỉ trong vài giờ, từ ba chục ngàn dân Kontum cộng thêm hàng ngàn người Thượng tỵ nạn chỉ còn lại vài nhóm lẻ tẻ sợ sệt. Nhưng trong số những người khốn khổ bị bỏ rơi, các bệnh nhân hay các kẻ nghèo nhất giữa các người nghèo có Đức Giám Mục, mười ba linh mục địa phương và các nữ tu ở lại phục vụ.

Vào ngày 17 tháng ba, lần đầu tiên Đức Cha Seitz tiếp xúc trực tiếp với các bộ đội, lúc họ chỉa súng vào Ngài, trong khi Đức cha cùng vị thư ký đang đi tới một giáo xứ phụ cận để mong tìm lại cha xứ.
“Ông là ai?… Ông đi đâu?…” – Tôi là Giám Mục Kontum” – “A! Ngài chính là Cha Kim , Đức Cha Seitz?”

Vị chỉ huy bộ đội đưa tay ra bắt tay Ngài, và khi đó Đức Giám Mục nhận ra mình đang đứng trước tên chỉ huy nằm vùng, một người từ hai mươi năm qua đã tổ chức chiến tranh du kích, các vụ tấn công, đánh bom các làng mạc vùng Cao Nguyên cũng như tỉnh Kontum, và sát hại toàn thể giới lãnh đạo người Thượng. Cũng chính ông ta đã ra lệnh ám sát hai cha thừa sai năm 1960 và 1961, gài mìn các con đường, lối mòn khiến cho hai cha thừa sai khác bị thiệt mạng và nhiều nạn nhân khác nữa. Cũng chính ông đã bắt bảy cha thừa sai khác cùng mười một nữ tu của Đức Cha làm tù binh. Đức Cha cay đắng dò hỏi tin tức về họ, và Ngài lợi dụng dịp này để hỏi tên và cấp bậc của ông ta: nhưng tuyệt nhiên không có câu trả lời nào. Và khi Đức Cha muốn chào để đi, kẻ sát nhân trả lời với nụ cười tươi nhất: “Không thể được! Ông không được phép đi; sẽ rất nguy hiểm cho ông”. Và quả thực chẳng bao lâu sau đó Đức Cha được biết rằng nơi Ngài muốn đến tìm người anh em linh mục, đã xảy ra một vụ phục kích tiêu diệt toán đi sau cùng của đoàn quân miền Nam đang rút lui. Đại tá tỉnh trưởng, các sĩ quan và binh sĩ đều đã chết hoặc bị bắt làm tù binh; dân làng còn sống sót đã cùng với linh mục của họ chạy trốn vào rừng.

Đức Cha bị bộ đội canh giữ ở lại cho tới đêm, nhưng Ngài không quan tâm, vì đây là dịp cho phép Ngài quan sát những người đang giữ Ngài. Đức cha kinh ngạc bởi sự non trẻ của bộ đội, bởi các gương mặt sớm cứng cỏi và nghiêm khắc, xa cách và khép kín, bởi việc liên lỉ dậm chân cho người ta có cảm tưởng họ không đi nhưng nhảy nhót với một bước chân máy móc, nhẹ nhàng và mau lẹ. Đó là một bộ máy chiến tranh đã được tập luyện chu đáo. Tuy vậy, một trong các chú bộ đội dừng lại một lúc trước Đức Giám Mục, chăm chú nhìn Ngài và nói nhỏ: “Chính Ngài đã ban phép Thêm Sức cho con cách đây bốn năm, tại làng đó”. Rồi anh ta tiếp tục điệu nhảy của người máy. Tội nghiệp chú bé!… Nó đã rơi vào bẫy sập nào đây!

Chỉ vào sáng hôm sau, sau khi có được giấy phép hợp lệ, Đức Giám Mục mới có thể trở về Kontum và trấn an các linh mục và nhân viên của mình. Vì người ta đồn thổi rằng Ngài đã bị bắt làm tù binh không biết ở đâu – đây không phải là điều hoàn toàn sai. Được tuyên bố là “thành phố bỏ ngỏ” Kontum hoàn toàn ở trong tay Việt Cộng. Họ chiếm đóng các công sở mà không gây ra tổn thất nào. Chỉ khi đó người ta mới đau đớn nhận ra rằng có một số các công chức và nhân viên còn ở tại chỗ lại thuộc thành phần các người đã “nằm vùng” từ lâu và đã chuẩn bị việc thay thế. Con cái của bóng tối khôn ngoan hơn con cái của ánh sáng…

Đức Giám Mục sẽ lại cảm thấy con tim se thắt hơn nữa, khi Ngài tiếp ba linh mục người Việt của Giáo phận và thấy các vị bầy tỏ niềm vui rạng ngời trước tình hình mới, mà các vị đã mong đợi… Khi phân tích sâu rộng tình trạng của hàng giáo sĩ giáo phận, Đức Cha đã đưa ra nhận định sáng suốt và bác ái này, có thể so sánh với điều mà người ta biết trong các nước khác có cùng kinh nghiệm.

Trên 65 linh mục của giáo phận tôi, cách đây vài tháng có 5 vị tuyên bố ít nhiều rõ ràng có thiện cảm với chế độ mới. Họ thuộc nhóm nhỏ “cấp tiến” ủng hộ trận chiến chống tham nhũng “bằng bất cứ giá nào”. Họ thoả mãn khi thấy ước muốn của mình được thực hiện: “Giải phóng” đã đến. Nhưng ít nhất theo kinh nghiệm tôi có ở đây, cần phân biệt hai khuynh hướng nơi những người cấp tiến: một khuynh hướng thực sự mác xít, trong đó chính đầu óc bị lây nhiễm. Những người này, tương đối hiếm, sẵn sàng chấp nhận mọi thoả hiệp với chế độ. Còn khuynh hướng kia thì con tim hơn là trí thông minh bị nhiễm, và con tim làm đau đầu…”. Vì chủ nghĩa thực dụng thiển cận, họ xác tín rằng chế độ cộng sản là con đường quan phòng giúp thanh tẩy Giáo Hội và thúc đẩy giáo dân sống chân thực hơn. Nói cho cùng, chính tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân khiến cho họ đi đến lối ngụy biện này: “Sự hữu hiệu là một tiêu chuẩn giá trị; mà chế độ cộng sản hữu hiệu; vậy thì xin cho nước nó trị đến!”

Trong khuynh hướng này cũng như khuynh hướng kia, óc phán đoán đã bị đánh mất. Niềm tin vào sự hữu hiệu của lời Chúa, của lời cầu nguyện, của ơn thánh đã bị che mờ. Có thể là các bách hại và khổ đau khiến cho một số người tới gần Thiên Chúa. Nhưng từ đó lấy cuộc cách mạng này để khiến cho thời điểm tốt lành hơn mau tới, thì có một khoảng cách.

Tôi biết là không có linh mục nào của Kontum thuộc khuynh hướng thứ nhất. Các cha là những người quảng đại, tận tụy với nhiệm vụ truyền giáo của mình, từ nhiều tuần qua, vị này sau vị khác, đã thành thật trình bầy với tôi trước hết là các hy vọng, rồi tiếp đến là những thất vọng của các vị. Thật ra, hơn tất cả chúng tôi, các vị đã đau khổ và như tất cả chúng tôi, các vị đã bất lực nhìn thấy những kẻ các vị yêu thương đau khổ. Các vị đã sáng mắt ra. Và lạ lùng thay, sự thông đồng hăng say ban đầu của các vị đã chỉ khiến cho phe thắng trận khắt khe và kể cả khinh bỉ hơn đối với các vị .

Những huấn lệnh cho giáo dân, linh mục và nữ tu giáo phận.

 
Ngày 18 tháng 3, Đức Cha soạn thảo và phổ biến một cách nhanh chóng trong giáo phận các huấn lệnh sau đây:
Các đoàn quân cộng sản vừa vào thành phố. Đây là giờ số không của trật tự mới bắt đầu. Thái độ của chúng ta sẽ là đón tiếp biến cố như việc Chúa đi qua. Vậy: không sợ hãi, không đê hèn, không nản lòng.

“Sứ mệnh” của chúng ta tiếp tục: đó là đem sứ điệp của Chúa Ki-tô vào trong xã hội mới và cho chính những người có trách nhiệm. Vậy: giữ tinh thần và con tim cởi mở, trong lời cầu nguyện.
Chúng ta sẽ kiên trì tìm kiếm tiếp xúc trong một tinh thần “cộng tác”.
Ơn gọi của chúng ta bao gồm việc dấn thân trao ban chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân, cho tới tử đạo, nếu cần. Chúng ta phải sẵn sàng với mọi tình huống. Các ơn thánh cần thiết sẽ được ban cho chúng ta. Chúa đã hứa điều đó. Ngài là một Thiên Chúa trung thành.
Ai là thân nhân của tôi? Đó là mọi người, cho dù họ là ai, kể cả người sẽ là kẻ thù của tôi hay làm cho tôi đau khổ. Không có ai bị loại bỏ khỏi sự cứu rỗi.
Tôi có sẵn sàng kết hiệp các khổ đau và cái chết của tôi với các khổ đau và cái chết của Chúa Ki-tô cho ơn cứu rỗi của các anh em tôi không?
Không có khổ đau nào, không có cái chết nào là vô ích cả, cho dù bề ngoài có khốn nạn đến đâu đi nữa. Chúng là mầu nhiệm của Ơn Cứu Độ được tiếp tục trong thịt xác chúng ta. “Chúa Ki-tô hấp hối cho tới tận cùng các thế kỷ” (PASCAL).

Đã tới giờ chúng ta sống điều đó một cách sâu đậm hơn. Chúng ta đã sẵn sàng chưa?…
Trong thành phố, trước khi bộ đội chiếm đóng, các kho chứa và các cửa hàng đã bị cướp bóc bởi các người Thượng tỵ nạn không chạy trốn vì tin tưởng nơi các cha thừa sai bảo đảm sẽ che chở họ. Tất nhiên, các vị phải vãn hồi trật tự cho các vụ biển thủ này, và đứng ra phân chia cho họ số gạo dự trữ của chính các ngài.
Đã từ lâu, một nghi lễ ban phép Thêm Sức đã được dự kiến vào ngày 19 tháng ba. Một cách thản nhiên, Đức Cha đi đến nhà thờ Chính tòa trong bộ phẩm phục mầu tím. Một trăm người lãnh bí tích, gồm các trẻ em và người lớn, đã từ các vùng cao nguyên lẻn về thành phố. Họ được một đám đông tín hữu sốt sắng vây quanh và được tiếp đón với tất cả tình yêu thương của người Cha. Đức Cha kể:
Trong khi lễ nghi phụng vụ diễn ra, cây cầu đã bị không quân miền Nam oanh tạc. Tiếng bom nổ vang rền. Trong ngôi nhà thờ Chính tòa bé nhỏ bằng gỗ, mọi cửa đều đóng kín, tiếng hát và lời cầu nguyện át cả các tiếng nổ. Lễ nghi kết thúc, tín hữu xếp hàng đi rước ra ngoài trước đôi mắt kinh ngạc của các chú bộ đội. Đầu đội mũ, tay cầm gậy, tôi cho họ điều tôi có: đó là phép lành đầu tiên của tôi.

Và giờ đây những người thoát chết trở về, những người đã chạy trốn vào rừng, các người Thượng biết rằng Giám Mục của họ ở đó và chờ đợi để che chở và nuôi nấng họ. Các câu chuyện kể lại những gì họ đã trông thấy và trải nghiệm thật là hãi hùng và kinh khiếp, vượt qua mọi điều mà Lịch Sử đã biết tới. Đây không còn phải là các vụ tàn sát bằng gươm hay kiếm, như vào thời các vụ xâm lăng của quân Hồi giáo thời Trung Cổ, nhưng là bằng súng ba-dô-ka và đại liên bắn xối xả vào các đám đông dân chúng bị chặn trên các con đường hẹp hay bị dồn vào ngõ bí dọc bờ sông. Họ bị bắn hạ, tàn sát, và để chất đống tới thối rữa. Tội duy nhất của họ là đã chạy trốn chính quyền mới tới giải phóng họ.

Các người ngoại quốc đặc biệt được theo dõi bởi các ủy viên chính trị đi theo các đoàn quân. Ngoài chính Đức Cha và vài cha thừa sai ở lại bên cạnh Ngài, tại nhà thương của Giáo phận còn có hai bác sĩ là Edric Baker và George Cristian, một vị người Mỹ, vị kia là người Tân Tây Lan. Đức Cha muốn giữ họ và nài nỉ với vị chỉ huy bộ đội mà Ngài gặp lại – chẳng bao lâu Ngài biết rằng đó không ai khác là tướng Chương – vì lý do họ là những người duy nhất đang hoạt động trong toàn tỉnh.
Vị tướng bảo đảm với Đức Cha. Các bác sĩ có thể tiếp tục phục vụ. Lời của Việt cộng!… Bảy ngày sau, sau thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh quy tụ nhiều linh mục chung quanh Giám Mục, hai bác sĩ bị mời lên một xe díp. Người ta sẽ trông thấy họ sau đó trong đoàn tù binh gồm các sĩ quan miền Nam, các công chức, các thân hào nhân sĩ, đang di chuyển tới một trại cải tạo: Quần đảo Goulag. Trong nhà thương Minh Quý, mà Đức Cha vừa mới thăm, chỉ còn lại 19 nữ tu người Thượng, trong đó có 6 chị là y tá có bằng. Các chị đảm bảo túc trực nhà thương, mặc dù không còn bác sĩ nào cả: các chị chăm sóc điều trị cho hai trăm năm mươi bệnh nhân, và người bị thương nằm liệt giường, mỗi ngày các chị còn tiếp nhận khoảng 60 người tới khám bệnh.

Truyền chức cho một vị Giám Mục Phó với quyền kế vị.

Hình như lần đầu tiên xem ra Đức Giám Mục Kontum cảm thấy lo lắng. Nếu như hai bác sĩ làm một việc có lợi và hiển nhiên cho công ích, còn bị khéo léo bắt đi mà không hề báo trước như thế, thì cái số phận đó lại càng có thể đổ lên đầu các vị thừa sai và chính Giám Mục, hiển nhiên hữu ích của các vị ít hơn dưới con mắt của người cộng sản?… Và trong một thời hạn có lẽ không lâu nữa?…

Ngay lúc đó Đức Cha đưa ra một quyết định quan trọng. Do kinh nghiệm học được từ nước Nga và Trung Quốc, Tòa Thánh đã cho phép các Giám Mục Việt Nam quyền đặc biệt nhằm bảo đảm cho việc kế vị trong các quốc gia có bách hại. Đức Cha đến gặp cha Alexis Phạm Văn Lộc, một linh mục Việt nam mà Ngài hoàn toàn tin tưởng, và tuyên bố do các quyền được ban, nhân danh Đức Giáo Hoàng, Ngài kêu mời cha trở thành Giám Mục Phó với quyền kế vị trong tương lai. Ngài cho cha một giờ để suy nghĩ, cầu nguyện và trả lời. Câu trả lời dĩ nhiên là ưng thuận: một con người của lòng tin và bổn phận không thể từ chối một hy sinh như thế trong tình trạng hiện nay.

Ban chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh 27 tháng 3 năm 1975, sau lễ nghi rửa chân có sự tham dự đông đảo của tín hữu trong nhà thờ Chính tòa mà các bức tường bị rung động lần này bởi một cơn bão và một trận mưa như trút nước, Đức Cha Seitz báo cho tín hữu biết quyết định và sự lựa chọn của Ngài: vì tình hình hiện tại Ngài phải sẵn sàng đối với mọi tình huống và nghĩ tới việc chỉ định người kế vị.

Người ta cảm nhận được sự xúc động và lời cầu nguyện tha thiết trong bầu khí thinh lặng vô biên sau các lời loan báo của Đức Cha, và kéo dài suốt lễ nghi tấn phong giám mục, mà Đức Cha cử hành ngay sau đó trước sự sửng sốt của đám đông. Không thể có lựa chọn nào khác, Đức Cha Seitz không kém xúc động khi trao mũ, gậy và nhẫn giám mục của chính Ngài cho vị Giám Mục phó tương lai của Ngài. Nếu có cán bộ do thám hay ủy viên nhân dân nào đang ở đó tham dự, như vẫn thường xảy ra, thì chắc hẳn đã phải giữ lâu dài kỷ niệm cảm động về một lễ nghi như thế nhằm bảo đảm việc kế vị giám mục, dù từ nay trở đi người ta có thể làm bất cứ gì cho vị Giám Mục chủ phong đi nữa.

Chiều tối hôm đó Đức Cha Seitz thú nhận rằng Ngài cảm nhận được điều gì đó giống như niềm vui mạnh mẽ và thanh thản của Giáo Hội trong các thế kỷ đầu. Trong lễ Vọng Phục Sinh Đức Cha còn có niềm vui ban bí tích Rửa Tội và Thêm Sức cho các tân tòng: các tín hữu này biết rõ rằng trên bình diện nhân loại họ không được gì cả, nhưng lại đánh mất tất cả. Nhưng trong số đó có một người khốn khổ với gương mặt bị tàn phá vì đã mất mọi sự – vợ, con và nhà cửa, thì thầm với Đức Cha:
“Sau bóng tối của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, luôn luôn có Phục Sinh”. “ Đức Cha thầm nghĩ: Chỉ có con tim nghèo khó mới tiếp nhận được nỗi khốn khổ như thế: điều đó không học được trong sách vở.”

Chính phủ cách mạng được thành lập tại Kontum. Những người sống sót sau cuộc chạy loạn trở về lại thành phố. Và các cán bộ – ủy viên nhân dân – đã thay thế các bộ đội chiến đấu. Họ đưa ra một hệ thống kiểm soát rất nghiêm ngặt: chia thành các khu phố, các đường, các chung cư, mọi người đều phải công khai địa chỉ của mình và không có quyền rời nơi cư trú. Phải xin phép để di chuyển, kể cả việc đi gần hay đi làm vườn. Mọi người đều bị khai lý lịch cùng với tên và lý lịch của cha mẹ, nghề nghiệp v.v… Và tất cả đều bắt buộc phải tố cáo các người hàng xóm có thái độ không phù hợp với một công dân cách mạng tốt. Tai mắt dò xét hiện diện khắp nơi, và nụ cười tử tế của một cán bộ không báo trước được điều gì tốt đẹp cả.

Các giấy tờ, các phép tắc này không phải là để gây phiền hà cho quý vị, chắc chắn rồi, nhưng là để che chở quý vị!… Thật ra, đó là một hệ thống, một chiến thuật giáo dục quần chúng để họ khước từ mọi việc làm tự phát, mọi sáng kiến riêng tư. Khi vấp phải những trường hợp phải chờ ba ngày nơi văn phòng các khu phố để có được một giấy phép đi đường, để đi thăm một đứa con đau ốm tại nhà thương, người ta làm một lần hai lần…; nhưng rồi họ mau chóng hiểu ra rằng chính là cái “khuôn” phải hoạt động, chứ không phải chúng ta. Người ta ở trong một “cái khuôn mẫu”: nó suy nghĩ và quyết định thay cho chúng ta. Còn chúng ta thì chỉ có việc thi hành. Cần phải hoán cải, khước từ mọi hành động tự phát, để bước vào và ở lại trong “cái khuôn mẫu”. Ngay cả việc suy nghĩ cũng cần phải chấm dứt.

Tuy nhiên, mỗi một tờ giấy phép là một thảm cảnh cá nhân: một phụ nữ sắp sinh cần phải đem gấp vào nhà thương: không có giấy phép! Một đứa bé chết, cần phải đem cháu đi chôn: không có giấy phép! Các giấy phép đó là một hệ thống giúp khước từ mọi vấn đề riêng tư, mọi di chuyển riêng tư, mọi sở hữu riêng tư.
Các buổi học tập cải tạo cách mạng đều bắt buộc, từ các tầng lớp bé nhỏ nhất cho tới các cụ già, hoặc ngay cả trong dịp các giáo sĩ họp hàng tháng với giám mục. Các buổi triệu tập lên Ủy ban phường không chấp nhận sự từ chối hay chậm trễ. Chuyện khám xét nhà cửa, kho chứa hàng, văn phòng, và cả các căn hộ xảy ra bất thình lình. Mỗi lỗi lầm nhỏ nhặt nhất cũng lập tức bị chỉ trích với thái độ kiêu căng và đe dọa.

Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu. Đây không phải là vấn đề chia đất đai. Điều phải làm là tạo sự xung đột: cần phải tạo ra xung đột giữa tư sản và của chung; đất đai thuộc về nhân dân. Không còn có hàng rào, không còn bằng khoán, không còn giấy sở hữu chủ nữa.
Thế rồi khung cảnh thu hẹp hơn: không còn có gia đình trong nghĩa sâu xa “ở nhà tôi” nữa. Người ta phá hủy cái “ở nhà tôi” và người ta xây dựng “căn nhà chung”. Đây là một nghi thức giáo dục, một lễ nghi.

Khung cảnh lại còn thắt chặt hơn nữa: không còn tổ ấm gia đình, trong nghĩa thân thiết của từ này nữa! Bát cơm của tôi, đĩa chén của gia đình tôi, bếp lò đất sét của tôi, mọi sự đều được để cả đống chung với người khác. Từ nay trở đi nó sẽ là “căng tin nhân dân”. Lại một lễ nghi phụng vụ, một nghi thức giáo dục nữa. Đó là việc phi nhân vị. Mỗi người đều biết mọi sự liên quan tới mọi người, mỗi người kiểm soát tất cả mọi người, mọi người đều biết ai làm gì nói gì; và điều họ đang suy nghĩ phải được dò la và tố cáo trong trường hợp nghi ngờ.

Vì Giáo Hội là một cơ quan có cấu trúc, được phổ biến rộng rãi trong dân chúng, nên lúc ban đầu người cộng sản không đụng tới một cách trực tiếp. Thật ra Giáo Hội quý báu đối với họ, bởi vì họ có thể xếp loại và kiểm soát mọi thành phần một cách dễ dàng. Nhưng Đức Cha Seitz và các linh mục thừa sai mau chóng nhận ra điều đó. Các làng theo đạo, các phong trào Công Giáo Tiến Hành, hướng đạo sinh, Đạo Binh Đức Mẹ, các buổi tụ tập, hội họp: mọi sự đều nằm ở trung tâm cơn lốc.
Vì thế Đức Cha Seitz quyết định đốt hết mọi tài liệu của Tòa Giám Mục xem ra có thể nguy hại đối với chính quyền lúc đó. Ngài bí mật ra lệnh cho các linh mục hủy bỏ hay đình chỉ các cơ cấu, đốt mọi danh sách các giáo lý viên, các giáo sư, các người lãnh đạo dấn thân, các chức sắc, các cựu học sinh của các trường công giáo. Mọi người này có thể sẽ bị liên lụy, bị bỏ tù, bị bách hại, loại trừ bằng cách này hay cách khác.

Các buổi hội họp trong các nhà thờ, việc đánh chuông, các lễ nghi được làm một cách kín đáo hơn. Các thánh giá, mẫu ảnh, chuỗi hạt, ảnh tượng, sách kinh được cất giấu, chôn giữ với hy vọng một ngày kia sẽ được đào lên. Người ta đi vào sa mạc, đi vào trong cảnh sống lén lút, như Giáo Hội hầm trú, trong thế giới của Đấng Vô Hình.

Sự sống còn của các linh mục thừa sai đặc biệt bấp bênh. Các vị có thể bị bỏ tù trong một sớm một chiều, hay bị xử tử không gây tiếng động – một tai nạn mau chóng xảy ra! – hay bị dẫn vào trại cải tạo, viện cớ là gián điệp cho một quốc gia thù địch hay một cách đơn giản là bị trục xuất.
Tình hình chỉ ngày càng tồi tệ thêm trên toàn quốc. Các đoàn quân cộng sản tiến nhanh như chớp về miền Nam; các đơn vị cuối cùng của Mỹ di tản khỏi Sài Gòn; mặc dù chiến đấu anh dũng quân đội miền Nam chỉ cứu vãn được danh dự. Sự sụp đổ, sự tan vỡ mênh mông. Tổng thống Thiệu chỉ còn cách từ chức, trốn chạy khỏi Sài Gòn ngày 24 tháng tư năm 1975 và xin tỵ nạn tại Đài Loan. Nếu đã ở lại chắc chắn ông sẽ chịu cùng số phận như tổng thống Ngô Đình Diệm… Ngày 30 các đoàn quân của Chính quyền cách mạng lâm thời chiến thắng tiến vào thủ đô. Thủ đô lấy tên Thành phố Hồ Chí Minh.

Nước Việt Nam Cộng Hòa tự do cáo chung. Việc thống nhất Bắc Nam được tái lập, với giá máu. Giờ đây toàn Vùng Đông Nam Á chìm vào thế giới cộng sản và trở thành quần đảo Goulag. Và Đức Cha Seitz nhận xét, Việt Nam (có thể thêm Ba Lan) là quốc gia duy nhất trên thế giới trong hơn một phần tư thế kỷ đã may mắn và có can đảm kháng cự lại chủ nghĩa đế quốc và chế độ độc tài cộng sản. Và người dân bé nhỏ miền Nam, anh hùng như dân chúng miền Bắc, đã bị chế nhạo, vu khống, không được biết đến trước mặt thế giới gọi là “văn minh”. Việt Nam là quốc gia duy nhất (cùng với Ba Lan) trong các khổ đau khôn tả, đã dám kháng cự sự tấn công và đã cho thế giới một bài học. Và trước mắt thế giới điều này không thể tha thứ được!… Cũng chính vì thế nó đã bị bỏ rơi cho số phận buồn thương của mình, không được biết đến bởi các phương tiện truyền thông và các lương tâm tốt lành bưng tai nhắm mắt.

Suốt ngày mồng 01 tháng 5 các loa phóng thanh phát các bài ca chiến thắng của Cách Mạng trong thành phố; các lá cờ đỏ sao vàng được treo trên các dinh thự. Mười lăm ngày sau, một cuộc biểu tình vĩ đại của nhân dân được tổ chức và các đại diện Giáo Hội cũng “được chính thức mời tham dự” – điều này có nghĩa là các vị bị bó buộc phải tham dự. Chính quyền cố ý làm cho các vị bị xem như đồng loã trước mắt giáo dân và toàn thế giới, vì họ sẽ dùng nó cho việc tuyên truyền. Hai mươi lăm ngàn người được triệu tập từ các vùng chung quanh Kontum đứng chen chúc nhau dưới chân một khán đài trải thảm toàn mầu đỏ, trên đó chễm chệ hàng chục “vị đồng tế” mặc đồng phục kaki mầu xanh, không huy hiệu. Các chân dung khổng lồ của Mác, Lenin và Hồ Chí Minh nhìn xuống khán đài. Hàng trăm lá cờ đỏ và biểu ngữ với các khẩu hiệu bay phất phơ trong gió.

Vào phút chót và trước sự ngạc nhiên của Ngài, Đức Giám Mục được mời lên ngồi giữa các cán bộ ở hai cánh khán đài. Lễ nghi có thể bắt đầu: hai giờ diễn văn quy ước đã được tiêu hóa trước, được ngắt quãng bằng các tràng pháo tay, do các cán bộ trà trộn giữa đám đông, bằng giọng nói và cử chỉ tạo ra một sự hăng say “tự phát”.

Thế rồi diễn ra một cuộc diễn hành chiến thắng dưới chân khán đài: từ khán đài tới dân chúng và từ dân chúng tới khán đài, người ta ném hàng bó hoa. “Còn hơn là trong ngày Lễ Thiên Chúa”, Đức Giám Mục phẫn nộ. Điều này soi sáng giúp Ngài nhận ra sự hiểu biết toàn vẹn của người cộng sản liên quan tới tâm lý con người, tâm lý cá nhân và tâm lý tập thể. Mặc cho chủ nghĩa duy vật của họ, họ biết rằng con người có một ý thức bẩm sinh về sự thánh thiêng, rằng nó cần một việc phụng thờ vốn gắn liền với bản chất của nó. Vì thế họ cống hiến cho nó một tôn giáo; áp đặt cho nó một vị thần có ba ngôi: Mác, Lenin và Bác Hồ, người giải phóng . Giáo thuyết mác xít thay thế Tin Mừng. Mục đích đó là trật tự thế giới mới tạo ra thiên đàng trên trái đất. Đối với họ các lý thuyết gia thay thế các thần học gia, và những người này tùng phục quyền bính của đảng phái duy nhất, khăng khăng. Các linh mục là các cán bộ cấp cao, được trợ giúp bởi các cán bộ cấp dưới. Còn các kinh nguyện với cử chỉ là các kinh cầu, các khẩu hiệu, các thần chú, các thánh ca phục vụ việc thờ phụng. Tất cả được bổ túc bằng một sự khổ hạnh nghiêm ngặt bao gồm việc suy gẫm, suy niệm, mỗi chiều, việc tĩnh tâm đóng kín trong trại cải tạo goulag, họp kiểm thảo, công khai thú nhận lỗi lầm và tự phê bình, kết thúc bằng việc tuyên bố đối với những ai đã không vén mở các tư tưởng thầm kín nhất của mình.

Trong năm tiếng đồng hồ kéo dài trò chế nhạo này, Đức Giám Mục suy niệm và cầu nguyện, khi trông thấy diễn hành trước khán đài nhiều gương mặt quen biết, với cái nhìn cố ý làm như vô cảm và đóng kín. Ngài cũng giơ hai cánh tay lên, nhưng để chúc lành với dấu thánh giá; và Ngài được an ủi, khi gặp các nụ cười đồng lõa.
Vài ngày sau lại có một an ủi khác: có bốn bộ đội chừng 20 tuổi, vai đeo súng, lẻn vào tòa giám mục trong giờ ngủ trưa. Một linh mục thừa sai ra tiếp họ, họ nói chuyện với nhau: “Chúng con muốn xưng tội và rước lễ. Có được không ạ?”. Đây có phải là một cái bẫy không? Không. Không nghi ngờ gì, họ thành thật. “Đã sáu năm nay chúng con không gặp một linh mục nào cả”. Một thánh lễ đã được cử hành chỉ cho họ thôi; họ rước lễ rồi biến đi như những chiếc bóng. Một người trong bọn thú nhận: “Nếu chúng con mà bị trông thấy, thì sẽ phải trả giá rất đắt”. Có bao nhiêu chiến binh như những người này trong các đoàn quân cộng sản xâm lăng?… Hoạt động của Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục.

Nhưng vòng vây ngày càng siết chặt chung quanh Giám mục và các linh mục thừa sai Pháp – giờ đây chỉ còn có năm vị bên cạnh Ngài: đó là các cha Dujon, Arnoud, Curien và Brice. Mỗi ngày đều có các cuộc khám xét mới, các trưng thu vật liệu hay thực phẩm, các đòi hỏi giấy phép mới. Các cán bộ rất khéo léo đối với các phiền toái này; chúng làm hao mòn tinh thần và thần kinh, và làm nản lòng mọi sáng kiến. Các vụ triệu tập và hỏi cung hạ nhục lập đi lập lại, không lý do. Cuộc đánh đòn tâm lý các nữ tu Thượng của nhà thương Minh Quý ngày càng gia tăng: họ muốn các chị thú nhận là đã săn sóc các người Thượng nổi loạn – là điều các chị sẵn lòng công nhận, cũng như các chị đã săn sóc các binh sĩ Bắc việt bị thương không phân biệt ai. Nhưng người ta sách nhiễu các chị buộc các chị thú nhận là các chị đã nhận khí giới của nhân viên tình báo Mỹ CIA, cũng như của Đức Giám Mục, là một tên gián điệp. Đến đây thì các chị bật cười, điều này làm phật lòng các cán bộ. Nhưng các cán bộ phải quy tội và sau đó phải làm cho người ta thú tội. Sau năm lần khám xét liên tiếp, họ khám phá ra trong căn phòng nhỏ xíu của nữ tu G. một khẩu súng lục – mà đương nhiên chính họ đã mang tới!… “Hãy thú tội, thú tội” họ hét lên. “Chính Giám Mục đã cho chị khẩu súng này”. Họ lợi dụng các lần viếng thăm này để chất đầy lên xe díp và xe tải: vật liệu, thuốc men và thực phẩm.

Trại phong cùi do giáo phận thành lập trong một khung cảnh cây cối xanh tươi và đầy hoa, là một mô hình của sự khéo léo. Trong tình bác ái, trại tiếp đón và săn sóc cho 400 bệnh nhân, dưới sự điều hành của nữ tu Marie-Louise, dòng Nữ Tử Bác Ái, được 2 nữ tu y tá và 11 nữ tu Thượng giúp. Nhưng nó là một con mồi cám dỗ đối với các người chủ mới của đất nước. Họ không chú ý gì tới các bệnh nhân, nhưng chỉ chú ý tới vật liệu và dụng cụ y khoa. Họ đến ở và thiết lập một ban chỉ huy mới. Các đoàn xe tải chất hết những gì họ muốn lấy.

Tất cả những điều này khiến cho Đức Cha Seitz vô cùng đau buồn, nhưng Ngài không chịu xuôi tay và để cho mình bị đe dọa. Ngài chống lại mọi xâm lấn trong lãnh vực tôn giáo, tới độ quyết định mở cửa đại chủng viện trở lại, dựa trên sắc lệnh về tự do tôn giáo của tân Hiến Pháp. Theo luật pháp Ngài thông báo cho chính quyền biết, và kêu gọi khoảng 100 người trẻ tựu trường. Đây có phải là một khiêu khích không? Không. Đây chỉ là việc khẳng định các quyền và bổn phận chủ chăn của Giáo Hội.

Đức Cha cũng quyết định mở lại các trường học, và để được như thế phải điền các phiếu, thiết lập các hồ sơ và xin phép chính quyền. “Vâng, đồng ý”, người ta trả lời thế. Nhưng trước đó các giáo chức phải theo một khóa “cải huấn sư phạm” ba tháng – nói cách khác là tẩy não và khai tâm chủ nghĩa Mác và Lê nin. Việc điểu khiển, lại một lần nữa, sẽ do một hội đồng giám đốc lo.

Tuy nhiên, Đức Cha không nghi ngờ điều đang chờ đợi Ngài nữa, Ngài chuẩn bị cách kín đáo trong một góc bàn làm việc một chiếc túi xách màu xanh để sẵn sàng ra đi ngay lập tức. Trong túi Ngài để những gì quý báu nhất: các giấy tờ cá nhân, các tài liệu quan trọng chưa thể hủy bỏ, các vật dụng tôn giáo và nhất là chén thánh kỷ niệm ngày chịu chức, mà Ngài đã có thể giữ nguyên vẹn một cách lạ lùng khỏi mọi biến động đã phải chịu từ khi đặt chân tới Việt Nam.

Nguy hiểm càng dồn dập vào đầu tháng 6, khi vị đại diện Tòa Thánh tại Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, là Đức Cha Henri Lemaitre, người Bỉ, bị trục xuất khỏi Việt Nam. Chính quyền cho biết họ không còn có thể bảo đảm an ninh cho ngài nữa. Trong ngôn ngữ ngoại giao để bảo rằng ngài không còn là “persona grata” nữa (người được chấp nhận-ND). Viện cớ thật giả dối!… Thực ra, đó là câu trả lời giận dữ cho việc Đức Thánh Cha Phaolô VI chỉ định Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận làm Giám Mục Phó với quyền kế vị Đức Cha Bình, Tổng Giám Mục Sài Gòn.

Cho tới lúc đó Đức Cha Thuận, Giám Mục Nha Trang, đã có sự cẩn trọng giống như Đức Cha Seitz, bằng cách truyền chức linh mục cho tất cả mọi chủng sinh sẵn sàng nhận các Chức Thánh, với sự đồng ý của vị Đại diện Toà thánh, trước khi các xe tăng cộng sản vào thành phố. Là cháu và là “con thiêng liêng” của ông Diệm, Đức Cha Thuận đã là một người yêu nước ngay từ đầu, bằng cách hoạt động để giải phóng Đông Dương khỏi mọi chế độ thực dân; Ngài là người nằm trong các mắt lưới của “các kẻ giải phóng”, sẵn sàng chấp nhận hậu quả các lời nói và các hành động của mình. Tới lượt mình Ngài sẽ trả giá bằng nhiều năm tù tội, rồi bị lưu đầy.

Ngày Chúa Nhật 29 tháng 6, lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô, lúc 5 giờ sáng, Đức Cha Seitz đồng tế thánh lễ trong nhà thờ Chính tòa đông nghẹt tín hữu. Hôm trước một đoàn đại biểu linh mục và giáo dân đã tiếp nối nhau đến chúc mừng lễ bổn mạng Đức Giám Mục của họ, bằng cách trình bầy nỗi âu lo của họ, biết rằng Ngài bị đe dọa trục xuất. Đức Cha lợi dụng đông đảo người tham dự thánh lễ ban sáng để chú giải lời Chúa Ki-tô nói với tông đồ Phêrô: “Các cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi Giáo Hội”. “Đó là một lời mời gọi can đảm trong thử thách, tin cậy không lay chuyển. Ngài cảm thấy sự hiệp nhất yêu thương được chia sẻ giữa các linh mục, nữ tu, chủng sinh, các giáo lý viên và tín hữu, trong khổ đau là xi măng tốt nhất của tình bạn.

Đau khổ này chỉ lại có thể gia tăng, khi Đức Giám Mục nghe tin nữ tu của nhà thương bị tố cáo nhận khí giới từ Ngài, đã bị bỏ tù, bị biệt giam, bị lột áo dòng. Lý do? Chỉ vì bà đã từ chối nhận tội: “Quý vị có thể thay y phục của tôi, nhưng không thể thay đổi con tim của tôi”.
Người ta cũng báo cho Đức Cha biết là nữ tu Louise-Marie, mà người ta trông thấy bị tù trong rừng cùng với hai bác sĩ của nhà thương bị bắt cóc, đã qua đời, chắc chắn vì đói hay vì sốt rét rừng. Các khoảng trống ngày càng bị đào sâu chung quanh Đức Giám Mục.

Chỉ còn lại các ức hiếp từ mọi phía, các đe dọa, chửi bới và khước từ mọi điều xin mặc dù phù hợp với luật lệ. Ý chí nghiền nát sẽ có đi tới tận cùng các ý muốn không? Sự sợ hãi lớn lên quanh Ngài. Mãi sau này người ta mới nhận ra rằng từ 60 năm qua không có một quốc gia nào rơi vào chế độ này mà đã thành công giải thoát được chính mình. Và cám dỗ của thuyết định mệnh rất gần kề.

Đức Cha Seitz cũng nhớ lại khẳng định của ông Georges Marchais, tổng thư ký của Đảng Cộng Sản Pháp, là người giống như Hồ Chí Minh đã theo học tại Mạc Tư Khoa, nói trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhật báo La Croix ngày 19 tháng 11 năm 1970:
Chúng tôi, người cộng sản, chúng tôi dựa vào một triết lý duy vật và biện chứng. Chúng tôi không muốn tạo ra ảo tưởng về điểm này: giữa chế độ mác xít và Ki-tô giáo không thể có sự hòa giải lý thuyết, không thể có hội tụ ý thức hệ”.

Đức Cha bình luận: “Ít nhất đó là một điểm mà tôi đồng ý với người cộng sản”.

 

[1] Tên Việt của Đức Cha [2] Xem Le Temps des Chiens muets (Thời Những Con Chó câm) [3] Chúng ta nhớ là Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Ái Quốc, đã nhận được sự đào tạo lý thuyết tại Paris, nơi ông sống vào cuối Đệ Nhất Thế Chiến 1914-1918. Là người trẻ tuổi và nghèo túng, làm nghề chụp hinh, đó là típ người ái quốc tàn bạo, thần bí, nóng lòng giải phóng đất nước khỏi sự bảo hộ của Pháp. Các bạn của ông chính là những người sẽ thành lập đảng cộng sản Pháp, mà ông gia nhập. Bị lôi cuốn bởi cuộc cách mạng Nga, do Lenin thắp sáng lên, ông dấn thân vào Đảng cộng sản quốc tế, hứa hẹn giải phóng giới vô sản và các dân tộc trên toàn thế giới bị thuộc địa. Sau khi theo học bên Nga, ông về nước, về Đông Dương với sứ mạng khêu động cách mạng.
*****************************************

Chương XIII

Vĩnh biệt, Việt Nam yêu dấu! (1975)

      Giám mục Kontum đã già rồi, nên từ chức đi.

    Đó là các lời lẽ xuất hiện trên một tờ báo cấp tiến Sài Gòn đầu tháng 8 năm 1975. Không có gì là vô tình trong một nhật báo của Đảng; mỗi một từ đều bị kiểm duyệt. Các lời lẽ này có nghĩa là người ta không mong ước sự hiện diện của Đức Cha Seitz nữa. Chứ không phải vì tuổi tác của Ngài – Đức Cha chưa tới 69 tuổi – khiến cho những người muốn loại bỏ Ngài thương hại! Sự thật là họ ném các quả bong bóng thăm dò trong Giáo phận, với hy vọng dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Giám mục của mình và kết án Ngài để cho phép họ bỏ tù hay trục xuất Ngài. Nhưng việc đó đã hoàn toàn thất bại!

    Vậy là, trong một hiệp hai, người ta giơ ra một cây sào để cho chính ông Giám mục “già” này tự mình nghĩ tới chuyện về hưu. Thật ân cần biết bao!… Trong bất cứ trường hợp nào thì điều này cũng sẽ tránh được những giao động trong giới Công giáo.

    Nhưng người Thuyền trưởng sẽ không bao giờ tự ý rời bỏ con tầu, nhất là khi biết cơn bão còn lâu mới yên và các hành khách đang níu chặt vào ông để khỏi chìm. “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!..” (Mt 8,25). Và, giống như Chúa, Đấng đã nói: “Người ta không lấy mất mạng sống tôi, nhưng chính tôi trao ban nó” (Ga 10,18), vị Giám Mục Kontum cũng ngang nhiên và bình thản phó thác mình trong tay Chúa Cha và chờ đợi hiến tế, một cuộc hiến tế mà Ngài biết sẽ được đòi hỏi nơi Ngài.

    Ngày mồng 10 tháng 8, lúc 7 giờ sáng, một anh bộ đội đến Tòa Giám Mục đem theo một giấy mời. Đức Cha Kim và giám mục phó sẽ được ông chủ tịch ủy ban cách mạng tỉnh tiếp ngay ngày hôm nay lúc 13 giờ. Từ lâu, các Ngài đã yêu cầu có cuộc gặp gỡ nhằm giải quyết các khó khăn trong việc đi lại cùng những vấn đề khác. Và sau cùng đây là câu trả lời! Nhưng hôm nay là ngày Chúa Nhật, Ngài rất bận rộn, và đây còn là vấn đề nguyên tắc: Đức Cha đề nghị dời cuộc hẹn sang ngày hôm sau. Anh cán bộ ra về rồi trở lại vào buổi trưa: đồng ý dời sang ngày mai vào cùng giờ.

    Đức Cha quyết định trải qua buổi chiều tối với các đại chủng sinh đang cần được nâng đỡ, khích lệ và cả an ủi nữa: trong số các thầy, khoảng hai chục người sắp bị trục xuất với cái cớ là giấy tờ không hợp lệ: một số thì được viết tay, trong khi đáng lý ra phải được đánh máy; số khác thì được đánh máy, trong khi đáng lý ra phải được viết tay; số khác nữa thì lại thiếu một hay hai chữ ký mới có giá trị v.v… “Các anh phải về nhà để làm cho đúng thủ tục, rồi trở lại sau” “Bị trục xuất ư? Chắc chắn là không!… Nhưng một số thầy ở xa hơn 1.000 cây số! Có quá táo bạo chăng, khi nghĩ rằng một khi đã ra đi, họ sẽ không được phép trở lại nữa?…

    Trong tận thâm tâm, Đức Cha cảm thấy khâm phục các người trẻ can đảm, thậm chí anh hùng này. Họ biết rằng mình đang gặp nguy hiểm khi dấn thân phụng sự Thiên Chúa trong thời buổi này. Ngài bảo họ:

    “Chúng con thật là điên rồ, khi vào chủng viện trong thời gian trôi nổi này; và Cha hẳn cũng điên như thế vì đã gọi chúng con về đây!

    Nhưng đó là sự điên rồ mà thánh Phaolô nói tới, sự điên rồ của Thập Giá. Các thầy hiểu. Như Chúa Giêsu đã làm với các tông đồ trong bữa Tiệc Ly, Đức Cha tiếp tục cuộc đối thoại của Ngài với các chủng sinh. Ngài muốn nói với họ về một đề tài rất tế nhị: đó là yêu thương kẻ thù. Trước đó ít lâu, trong một buổi học tập nhồi sọ về bổn phận phải tố cáo các kẻ thù của nhân dân, một cán bộ đã quát:

    Có một điều không thể hiểu được và thật sự không thể nào chấp nhận được trong sách Tin Mừng của các người, đó là “yêu thương cả kẻ thù của mình”! – Không! Cần phải ghét bỏ chúng, tố cáo chúng; cần phải nghiền nát chúng!

    Đức Cha biết các người trẻ của mình; Ngài biết rằng sự giận dữ đang sôi sục trong lòng một số thầy. Dĩ nhiên đó là một sự phẫn nộ chính đáng. Nhưng nếu điều đó thoái hóa thành sự thù ghét kẻ có tội, thì họ sẽ không còn là Ki-tô hữu đích thật, con cái của Chúa Cha giàu lòng thương xót nữa. Vì vậy, chiều hôm đó, Đức Cha nói với họ rất dài về tình yêu đối với kẻ thù, đối với những người làm cho mình đau khổ. Giới răn này của Chúa chắc chắn là trái nghịch nhất với con tim của người ngoại giáo; nhưng nó lại là điều có thể đối với người biết cầu nguyện và sống theo đức tin. Vì Thiên Chúa là Chủ Tể của điều không thể được…

    Thứ hai 11 tháng 8: chung quanh một tách trà

   Ngày thứ hai 11 tháng 8 lúc 13 giờ[1] , Đức Cha, Đức Cha Phó và Cha thư ký theo lịch hẹn đến gặp ông chủ tịch, tên là Dân. Các Ngài có biết ông này vì đã có lần được ông này tiếp một cách rất khô khan ngày 13 tháng 5, ít lâu sau khi ông đến Kontum trong vai kẻ chiến thắng. Hai bên đã đồng ý với nhau là lần này chỉ nói về vấn đề cấp bách liên quan đến hai bác sĩ trẻ Baker và Cristian, mà Các Ngài muốn họ được trả tự do để trở lại làm việc trong nhà thương, và đến Người Nữ Tu bị bỏ tù và bị giam nơi bí mật một cách bất công.

    Thật là bất ngờ: người cách đây ba tháng đã tỏ ra thật kiêu căng và lạnh lùng, thì giờ đây lại rất dễ thương và chu đáo, thậm chí nồng nhiệt nữa… Người ta phục vụ trà với bánh kẹo và thuốc lá. Ông ta đã trở lại đạo chăng?… Mình có mơ không đây?… Khi trông thấy bộ mặt ngơ ngác của các vị khách mời, ông cười, và điều này làm tan bầu không khí. Ông xin lỗi đã chậm trễ trong việc đáp ứng lời đề nghị gặp mặt và tỏ ra rất sẵn sàng giải quyết những vấn đề cũng như những khó khăn, mà Đức Cha có thể trình bầy với ông.

    Thêm tin tưởng, Đức Cha trình bầy mục đích cuộc viếng thăm, Ngài khẳng định mình đứng ra bảo lãnh cho các bác sĩ và người nữ tu, sẵn sàng giữ họ ở lại Tòa Giám Mục nếu cần. Còn nếu không thì ít nhất Ngài muốn viết thư cho họ và gửi họ các gói quà đã soạn sẵn mang theo.

    Không khó khăn gì, ông ta vui vẻ nhận các gói quà, mà ông bảo đảm sẽ chuyển tới cho các tù nhân. Còn việc trả tự do cho họ, chắc chắn ông sẽ cứu xét với ban cố vấn của ông.

    Tiếp tục các đề nghị thân tình, ông ta hỏi xem còn có những khó khăn nào nữa không: ông sẵn sàng nghiên cứu một *thoả thuận sống chung hoà bình* (modus vivendi) giữa Giáo Hội và các Ki-tô hữu với Ủy ban cách mạng. Như thế trong thời gian tới, cần phải tổ chức một cuộc gặp gỡ khác với các cộng sự viên của ông ta để đưa lên bàn mọi mâu thuẫn và cùng nhau thảo luận.

    Lần này, đúng là quá mạnh, đến nỗi một thoáng nghi ngờ vụt qua trong tâm trí Đức Cha Seitz; Tuy nhiên, Ngài tự nghĩ là đã có phán đoán táo bạo và ý nghĩ không hay.  Với tính tình mạnh mẽ không hề e ngại bất cứ điều gì, Ngài đi sâu hơn và khui ra các sự bạc đãi mà Ngài và các công việc phục vụ của mình đã phải gánh chịu từ khi thay đổi chính quyền: các chủng viện, trường học, các cuộc viếng thăm mục vụ, các hạn chế đi lại, nhà thương, trại cùi, những lời kết án sai trái, việc tuyên truyền chống tôn giáo vv.

    Bề ngoài, ông chủ tịch xem ra rất chăm chú, gật đầu và hai cán bộ phụ tá của ông cũng tỏ vẻ hài lòng. Ông cám ơn Đức Cha vì tinh thần hợp tác của Ngài. Các điếu thuốc chuyền từ tay này sang tay khác.

    Sau cùng, ông Dân còn đẩy cách cư xử tử tế của mình lên tột đỉnh bằng cách gợi ý tổ chức một cuộc rước kiệu Đức Mẹ ngang qua thành phố:

    Sắp tới ngày 15 tháng 8, lễ Đức Mẹ lên trời, phải không?

   Lần này thì ông đã nhấn nút hơi xa! Để chấm dứt gọn lẹ, Đức Cha cám ơn ông và nhắc ông rằng trong mùa mưa nặng hạt và thường xuyên này, một cuộc rước kiệu như thế sẽ làm hư hại các sách và lễ phục phụng vụ. Nếu ông muốn thì sẽ bàn lại vào mùa thu. Ông Dân lịch sự tiễn chân các vị khách ra tận xe và nói:

    Một ngày rất gần đây thôi, tôi sẽ tổ chức một cuộc họp để giải quyết dứt khoát tất cả những điều đó. Hẹn gặp lại!

    Trên đường về, hai Đức Cha đã có một lúc thinh lặng và phân vân, những lời vừa nghe cứ sôi sục và lởn vởn trong đầu. Rồi các Ngài trao đổi cảm tưởng với nhau. Có phải nhờ ông này, người mà trước đây mình đã phán đoán thật là tệ hại, cuộc sống mục vụ của các Ngài sắp bình thường trở lại không?… Hay là ông ta đã chế nhạo mình? Nhưng các Ngài lại xua đi cơn cám dỗ phán đoán táo bạo này!

    Thứ ba 12 tháng 8: “Hoan hô, kịch sĩ!”

    Hôm sau, khi vừa dâng thánh lễ lúc 6 giờ 30 xong, Đức Cha được báo có một cán bộ xin gặp. Anh ta nói:

    Sau cuộc hội kiến hôm qua, ông chủ tịch đã quyết định tổ chức ngay hôm nay một cuộc gặp mặt với Ủy ban cách mạng tỉnh. Ông yêu cầu Ngài tới lúc 8 giờ.

    Rồi anh ta xác định ba nơi họp: một cho chính Đức Cha và các nam nữ tu sĩ nói tiếng Pháp; nơi khác cho vị Giám Mục Phó và giáo sĩ Việt; nơi thứ ba cho các nữ tu người Việt và người Thượng. “Điều này để giúp dễ dàng cho việc trao đổi” anh ta nói thêm. Anh trao cho Đức Cha một gói thư triệu tập có tên của từng người liên hệ: không sót một ai cả! Giờ hẹn đã gần, làm sao báo cho mọi người đây? Thế là Đức Cha đi tìm chiếc xe Mehari của Ngài.

    “Ô, thưa Đức Cha xin vui lòng lên xe của chúng tôi. Họp xong chúng tôi sẽ đưa Ngài về Tòa Giám Mục”

    Mọi người lên mấy chiếc xe đang chờ đợi, trên xe đã có các bộ đội vũ trang; các binh sĩ vũ trang khác được bố trí chung quanh Tòa Giám Mục – nhưng đây là điều khá bình thường. Có ai đó nhận xét: “Này, cha Leon Dujon đã lấy bọc “hành trang trong trường hợp bị tù rồi” kìa. Bởi vì cha đã có kinh nghiệm bị tù hai lần.” Mọi người đều cười.

    Đoàn xe phóng nhanh, nhưng thay vì dừng tại nơi dự kiến cho cuộc họp, thì chúng lại tiếp tục ra khỏi thành phố và đi thêm khoảng mười cây số nữa: chuyện gì xảy ra thế này? Đoàn xe chỉ dừng tại Chu Pao, là nơi Đức Cha đã bị bắt ngày 17 tháng 3 và bị bó buộc qua đêm tại đồn này. Ở đó đã có linh mục tuyên úy và hai nữ tu của trại cùi, nhưng cũng có – ôi thật sững sờ và vui biết bao! – hai bác sĩ trẻ Edric Baker và Georges Cristian nữa. Cả hai đều thật gầy gò và ốm yếu, Cristian lại còn nằm trên một chiếc cáng nữa. Họ đã được trả tự do khỏi trại chiều hôm qua, trong chính giờ mà Đức Cha Seitz từ giã ông Dân, lúc mà Ngài vừa xin ông trả tự do cho họ. Thật là bảnh!

    Đây 12 người ngoại quốc được tụ họp và vui mừng; người ta dọn cho họ một bữa ăn sángthịnh soạn; rồi trịnh trọng báo cho họ biết là người đại diện ông Dân sắp tới chủ sự buổi họp.

    Ông này tới khi người ta dọn dẹp bàn ghế và sau khi chào hỏi một cách lễ phép, ông điểm danh. Rồi rút trong túi xách ra một cọc giấy và đọc:

                                  LỆNH TRỤC XUẤT

                     Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam

                độc lập- dân chủ -hòa bình -trung lập

    Với mục đích duy trì an ninh trong tỉnh Kontum và bảo vệ quyền bính quốc gia,

    Ủy ban quân quản tỉnh Kontum quyết định trục xuất Đức Cha Paul Seitz, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1906, quốc tịch Pháp, phải rời Nước Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trong vòng 74 giờ đồng hồ, kể từ lúc 10 giờ ngày 12 tháng 8 năm 1975 cho tới 12 giờ ngày 15 tháng 8 năm 1975.

    Nơi xuất cảnh là phi trường Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn. Quyết định được thi hành ngay lập tức kể từ lúc được công bố.

                               Kontum ngày 12 tháng 8 năm 1975

                                    Ủy ban quân quản tỉnh Kontum

                                      Chủ tịch: Trần Thanh Dân, ký tên

    Mỗi người nhận được một văn bản có tên rõ ràng của mình. Không một lời giải thích, không một lời bình luận. Ông chủ tịch đưa tay chỉ các xe sẵn sàng lăn bánh trở lại.

    “Hoan hô kịch sĩ!”, Đức Cha Seitz nghĩ thầm. Nếu như Ngài đã bị chế nhạo và hạ nhục, thì giờ đây không còn hối hận về những ý tưởng phán đoán táo bạo đã đi qua tâm trí mình. Hài kịch đã được trình diễn một cách tài tình đến độ Ngài đã không hề nghi ngờ rằng chính các người cộng sản lại giả hình, đểu cáng, và có thể nói, dối trá đến vậy. Đức Cha áp dụng lại cho chính mình những lời mà Ngài đã nhắn nhủ các chủng sinh ngày hôm kia: “Các con hãy yêu thương kẻ thù của mình”.

    Mọi người chung quanh Ngài đều ngỡ ngàng và phẫn nộ. Các phản đối họ nói lên dĩ nhiên không giúp được gì. Cũng không thể trở về nhà để lấy hành lý tối thiểu và từ giã người thân. Lệnh trục xuất được thi hành ngay lập tức và đang được thực hiện, viên cán bộ phục vụ vô cảm xác định. Tuy nhiên, được phép xin gửi quần áo và dụng cụ vệ sinh cá nhân, nhưng không có gì khác. Người nữ tu tội nghiệp của nhà thương cùi còn đang mặc áo blouson trắng để băng bó cho các bệnh nhân khi bị người ta tới tìm. Chị nài nỉ trở lại trại cùi để làm cho xong việc: không có chuyện đó!

    Đức Cha bình luận: Đối với chị và từng người trong chúng tôi, cuộc ra đi này tương đương với một vụ tử hình, môt cái chết tức khắc.

    Nhưng không phải những người này chấm dứt sứ mệnh của chúng tôi, Ngài nói tiếp. Họ có thể tin rằng mình là chủ tể. Nhưng họ chỉ là những kẻ thừa hành mù quáng: làm sao giận họ được? Chỉ có Đấng đã mời gọi chúng ta ngày còn trẻ, hôm nay còn mời gọi chúng ta, nhưng cho một hình thức phục vụ khác: sự phục vụ của một cái chết. Không! Chúng ta không và sẽ không bao giờ bại trận cũng không bị giao động, chúng ta ở trong niềm vui: niềm vui của Chúa trong Vườn Cây Dầu. “Ai hiểu được thì hiểu.” Ngày này không đến vớichúng ta bất thình lình.

    Một sự hạ nhục tột đỉnh đã được dành cho những kẻ bị trục xuất – xin lỗi! cho những người “được giải phóng”: họ phải qua phòng thay đồ để nhận các quần áo đặc biệt. Lần này là tiếng từ chối quyết liệt “Không”! Và sẽ là “Không!”  Nài nỉ vô ích.

    Một đoàn xe sẵn sàng trước nhà: hai chiếc xe buýt nhỏ trong đó đã có các cán bộ và bộ đội vũ trang ngồi; một chiếc xe díp cho các ủy viên; hai chiếc xe tải chất đầy xăng dự bị và thực phẩm cần thiết cho ba ngày đường đi tới Sài Gòn nằm cách đó gần một ngàn cây số, nơi có các chuyến bay đi Âu châu. Tổng cộng chính xác là 74 giờ được ban cho những kẻ bị trục xuất.

    Khi đi ngang qua Pleiku. Đức Cha xin ngừng lại để gặp cha Tổng Đại diện một lát: “Không thể được”, người ta trả lời. Con tim của Đức Cha se thắt khi xa hơn một chút, Ngài vượt qua biên giới giáo phận của mình. Liệu Ngài sẽ có một ngày trở lại trong hướng ngược chiều hay không?…

    Đêm đầu tiên qua đi trong một bót cảnh sát tồi tàn mang đầy dấu vết các trận đánh trước đó không lâu. Ở đây, lời đề nghị gặp cha sở cũng bị tuyên bố là “không thể được”. Những người qua đường tới gần cửa song sắt, khi trông thấy các vị mặc áo dòng: nhưng người ta đuổi đi. Những người khác nữa, chắc hẳn đã nhận ra Đức Cha, nên có các dấu hiệu thân thiện, họ cũng bị đuổi đi và người ta ra lệnh cho Đức Cha phải trở vào trong nhà.

    Ngài nói với họ: Nhưng ông ơi, chúng tôi có phải là các tù binh đâu? Nếu phải thì tôi sẽ vâng lời. Còn nếu không phải, thì tôi không thấy tại sao người ta lại đối xử với chúng tôi như các tù binh vậy?

    Khi đó tên cán bộ, biết rằng mình cũng bị kiểm soát, vì mỗi người đều được lệnh kiểm soát kẻ khác, nài xin Đức Cha đừng gây phiền phức cho nhiệm vụ của anh, vì anh cũng chỉ thi hành lệnh của các cấp trên thôi.

    Tốt! Đức Cha tuân theo và đi dạo  một nơi kín đáo hơn trong sân, nhưng Ngài đã không phật ý vì biết rằng sự hiện diện của mình đã được biết đến; tiếng đồn lan nhanh nhờ “đài phát thanh cây tre”. Nhưng lệnh cán bộ nhận được là phải tránh tất cả mọi tiếp xúc của các thừa sai với bất kỳ ai, để không dấy lên các cuộc biểu tình của dân chúng.

    Cùng lệnh đó được tiếp tục hôm sau, 13 tháng 8, là ngày thứ hai của chuyến đi, trong đó Đức Cha có một thú vui ranh mãnh là xin một lần dừng chân ở Qui Nhơn, giáo phận bên cạnh giáo phận của Ngài, để chào Đức Giám Mục sở tại, cũng như ở Nha Trang: “Không thể được”. Sau cùng tại Cam Ranh, là chặng cuối cùng, Ngài xin cử hành thánh lễ: “Không thể được”, câu trả lời luôn luôn là như vậy.

    Sau cùng đoàn xe đến Sài Gòn ngày 14, kết thúc chuyến đi mệt nhọc, nhất là đối với hai bác sĩ mới ra khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Cristian cảm thấy mình không sống lâu được nữa. Nhưng cả hai đã duy trì được tinh thần rất cao và đối với họ, sự suy nhược này, thất bại này, viễn tượng cái chết khốn nạn này là một bằng chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa. Họ đã cùng nhau cầu nguyện rất nhiều, đã cùng nhau nói về các vấn đề tôn giáo, đã lớn lên trong kinh nghiệm này về Thiên Chúa. Việc này đã để lại nơi họ một vệt sáng lớn. Không có sự cay đắng nào, lại càng không có chút hận thù nào trong những câu chuyện kể lại những hành hạ họ đã phải chịu.

    Trong khi đoàn xe từ từ tiến vào thành phố, nơi đông xe cộ qua lại mà luật đi đường thì kỳ cục và may rủi, Đức Cha Seitz nghiêng mình trên cửa sổ để nhìn xem những người qua đường và có lẽ được nhìn thấy. Một bộ đội đóng sập cửa xuống trước mũi Ngài. Anh ta lại có thêm được một điểm! Các người tù tự hỏi không biết người ta dẫn họ đi đâu. Vì đã đến đây nhiều lần, Đức Cha biết rất rõ các con đường. Đúng lúc đoàn xe đi vào con đường nơi có một người bạn cũ của Đức Cha ở là ông Nguyên. Gia đình ông có thói quen hóng gió tại cửa nhà vào ban chiều: họ kia kìa, họ ở đó. Và trong lúc tắc nghẽn giao thông, xe phải đứng im một lúc. Khi đó Đức Cha dán sát mặt vào kính xe: người ta nhận ra Ngài; gương mặt của các bạn hữu Ngài giật bắn lên, họ để thoát ra một tiếng kêu không thể nghe thấy. Thế là thắng anh bộ đội một điểm, vì anh ta đã không nghe thấy được gì cả. Tin các thừa sai và các nữ tu Kontum bị công an nhốt cũi tự nhiên lan nhanh.

    Các người du hành kinh ngạc vì đoàn xe dừng trước khách sạn Caravelle là khách sạn hạng sang lớn nhất Sài Gòn. Các người tù ăn mặc rách rưới, râu không cạo, bị cận vệ vũ trang bao quanh, đến đây làm gì vậy kìa?… Cha Dujon thốt lên: “Coi chừng hóa đơn nhé, tôi không trả tiền đâu!”

    Trong phòng tiếp tân, mỗi người tìm lại hành lý của mình, rồi lên phòng, có bộ đội canh gác kỹ lưỡng nơi cửa vào. Cấm không được xuống dưới; cấm điện thoại; cấm tiếp khách. Tuy nhiên, có một linh mục lẻn vào thành công, và thánh lễ đã được cử hành ngay chiều hôm đó tại một trong số các phòng của khách sạn.

Tập họp sau bữa tối; một ủy viên phân phát một mẫu đơn phải điền vào và ký tên, tựa đề của đơn là: “Xin ra khỏi Việt Nam”.

    Mọi người đều phản đối! Cái gì? Người ta đã trao “lệnh trục xuất” và bây giờ lại muốn chúng ta ký giấy “xin ra khỏi” là sao? Đó là chuyện hoàn toàn vô lý! Đàng khác chúng ta không xin gì cả! Và nhất là không xin điều đó!

    Ông cán bộ tìm cách giải thích, lên giọng, cắt nghĩa rằng đó là lệnh trên mà ông ta phải thi hành: không làm gì được! ai cũng phản đối ký vào mẫu đơn này. Đến lượt Đức Cha cao giọng và tuyên bố rằng không thể chấp nhận được việc các công dân Pháp bị trục xuất mà tòa Lãnh Sự Pháp lại không được thông báo, rằng một Giám mục bị đối xử như thế mà lại không có sự đồng ý của vị đại diện Tòa Thánh. Đức Cha đòi liên lạc với vị này – Bị từ chối!

    Khi đó Đức Cha Seitz có một trao đổi như sau với ủy viên – một trao đổi cho thấy cái vô liêm sỉ của những người này và sự nhu nhược của những người kia:

    Như vậy tôi sắp về Pháp. Nhưng, xin nói cho tôi biết: quý vị không sợ điều mà tôi sẽ có thể nói với các người đồng hương của tôi sao?

    Trả lời: “Chúng tôi không sợ gì cả: các người đồng hương của ông sẽ không tin ông đâu!”. Khi đó mọi người rút lui, vì bị đe dọa trả đũa. Không quan trọng!

    Nửa đêm rồi nhưng không ngủ được. Đức Cha Seitz thử thời vận và lấy điện thoại trong phòng mình để gọi cho Cha Bề Trên Miền của các thừa sai. Chờ một lúc rồi có tiếng ngái ngủ trả lời: “Mọi liên lạc với thành phố đều bị cấm”. Đó là tiếng anh cán bộ trực và anh ta cúp máy.

    Cuộc rước ngày 15 tháng 8

    Năm giờ sáng thánh lễ đồng tế trong căn phòng của khách sạn Caravelle sang trọng mangmột khung cảnh và một bầu khí hang toại đạo. Mỗi vị  đều biết rằng mình cử hành thánh lễ lần cuối cùng tại Việt Nam, trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Niềm vui, niềm vui, niềm vui trong nước mắt nhưng không ai nghĩ tới việc dấu diếm. Các tâm hồn và con tim, như lời nguyện nhập lễ xin, ad superna semper intendi — hoàn toàn qui hướng về những sự Trên Cao. Khi đó thì có quan trọng gì các cuộc bách hại, tù đầy, trục xuất ra khỏi một vùng đất này hay vùng đất khác, nếu đôi mắt chỉ nhìn Trời thôi? Chính những người còn ở lại đó, trong chế độ duy vật, là đáng than khóc.

    “Xin cho con đem yêu thương vào nơi oán thù”

    Viên cán bộ đáng thương triệu tập các người bị trục xuất cho một cuộc họp mới để bắt ký “đơn xin ra đi” nổi tiếng, khiến cho người ta phải thương hại, và các nạn nhân của ông ta đã đồng ý với nhau để thay đổi tựa đề “đơn xin ra đi” bằng các lời này: “Tuyên bố của những người bị trục xuất bởi chính quyền”. Ông ta nhượng bộ chấp thuận, chắc chắn là vì đã nhận được lệnh.  Những gì còn lại của mẫu đơn chỉ liên quan tới các vấn đề căn cước, trừ hàng cuối cùng: “Quý vị có ý định trở lại Việt Nam không?” Tất cả đều đồng thanh la lên: “Có, và càng sớm càng tốt” Viên cán bộ muốn thêm vào: “Nếu chính quyền cho phép” – Từ chối! – “Tại sao”? – “Bởi vì đó là điều hiển nhiên” một cha trả lời với một chút mỉa mai. Ông ta cũng nhượng bộ “những ý muốn cuối cùng này”.

    Vài phút sau còn có một chuyện ý nghĩa nữa xảy ra. Có ai đó gõ cửa phòng Đức Cha Seitz: đó là ông ủy viên, lần này chỉ có một mình. Ông đến xin một chứng tá về cách cư xử tốt của mình, và việc các người tù không có trách cứ nào đối với ông và các nhân viên của ông. Đức Cha lịch sự mời ông ngồi và với cung giọng của bậc thầy và của linh mục, nghiêm trang mà vẫn thân tình, Ngài cho ông một bài học có thể khiến ông suy nghĩ:

    Thưa ông, ông có ý thức được sứ mệnh mà ông đã được giao phó không? Ông tiêu hủy ba trăm hai mươi năm (320 năm) sự hiện diện, mà mọi người Việt Nam biết là đã có lợi cho đất nước; và ông làm điều này bằng cách trục xuất như một tên tội phạm vị Giám mục cuối cùng chứng nhân của lịch sử dài này. Con người của chúng tôi không quan trọng: chúng tôi không đáng kể! Nhưng ngoài sự vô nghĩa của chúng tôi, cử chỉ của ông là một lời phỉ nhổ vào các anh em Công giáo Việt Nam, cũng ái quốc như các ông, các ông biết điều đó. Nó là một dấu chứng của sự khinh bỉ đối với mọi tín hữu Công giáo trên thế giới và thủ lãnh của họ là Đức Giáo Hoàng. Những người không Công giáo tại Việt Nam, mà chúng tôi tôn trọng, họ biết và đánh giá cao sự kiện Ki–tô giáo trong đất nước của họ, cũng không đồng ý với điều các ông làm; tôi đã sống quá lâu trên quê hương của các ông để không quên các tâm tình của họ.

   Tôi xin ông chuyển lời phản đối mạnh mẽ nhất của tôi tới các cấp lãnh đạo của ông, và sự tiếc nuối của tôi về quyết định của họ. Chiến thắng rực rỡ của họ không cần đến điều này, và điều này cũng chẳng làm cho họ to lớn hơn trước mắt thế giới!

   Người máy đã ngồi đó cứng đờ như thép trong suốt bài giảng; không một bắp thịt nào trên gương mặt ông diễn tả một tí tình cảm nào. Ông trả lời một cách máy móc:

   Các lãnh đạo cao cấp trong chính quyền của chúng tôi đã phân tích tình hình một các toàn vẹn trước khi hành động. Tôi sẽ chuyển tới họ những lời nói của ông. Tôi có bổn phận phải thi hành mệnh lệnh của họ.

    Đấy một đồ đệ trung thành của Lenine và Staline. Người ta có thể sai ông ta bắn một phát súng lục vào đầu mỗi người, ông ta sẽ làm một cách lạnh lùng, không bối rối lương tâm. Đức Cha Seitz bắt tay ông ta, không oán hờn,

    như bắt tay một người bạn cũ, Ngài nói, vì trong ông ta, tôi trông thấy cả một đất nước Việt Nam mà tôi yêu mến và nay đang bước vào một cuộc mạo hiểm lâu dài và khủng khiếp.

    Trong buổi sáng, Đức Cha được báo nghe điện thoại: người ta đã chuyển cho Ngài cuộc gọi của ông M. Drumez, chỉ là một tùy viên sứ quán Pháp. Ông này nói ông vừa mới nhận được tin, do một người ẩn danh cho biết Đức Cha và các thừa sai bị trục xuất, và ông kêu lên sự phẫn nộ của mình. Nhưng chính là với nhà cầm quyền hiện tại mà ông phải kêu chứ! Và qua giọng điệu nói chuyện, người ta cảm thấy kịch bản đã được sắp xếp trước; do đó, Đức Cha chỉ cảm nhận nỗi buồn và sự nhục nhã đối với nước Pháp đáng thương.

    Giờ thứ bẩy mươi bốn đã điểm: phái đoàn thành hình trở lại và trực chỉ hướng phi trường. Các thủ tục công an, hải quan, khám xét hành lý mau chóng kết thúc: vả lại hành lý rất nhẹ nhàng… Lãnh sự Pháp, ông M. Dilleman đứng đó, có hai cha Vuillemin và Leoni đồng hành. Các vị được phép tới chào Đức Giám Mục của họ. Thế rồi, vẫn luôn được bộ đội và cán bộ bao quanh, mười hai người bị trục xuất tới gần chân thang máy bay. Bất chợt Đức Cha Seitz nhận ra:

    Nhưng xem này, cuộc rước kiệu ngày 15 tháng 8 mà đồng chí Dân đã đề nghị với chúng ta: nó đây! Đúng là hài hước đỏ!

    Các đèn chớp nổ lách tách trong khi viên cán bộ, với một nụ cười toang hoác, nồng nhiệt bắt tay từng người bị trục xuất: vì mục đích tuyên truyền, cần phải có chứng tá này về sự đồng thuận và về một sứ mệnh đã hoàn tất tốt đẹp. Đồng điệu với con tim của các hành khách, máy bay cất cánh rời mảnh đất Việt Nam.

    Các “tội ác” của Đức Cha Seitz và các thừa sai của Ngài

    Chỉ sau khi chắc chắn là những kẻ bị trục xuất của chúng đã thực sự đi rồi, các loa phóng thanh mới phổ biến trong thành phố Kontum và báo chí mới công bố tám điểm tố cáo chống lại các vị.

THÔNG CÁO CỦA SỞ THÔNG TIN VÀ VĂN HÓA TỈNH KONTUM

    Các người ngoại quốc vừa mới bị trục xuất ngày 12 tháng 8 và có tên dưới đây:

    Paul Seitz, André Marty, Léon Dujon, Marcel Arnould, Joseph Curien, Gabriel Brice, Olivier Deschamps, Edrich Baker, George Cristian, Raphaelle Cormier, Marie-Renée Legal, Cecile de Boissy, đã phạm các tội ác sau đây (tóm tắt):

đã tuyên truyền chống cộng sản;
từ năm 1954, đã cố gắng tách rời dân chúng khỏi những người ái quốc;
đã cộng tác với Mỹ để thực hiện các trại tập trung, các ấp chiến lược;
đã kích động người trẻ, các tàn binh, các kẻ phản loạn trốn vào rừng hoặc trà trộn vào đám đông quần chúng để gây chia rẽ, gieo rối trật tự và bất ổn, phạm các tội giết người.
chúng đã dùng nhà thương Minh Quý làm trung tâm liên lạc và kho chứa khí giới, máy truyền tin, thực phẩm và thuốc men dành cho các kẻ phản loạn trong rừng.
chúng thường xuyên bóp méo tư tưởng của những người điều hành chính sách của cách mạng.
chúng đã liên lạc và kích động các tên phản động ngụy trang, những kẻ bất mãn, để biến chúng thành công cụ chống đối nhân dân và làm hại đất nước.
chúng lợi dụng nhiệm vụ và chức vị tôn giáo, các công việc từ thiện, để che dấu bản chất thực sự của chúng và các hoạt động đế quốc.
Bởi thế chúng bị tuyên bố là thủ phạm gây ra các tội ác của chủ nghĩa đế quốc và phản động, các tội ác đáng bị bỏ tù và xử tử. Nhưng nhân dân Việt Nam khoan hồng nên đã ra lệnh trục xuất những tên nước ngoài đế quốc này.

                              Kontum ngày 13 tháng 8 năm 1975

 

[1] Xem Le Temps des Chiens muets (Tạm dịch: Thời Những  Con Chó câm), tr. 178 và tiếp

 ******************************************

CHƯƠNG XIV

SỨ MỆNH TIẾP TỤC

(1975-1984)

 

Khi đáp xuống phi trường Roissy sáng ngày 16 tháng 8, Đức Cha Seitz và các bạn đồng hành nghĩ rằng sẽ có một “ủy ban đón tiếp”, ít ra là cũng tương tự như cái ủy ban khi các vị rời Sài Gòn. Giám mục là một nhân vật quan trọng, nhất là trong một nước Công giáo như nước Pháp. Hơn nữa lại bị đuổi đi một cách nhục nhã ra khỏi một cựu thuộc địa của Pháp, nơi mà Ngài đã tận tâm phục vụ một cách anh hùng suốt gần bốn mươi năm qua, thì Ngài đáng được hưởng những vinh dự xứng đáng với địa vị của Ngài  – những vinh dự đã được chính thức thừa nhận qua việc trao huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh – cũng như những lời tôn vinh cảm tạ của đất nước quê hương.

Các thành viên của chính quyền có ra tận chân thang máy bay để tiếp đón Ngài hay không đây? Cánh nhà báo và phóng viên nhiếp ảnh, chắc chắn là có rồi, để trên báo chí người ta còn trông thấy nhóm người bị trục xuất khỏi Việt Nam này chứ, những kẻ thoát nạn cuối cùng của cuộc chiến khủng khiếp đã khiến đổ ra biết bao nhiêu máu và mực từ nhiều năm qua. Lúc tới nơi, sau một đêm chập chờn không ngủ trên máy bay, kẻ bị trục xuất lại sắp phải trả lời các câu hỏi, và làm mặt tươi tỉnh trước ánh đèn chụp hình đây…

Không có ai cả! Không có ai tiếp đón các vị! Lần lượt bước xuống thang máy bay, các vị hết quay bên trái lại nhìn sang bên phải: không thấy ai quen biết, không một khuôn mặt nào mỉm cười với mình, không một bàn tay nào đưa ra để nắm bắt. Chắc là còn đau đớn và bẽ bàng hơn lúc rời khỏi Sài Gòn…

Đức Cha phản ứng: Nói cho cùng thì đó là chuyện bình thường thôi. Chúng ta chẳng phải là đầy tớ của một Vị Thầy mà vương quốc không thuộc về thế gian này và đã một mình cô đơn trong vườn Cây Dầu hay sao?

Hơn nữa, vẫn còn sớm mà, hôm ấy là thứ bảy, sau ngày 15 tháng 8, mọi người còn đang ngủ, vì được nghỉ từ thứ sáu và chuẩn bị đi tắm nắng ngoài bãi biển. Đó là những cảm giác đầu tiên, thật hụt hẫng, mà các vị bị trục xuất của chúng ta có về nước Pháp, một đất nước kiệt lực.

Tuy nhiên, cũng có một bất ngờ thú vị: gương mặt thân quen của anh Jean-Claude Diderot, sáng lập viên tổ chức Enfants du Mékong (Trẻ em vùng sông Cửu Long), xuất hiện: Chúa Quan Phòng đã cho phép anh hiện diện ở đó mà anh không hề ngờ đến cuộc gặp gỡ sắp xảy ra, và sự khích lệ mà nụ cười của anh mang lại cho những người vừa mới tới.

Với hành lý khiêm tốn trong tay, như những bần cố nông, các vị leo lên một chiếc xe bus đưa họ tới gần đường Du Bac, và họ chia tay nhau tại đây: các Nữ Tử Bác Ái về Nhà mẹ ở số 140, còn các Cha về nhà Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris ở số 128. Các Ngài tìm lại được sự tiếp đón huynh đệ, tổ ấm, một bầu khí an bình mà đã từ rất lâu rồi các Ngài không được biết đến. Ngay khi vừa tới, các Ngài có thể dâng thánh lễ tại tầng hầm nhà nguyện, mà không bị các vụ nổ hay gió lốc cắt ngang. Đây là nơi an nghỉ của Đức Cha Francois Pallu, vịđại diện Tông Tòa đầu tiên của miền Bắc Việt Nam, và là một trong các vị sáng lập Hội Thừa Sai. Trong thánh lễ đồng tế này, Đức Cha Seitz chứng tỏ cho các chiến hữu thấy rằng Ngài vẫn giữ nguyên sức mạnh tinh thần. Ngài tuyên bố:

Sứ mệnh hoàn thành, đúng thế. Sứ mệnh tại Kontum hoàn thành. Nhưng sứ mệnh vẫn còn tiếp tục ở đây, tại Pháp, và chúng ta phải là chứng nhân về những khổ đau của những người mà chúng ta đã phải bỏ lại.

Đây cũng là lần đầu tiên, sau một thời gian rất lâu, các Ngài có thể dùng bữa trưa mà không có sự canh chừng của lính vũ trang, và được ngủ đêm dưới một mái nhà không bị bom đạn chọc thủng và nước mưa lọt vào.

Nhưng… chẳng phải là các Ngài vẫn cứ thích cái cảnh không tiện nghi và khắc khổ này hơn hay sao? Đó chẳng phải là ơn gọi của các Ngài hay sao?… Trong giờ phút này đây, có gì mà các Ngài lại sẽ không cho đi để được hòa mình sống tiếp giữa các gia đình anh em Thượng, đang ca hát và cầu nguyện?

Tiếng đồn các thừa sai trở về lan nhanh tại Paris, và chẳng mấy chốc Đức Cha Seitz được anh Pierre và chị Annette tới thăm. Chị Annette viết trong nhật ký:

Ngày 16 tháng 8, tôi đã thấy Cậu trở về – mà lần này tôi lại không hề nhỏ một giọt nước mắt nào, xin hãy tin tôi đi (xin nhớ rằng khi nghe tin Cậu Paul vào chủng viện, chị đã khóc ròng rã bốn ngày đêm liên tiếp) – Cậu bị bọn cộng sản nay làm chủ toàn vùng Đông Dương trục xuất, hai bàn tay trắng, không có chút hành lý nào, trong chiếc áo dòng kiểu Việt nam mầu xám, chân đi xăng đan không vớ, gầy xọp và buồn vô hạn, nhưng luôn luôn đứng thẳng, đầy tâm hồn thừa sai hơn bao giờ hết, như các hoạt động tại Pháp của Cậu ngày nay còn cho thấy.

Đức Cha đã tiếp một người Việt tỵ nạn tại Pháp, như biết bao người Việt tỵ nạn khác, đến thăm. Đối với Ngài đó là một dấu chỉ rằng Ngài sắp phải lo cho hàng ngàn người, hàng chục ngàn người tỵ nạn đã trốn chạy và thành công, người thì tới Pháp, kẻ thì tới Hoa Kỳ hay Nam Mỹ, người khác nữa tới Philippines. Nhưng đâu là con số những người chạy trốn đã chết trên biển cả, các anh chị em thuyền nhân này, mà các phương tiện truyền thông đã quan tâm đưa tin một thời gian, nhưng rồi đã biến mất khỏi màn hình? Những người chết không lên tiếng…

Đức Cha âu lo vì các tin tức đến được từ Việt Nam, và tin đầu tiên là việc Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tân Giám Mục Phó giáo phận Saigon bị bắt, với cùng một kiểu dàn cảnh và sự xảo trá giả hình mà chính Ngài và các cha bạn đã hứng chịu.

Đức Cha Thuận đâu ngờ rằng chính trong cùng giờ Ngài bị bắt, tất cả các linh mục ở Sài Gòn đã nhận được lệnh triệu tập – xin lỗi “được mời đến” –Quốc Hội cũ của thành phố ngày 15 tháng 8 lúc 3 giờ chiều. Có phải là để dùng trà, như cho chính các Ngài, cùng với công an đi kèm hay không?… Hay là để làm một cuộc rước kiệu và hát kinh chiều lễ Đức Mẹ Lên Trời?…

Lúc 13 giờ cùng ngày 15 tháng 8 trong lúc máy bay chở Đức Cha Seitz rời phi đạo, thì Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, lúc ấy đang ngụ tại đại chủng viện, thấy mấy công an chìm đến trao cho Ngài một “giấy mời” của chính quyền, với biên nhận hẳn hoi, mời Ngài đến dinh Độc Lập, tức dinh tổng thống cũ, vào lúc 15 giờ đúng. Ô! Vào đúng giờ mà các linh mục ở Sài Gòn phải tụ họp tại tòa nhà Quốc Hội… Đó chẳng phải là để cho các vị này không hay biết gì về điều sắp xảy ra hay sao?…

“Ông bị bắt. Mời ông đi theo công an”. Một chiếc xe với bốn người đã đợi Đức Cha ở cổng lớn; một chiếc xe díp và một xe cam nhông đầy bộ đội vũ trang đi mở đường. Mười ba năm tù hay quản thúc mở ra trước mắt Ngài. Nhưng đó cũng là “Đường Hy Vọng” [1].

Các biến cố này, cũng như các cuộc tiếp xúc đầu tiên tại Paris, soi sáng cho Đức Cha Seitz về các bổn phận giờ đây đang chờ đợi Ngài với tư cách là thừa sai cũng như là cựu giám mục tại Việt Nam:

Giữ mối liên lạc với vùng đất truyền giáo của mình, nhưng không can thiệp gì vào quyền năng của người kế vị tại Kontum; dẫu sao thì vị này chẳng bao lâu sau đã được Tòa Thánh xác nhận là giám mục Kontum – chứ không còn là phó nữa.
Đi thăm hai mươi mốt trẻ em người Thượng mà Ngài đã giao phó cho các gia đình bên Pháp, và các em đã vui mừng biết bao khi được gặp lại người mà chúng coi như vị ân nhân lớn nhất, và một phần nào giống như là ông nội nuôi của mình.
Tìm kiếm và trợ giúp biết bao người Việt tha phương giờ đây đang sống rải rác trên toàn thế giới.
Nhưng có một sứ mệnh đang chờ đợi Ngài ngay lập tức mà Ngài không thể và không muốn thoái thác: đó là làm chứng. Đây là điều chính yếu trong tâm trí Ngài. Phải làm chứng về những gì Ngài đã trông thấy tận mắt, về những gì Ngài đã chịu đựng trên thân xác mình, và chẳng phải riêng Ngài thôi, mà còn hơn thế nữa là các anh em linh mục của Ngài, và nhất là các Ki-tô hữu thuộc quyền, cũng như mọi dân tộc nơi vùng đất mà Ngài đã sống từ bao thập niên qua; phải làm chứng về những gì họ đã gánh chịu do cuộc chiến bất công, do việc chiếm đóng, do các bách hại từ phía quân xâm lược cộng sản; phải làm chứng nhân danh những người đã chết vì chiến tranh; phải làm chứng về các vụ ám sát chính trị, về những người bị thương và mất đi một phần thân thể, về các vụ bắt giữ, về các trại cải tạo và trại tử thần, đó là chưa nói tới các tàn phá hàng loạt, các trận đói được lên kế hoạch trước, các tội ác ghê tởm chống lại gia đình, trẻ em, thanh niên thiếu nữ; và còn phải làm chứng về các vụ trưng dụng cưỡng bức, cướp bóc kho gạo, những sự kết án gian dối với các vụ ép buộc thú tội công khai, các tòa án nhân dân, các vụ đấu tố kèm thêm nhục hình nhằm để bắt nhận những tội mà mình không hề phạm.
Tất cả những điều đó nhân danh ý thức hệ mác xít và cộng sản, mà một trong các mục đích chính yếu là nhổ tận gốc mọi tôn giáo, mọi mối dây gia đình, mọi quyền tư hữu để cho một mình chủ nghĩa duy vật lên ngôi.

Báo chí và truyền thanh

Chẳng bao lâu sau, báo chí Paris chú ý tới việc trục xuất Đức Cha Seitz và anh em linh mục của Ngài: Nhật báo La Croix (Thập giá) số ra ngày 19 tháng 8 tường trình biến cố. Nhật báo Le Figaro (Người thợ hớt tóc) số ra ngày 23 tháng 8 cũng thế, bằng cách đưa ra một cái nhìn tổng quát về tình hình tại Việt Nam khi viết:

Với 1.800.000 giáo dân (chiếm 10% dân số), 22 giám mục, 2.000 linh mục, 5.000 nữ tu, các cơ sở bác ái xã hội, y tế và giáo dục, Giáo Hội được xem là một lực lượng quan trọng. Tuy nhiên, sự sụp đổ của chế độ tổng thống Thiệu và cảnh tháo chạy hồi tháng 6 đặt Giáo Hội vào một hoàn cảnh hoàn toàn mới mẻ, đối diện với một chế độ phát xuất từ chủ nghĩa mác-lê, vốn đã cai trị hai mươi bốn triệu dân miền Bắc.

Mặc dù bỏ quên các vụ tàn sát hàng chục ngàn nhân vật miền Nam, hệ quả từ việc xâm lăng của những người miền Bắc, nhà báo thừa nhận rằng hiện nay

có việc phân chia phường khóm do công an kiểm soát nghiêm nhặt, tới độ không ai có thể di chuyển mà không cần phép của chính quyền, và việc thành lập các trại “cải tạo”, trong đó đã có hàng triệu công chức, sĩ quan … bị tống giam.

Nhật báo Le Figaro nói rõ ràng là có “hàng triệu”.

Trong lúc này, giữa cơn thử thách, Giáo Hội chứng tỏ có sự đồng nhất lớn lao về đức tin, việc vâng phục các giám mục hay lòng trung thành của mình với Roma. Giáo Hội vốn biết rằng chẳng bao lâu nữa mình sẽ chỉ còn có thể cậy dựa vào nội lực của mình thôi. Việc ra đi của khoảng một trăm mười sáu linh mục và tu sĩ ngoại quốc chỉ còn là vấn đề thời gian: sự hiện diện của các thừa sai ngoại quốc chưa hề bao giờ được khoan nhượng trong chế độ cộng sản. Rất may cho Giáo Hội Việt Nam là từ lâu đã có hàng giáo sĩ và giáo phẩm của mình. Tới lượt mình nó lại còn trở thành một Giáo Hội truyền giáo nữa.

Việc trục xuất các thừa sai sẽ gia tăng trong những tuần lễ tiếp theo. Sau các thừa sai Kontum tới phiên các thừa sai Ban Mê Thuột, Huế, Đà Nẵng. Kịch bản cho mỗi nhóm đều giống nhau.

Sau kỳ nghỉ hè, nước Pháp xem ra bừng tỉnh khỏi cơn mê. Ngày 12 tháng 9, tuần san France-Catholique-Ecclesia (Giáo Hội công giáo Pháp) cho đăng một bài phỏng vấn Đức Cha Seitz rất dài. Với sự minh bạch và chính xác thường có, chứ không phải thứ sáo ngữ trống rỗng vô nghĩa, Đức Cha trình bầy tình hình trong vùng đất truyền giáo của mình, như Ngài đã sống. Rồi Ngài trả lời cho câu hỏi:

Cộng đồng Ki-tô giáo sẽ có thể sống còn hay không?
Chắc chắn rồi! Cả khi các nhà thờ sẽ bị đóng cửa, và mọi công trình Công giáo bị hủy bỏ, có thể Giáo Hội không còn hiện hữu như cộng đoàn hữu hình, nhưng nó sẽ còn sống mãi trong trái tim của từng tín hữu. Từ lâu các thừa sai đã chuẩn bị cho các gia đình, các bậc cha mẹ, ông bà nội ngoại, trở thành những người giữ gìn đức tin trong trái tim của các trẻ em, trở thành giáo lý viên, sống một cuộc sống gia đình Ki–tô đích thực. Như vậy Giáo Hội sẽ hiện diện giữa lòng tế bào gia đình này.
Đức Cha Seitz muốn theo đuổi sứ mệnh của Ngài như thế nào? Nhà báo hỏi. Ngài đã phải rời đi, tất cả các thừa sai của Ngài cũng vậy, nhưng Ngài để lại vị giám mục phó mà Ngài đã cẩn trọng đặt để làm người kế nhiệm; ở đó có một hàng giáo sĩ bản xứ đầy tinh thần trách nhiệm, ý thức và có khả năng, sẽ tiếp tục công trình đã khởi sự.

Riêng phần Đức Cha, sau ba mươi tám năm thi hành sứ vụ tại Việt Nam, bây giờ Chúa Thánh Thần gửi Ngài đi nơi khác. Chỉ còn lại cho Ngài lời cầu nguyện và, với trái tim tan nát, dâng hiến nỗi khổ đau của mình làm lễ vật.

Có lẽ trong chính những giờ phút đó chúng tôi trở nên hữu hiệu nhất. Bởi thế chúng tôi sống trong bình an. Tôi biết rằng đức tin đã được trồng vững chắc tại Việt Nam, và sẽ không gì đánh gục được nó. Giáo Hội có thể phải đau khổ và Giáo Hội sẽ đau khổ. Nhưng sẽ không gì có thể nhổ tận gốc rễ đức tin. Và điều mà tôi biết về tình hình thực sự tại miền Bắc Việt Nam cho phép tôi nói rằng đức tin ở đó rất sống động. Nó cũng sẽ sống động như thế ở miền Nam.
Thưa Đức Cha, Đức Cha sẽ nói gì với các Ki–tô hữu Pháp khi gặp lại họ sau ba mươi tám năm sống tại Việt Nam?
Tôi lo sợ cho anh chị em, nếu anh chị em không tỉnh thức và cầu nguyện.
Các chuyến du hành của Đức Cha Seitz

Như vậy là báo chí Pháp đang lắng nghe vị Giám mục bị trục xuất, và công chúng được cảnh giác, chú ý tới chứng tá của Ngài. Đức Cha quyết định lên tiếng, thậm chí là la to lên, để cho thế giới Tây Âu thức tỉnh, phản ứng và tác động. Các giới chức lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo rõ ràng tỏ vẻ thờ ơ, nếu không muốn nói là khó chịu. Đối với họ, giờ đây vẫn đang còn là lúc đối thoại với Đông Âu, cười tươi, theo phong trào đổi mới; vậy mà mấy ông thừa sai này lại đi kể những tàn ác vi phạm trong một quốc gia xa xôi, trong lúc người ta đang muốn quên đi, mấy ông đúng là những người hơi quấy rối; mấy ông đã chẳng phóng đại hay sao? Mấy ông chẳng phải là những kẻ thủ cựu hay sao? Cái từ (thủ cựu) “đáng ghét” đó được gán cho Đức Cha Seitz, và Ngài chỉ nhún vai!

Ở ngoại quốc, thái độ đối với “người bị dán nhãn thủ cựu” này, may mắn là rất khác: các Hội Đồng Giám Mục Tây Đức và Ý khao khát có được các tin tức đầu tay liên quan tới những gì thực sự xảy ra tại vùng Viễn Đông, và mời vị Giám mục bị trục xuất đến nói chuyện. Đức Cha được tiếp đón trong cả hai nước như một vị tuyên xưng đức tin, được chăm chú lắng nghe; và các phương tiện truyền thông phản ảnh rộng rãi chứng tá của Ngài. Ngài cũng có niềm vui tìm lại được một nhánh của gia đình Seitz, đã trở thành dân Đức khi vùng Alsace bị chia cắt vào năm 1871, và họ rất hãnh diện vì trong dòng tộc mình có một Giám mục.

Tiếp kiến Đức Phaolô VI

Bên Ý, dĩ nhiên trước hết Đức Cha muốn trình diện Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, cũng như với Bộ Truyền Giáo để tường trình về những gì Ngài đã trông thấy, về những gì các anh em linh mục của Ngài đã chứng kiến và gánh chịu, về tình hình của Giáo Hội tại Kontum, và những gì Ngài đã làm tại chỗ cho tới ngày cuối cùng. Ngài được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến riêng ngay ngày 25 tháng 9, và Ngài nhắc lại việc Ngài tấn phong giám mục (cho Đức Cha Lộc-ND) ngày 27 tháng 3, một việc mà Ngài nghĩ là rất nên làm, phù hợp với các chỉ thị nhận được từ Roma: Đức Giáo Hoàng tán đồng và cám ơn Ngài, đồng thời bảo đảm chia sẻ các đau khổ của những vị bị trục xuất cũng như của những người còn ở lại Việt Nam.

Đức Cha nói với Đức Giáo Hoàng: đối với những người còn ở lại Việt Nam này, bây giờ là một Giáo Hội thầm lặng, một Giáo Hội bị đóng đinh. Hòa bình được trao cho họ là một thứ hòa bình cũng không thể chịu đựng nổi và cũng đáng ghét như chiến tranh: đó là việc nô lệ hoá con người, thực sự biến họ thành nô lệ.

Có một sự kiện đau đớn khác là sự ra đời của cái gọi là “Giáo Hội yêu nước”, đang manh nha tại miền Nam, với sự tham gia của các linh mục cấp tiến, cũng may là nhóm này rất ít, nhưng nguy hiểm hơn ở miền Bắc, vì họ thông minh hơn.

Ngài cũng đề cập đến chuyện chính quyền dân sự xen vào việc quản trị Giáo Hội, một sự kiện đã được biết đến nhiều là việc quản thúc Đức Cha Thuận, rồi việc đóng cửa Giáo Hoàng Học Viện Pio X, nơi có một trăm sáu mươi thầy đại chủng sinh, và con số các ứng sinh còn gấp đôi số đó, cũng như việc đóng cửa phần lớn các tiểu chủng viện.

Tuy nhiên, bên cạnh việc bách hại này cũng có các khía cạnh tích cực, mà Đức Cha Seitz muốn nhấn mạnh với Đức Giáo Hoàng:

Không có một giám mục bản xứ nào, trừ Đức Cha Thuận, đã phải bỏ nhiệm sở của mình.
Trong số khoảng 2.000 linh mục, chỉ có chừng 100 vị đã ra ngoại quốc.
Người tín hữu công khai tuyên xưng đức tin của mình. Người ta vẫn còn ghi nhận các cuộc trở lại đạo.
Trong đa số các giáo phận, việc kế nhiệm giám mục đã được bảo đảm với các giám mục phó.
Giáo hội Công giáo Việt Nam với tỷ lệ 10% dân số biểu hiệu cho một sức mạnh của ý chí và đức tin đáng kể, mà chế độ mới cần phải lưu tâm.
Tính cách mềm dẻo đặc biệt của dân tộc Việt Nam sẽ biết kiên nhẫn chờ đợi và vượt các khó khăn. Các chủ nhân mới từng phải thừa nhận rằng Giáo hội Công giáo là cơ cấu duy nhất đã không chỉ sống còn sau sự sụp đổ của Miền Nam, mà còn duy trì được phẩm giá và một sự đoàn kết đáng kể.
Đức Cha kết thúc việc trình bầy với Đức Phaolô VI bằng cách kín đáo ám chỉ rằng sẽ thật thích hợp, mà không khuấy động các tiếp xúc ngoại giao khó khăn và bấp bênh với cộng sản – vì Đức Cha biết ước mong của Đức Giáo Hoàng, và nhất là của vài nhân vật trong giáo triều, đó là đối thoại với Mạc Tư Khoa – sẽ thật thích hợp khi nhắc lại cho các Ki-tô hữu biết sự xung khắc nền tảng giữa ý thức hệ mácxít và đức tin Ki-tô giáo. Ngài nói:

Ngày nay có quá nhiều tâm trí bị xao động, tới độ nghĩ và loan truyền rằng Giáo Hội đang hướng tới việc chấp nhận triết học mácxít cùng các hậu quả của nó.

Đức Cha trao cho Đức Giáo Hoàng một Bản Ghi Nhớ, tóm tắt một tài liệu chi tiết hơn tựa đề Điều chúng tôi đã thấy và đã sống mà Ngài sẽ trao cho Đức Hồng Y Casaroli (Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh) vào ngày 29. Đức Cha Lộc sẽ được xác nhận là giám mục toàn quyền của giáo phận Kontum ngay từ ngày mồng 2 tháng 10 và trong cùng ngày đó, Đức Cha Seitz sẽ hết nhiệm vụ. Bây giờ tước vị của Ngài sẽ là gì? Trong giới thân cận của Đức Giáo Hoàng, người ta suy tính cho Ngài làm “đại diện toà thánh đặc trách người tỵ nạn vùng Đông Nam Á”, điều này sẽ trao cho Ngài một vị thế chính thức, và cho phép Ngài đảm nhận một vai trò hoàn toàn phù hợp với mình. Đức Giáo Hoàng đã sẵn sàng chỉ định Ngài vào chức vụ này, thì lại có những tiếng gầm gừ giận dữ đến từ nước Pháp: Roma đã phải lùi bước! Bởi thế, tước hiệu của Ngài sẽ chỉ đơn sơ là “Cựu Giám Mục Kontum” – điều này không hề làm cho Ngài buồn lòng: đó chẳng phải là một trong số những “danh thiếp” vinh dự nhất hay sao?

Lên truyền hình

Sau khi từ Ý trở về, cuối cùng Đức Cha được mời tham dự một chương trình chính thức trên đài truyền hình Pháp. Cách đối đáp của Ngài đã gây ấn tượng mạnh trên công chúng, như nhà báo Michel Eschivard thuật lại:

Chúng tôi nín thở, khi người ta nhường lời cho Đức Cha Seitz, giám mục Kontum, giám mục của người Thượng vùng Cao Nguyên. Chứng tá sống động của người bị trục xuất ngày 15 tháng 8 đã được trình bầy với biết bao tư cách, rõ ràng, trầm tĩnh và can đảm, trong một bầu khí thinh lặng đầy ấn tượng (Ngày 15 tháng 8 lại đã không được lựa chọn một cách cố ý hay sao?).

“Ba tháng sống dưới chế độ, vì trên Cao Nguyên chúng tôi đã được giải phóng ngày 18 tháng 3. Từ ngày 18 tháng 3 cho tới 15 tháng 8, tôi đã sống dưới chế độ”
“Đã có những thay đổi gì?”
Một cách chính xác như thể là hành tinh đã đổi trục. Một cuộc cách mạng. Ngay từ lúc chúng tôi được giải phóng, chúng tôi không còn biết sự tự do là gì nữa, và khi tôi nói chúng tôi, có nghĩa là các linh mục Việt nam, có nghĩa là toàn dân, Công giáo cũng như không Công giáo, tất cả chúng tôi đã nếm trải những hạn chế nghiêm nhặt đối với việc thực thi quyền tự do.”
Rồi Đức Cha kể lại các sách nhiễu, các tội ác do người cộng sản gây ra, sự khủng bố, lòng thù hận mà họ gieo rắc khắp nơi. Đức Cha và các người cộng sự của Ngài trước đó đã như cá trong nước giữa người Thượng, sống rất hòa đồng với dân, rất gần gũi với cảm nghĩ, âu lo và con tim của họ; và đó là một trong những lý do khiến cho các vị bị trục xuất. Chế độ cộng sản không hề muốn có các chứng nhân gây phiền toái, các chứng nhân biết nhiều tin tức. Và đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho sự am hiểu của Đức Cha về tình hình bên đó bây giờ bị phản đối tại Pháp.

Các buổi diễn thuyết

Kể từ đó “phe tả” Pháp bắt đầu hùng hổ tấn công Đức Cha. Một người phản đối coi việc làm của Đức Cha là “cực kỳ bất lương, sai trái và giả hình”. Nhanh như trở bàn tay, cha Rannou sẽ nói thế, Ngài bị xếp loại, dán nhãn – trong chính trị thì chắc chắn Ngài thuộc “phe hữu”, – trong tôn giáo thì không nghi ngờ gì nữa, Ngài đúng là “thủ cựu”, – còn về phương diện tinh thần thì đương nhiên, Ngài đang “tụt hậu”. Thế là trước mặt Ngài, người ta đóng cửa, quay lưng. Đức Cha Seitz đã được một nhóm giáo dân mời diễn thuyết trong giáo phận Toulon, nhưng giám mục sở tại là Đức Cha Gilles Barthe đã yêu cầu giáo dân không tham dự và thậm chí còn cấm các linh mục hiện diện, để khỏi chứng tỏ là mình đứng ra bảo lãnh cho vị diễn giả bị dán nhãn “chống cộng sơ đẳng” này. Tuy nhiên, người ta sẽ phải nhanh chóng thừa nhận sự sáng suốt của Đức Cha Seitz, và cả việc đóng góp của Ngài cho cú đột phá của Đức Gioan Phaolo II, là người sẽ triệt hạ Bức Tường Berlin.

Rất may là còn nhiều cánh cửa mở ra trước mặt Đức Cha. Ngài được mời nói chuyện, đưa ra các lời khuyên, viếng thăm người tỵ nạn, nâng đỡ các phong trào giới trẻ, như hướng đạo chẳng hạn.

Các buổi diễn thuyết của Ngài có đông người tham dự: các giáo sĩ, người trí thức, giới chức quân sự, chính trị và cả thường dân. Các lời nói của Ngài đánh động, vì ngôn ngữ của Ngài đơn sơ: ngôn ngữ của một chủ chăn nói với tất cả mọi người; tiếng nói của Ngài là tiếng nói của một ngôn sứ loan báo sự thật; con tim của Ngài là con tim của một người cha yêu thương, và người ta cảm nhận được tất cả tình yêu Ngài đã dành cho và vẫn luôn dành cho người tín hữu Việt Nam của mình, dù họ đang ở bến – bờ nào.

Một trong những buổi diễn thuyết của Ngài đã gây tiếng vang lớn, là buổi diễn thuyết ở nhà các nữ tu thánh Vincent-de-Paul (Vinh-Sơn) tại Paris, trước một cử tọa được tuyển chọn. Ngay từ đầu, Ngài xác định rằng mình không làm chính trị, và không có chính trị nào khác ngoài chính trị của Kinh Lạy Cha: “Xin cho nước Cha trị đến!”. Và điều này chỉ xảy ra trong một đảng duy nhất là đảng của Chúa Ki-tô, có một không hai và không cần trợ lực. Tuy nhiên, Ngài không ngần ngại thừa nhận các sự kiện lịch sử của Việt Nam, với những yếu kém trong chế độ thực dân Pháp, là lý do khiến nó bị những người Việt Nam ái quốc khước từ, và một phần nào đó, gây nên cuộc chiến dai dẳng chỉ vừa mới chấm dứt gần đây.

“Một thuộc địa được cai trị tốt nhất thiết phải hướng tới việc nó được giải phóng; nếu không thì nó đã bị cai trị dở”, ông Lyautey, một người sành sỏi trong lãnh vực này, đã nói như thế. Tôi tới Việt Nam năm 1937, tức vào thời cực thịnh của chế độ thực dân Pháp, vậy mà điều đầu tiên tôi cảm nhận, đó là, chúng ta, cường quốc thực dân, chúng ta đã không màng đến bổn phận dẫn đưa tới sự giải phóng ấy.  Chúng ta đã không phát hiện và đánh giá đúng mức lòng ái quốc rất sâu xa, rất đáng kính đang nung nấu con tim của người dân Việt Nam như một điều cấp bách đáng lo ngại (…) Chúng ta đã lơ là đối với những khát vọng rất chính đáng của những người dân bị trị đang hướng tới một nền độc lập, tức là việc thừa nhận họ có nhân vị riêng, và những đức tính cũng như tiềm năng không thể phủ nhận (…). Từ nhiều năm nay rồi, trong số họ lại đã không có các sinh viên tốt nghiệp trường Khoa Học Bách Khoa (Ecole Polytechnique), những trường kỹ sư Centrale, các kỹ sư, các nhà trí thức, xuất thân từ các Trường lớn của chúng ta hay sao? Thế mà khi về nước, những người này đã chỉ nhận được các công việc phụ thuộc, với đồng lương thấp kém hơn khả năng của mình, và không được giao trọng trách nào cả. Đó đã là một sai lầm rất lớn: thay vì kết thêm bạn hữu, chúng ta lại tạo nên kẻ thù cho tương lai.

Tiếp đến, Đức Cha Seitz khai triển tiến trình đã dẫn đưa các người ái quốc này quay sang các nước khác thay vì nước Pháp, và sau cùng hướng tới chế độ cộng sản quốc tế, đứng đầu là Hồ Chí Minh: đồ đệ của những người cộng sản Pháp, trước khi là đồ đệ của những người bôn xê vích, ông ta đã được gửi đi nhen nhúm việc nổi loạn, với chung quanh ông, trong sự lén lút đầy nguy hiểm, cả một nhóm những thanh niên ái quốc, như ông, đang mơ tưởng nền độc lập cho quê hương họ.

Là chứng nhân mắt thấy tai nghe và rất am hiểu tình hình, Đức Cha vén mở cho các thính giả đang kinh ngạc của Ngài biết sự chồng chéo đã dẫn đưa nước Pháp tới chỗ nghịch lý là cung cấp khí giới cho Việt Minh đánh nhau với Nhật Bản xâm lăng từ năm 1940 tới 1945. Sau khi Nhật Bản bị nghiền nát bởi quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, vũ khí mà Pháp đã cung cấp cho cộng sản sẽ còn được dùng đế đánh gục mọi sự hiện diện của người phương Tây và thực dân tại Châu Á. Tổng thống Roosevelt đã đồng lõa trong việc này, từ hội nghị Casablanca rồi đến hội nghị Yalta, ông đã chuẩn bị những phương kế để đánh phá các đế quốc thực dân. Người ta không bao giờ bị phản bội tinh vi hơn là bởi chính các bạn bè của mình! Mỹ đã phải trả giá đắt cho sai lầm chính trị này.

Kết quả là đây: lòng ái quốc, chủ nghĩa quốc gia Việt Nam đã bị chế độ cộng sản chiếm đoạt, và Tây Âu ngỡ ngàng giờ đây khám phá ra ý nghĩa chính xác của cuộc chiến đẫm máu này. Dân chúng đã tuyệt đối không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản: mọi giá trị văn hóa của đất nước này bác bỏ nó. Bằng chứng là một triệu người miền Bắc đã lũ lượt di cư vào Nam sau hiệp định Genève; và nếu chính quyền cách mạng non trẻ không đưa ra các biện pháp hà khắc, thì sẽ còn nhiều triệu người rời bỏ quê hương, họ thà bỏ lại mọi thứ sau lưng, đánh mất tất cả. Cuộc xuất hành này đúng là một cuộc trưng cầu dân ý thực sự bày tỏ việc khước từ chế độ cộng sản.

Đức Cha Seitz tiếp tục lướt qua các năm chiến tranh: vụ tấn công ban đêm dịp Tết năm 1968, các đội quân Bắc Việt đã vượt vĩ tuyến 17 và tấn công đồng loạt 35 thành phố miền Nam. Vậy mà đã chẳng có thành phố nào mở rộng cánh tay để tiếp đón các người cộng sản xâm lăng của miền Bắc, trong khi họ cứ đinh ninh miền Nam đã chín mùi cho một cuộc “Giải phóng”. Thế rồi đã có cuộc rút lui của Mỹ, nhưng quân đội miền Nam đã biết tự vệ ròng rã năm năm trời: tất cả những người trẻ bị động viên biết họ đang chiến đấu chống lại ai và chống lại cái gì. Đây lại là hai cuộc trưng cầu dân ý của dân chúng nữa trong cùng một chiều hướng.

Nhưng cuộc chiến tranh cách mạng diễn ra rõ nhất là trên bình diện chính trị và tâm lý. Ông Giáp, vị tướng lãnh lớn của quân đội Bắc Việt đã tuyên bố: “Đừng bao giờ quên rằng mọi cuộc chiến tranh cách mạng trước tiên đều là một cuộc chiến tranh chính trị.” Như vậy trong ba mươi năm chiến tranh này, trên toàn thế giới, chung quanh các thảm xanh, bằng mọi phương tiện thông tin, đã không ngừng có một chiến dịch tuyên truyền, đầu độc, bóp méo thực tại. “Đối với chúng tôi là những người đã sống bên đó, chúng tôi thật kinh hoàng về các điều này!” Đức Cha Seitz nói, và Ngài tiếp tục bằng cách tố cáo những trách nhiệm có ý thức và thường là đồng lõa của Tây Phương. Ngài nói:

Rất thường khi, dư luận công chúng, cả công chúng Ki–tô giáo nữa, đã đóng góp một cách rộng rãi mà không biết, vào chiến thắng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản, bằng sự yểm trợ tâm lý cũng như tài chính. Cuộc chiến tâm lý khéo léo này đã thành công trong việc đánh lận con đen: những người “tốt” là những người của miền Bắc, những kẻ “xấu” duy nhất là những người miền Nam.  Các nạn nhân duy nhất là những người miền Bắc, bị nghiền nát bởi các cuộc dội bom của B 52[2] (2), nhưng người ta đã không bao giờ nói đến nạn nhân của các cuộc đánh bom của người cộng sản tại miền Nam; người ta đã không bao giờ nói cho quí vị biết các cuộc ám sát thường dân trong các làng mạc và thành phố; vô số các nạn nhân của cuộc chiến du kích đáng sợ, gieo rắc kinh hoàng tại nông thôn, những mồ chôn tập thể tại Huế năm 1968, hàng ngàn vụ bắt cóc trẻ em mà có lẽ hôm nay là lần đầu tiên quí vị mới nghe nói tới.

Khi một vụ bắt cóc trẻ em xảy ra, một em thôi, thì dư luận công chúng ở đây bên Pháp này,được báo động và hoảng hốt. Nhưng trong hơn ba mươi năm, chỉ nội trong vùng hoạt động của tôi thôi, trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, tôi đã thấy hàng ngàn trẻ em, nhất là trong lứa tuổi từ sáu tới mười, đã bị cưỡng bắt khỏi gia đình các em để đưa ra Bắc và nuôi dạy theo lý thuyết mác xít.

Như vậy, với một sự sáng suốt của ác quỷ, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã chuẩn bị cho cuộc tấn công sau cùng, cuộc tấn công vào mùa xuân năm 1975, vô số các cán bộ mà họ sẽ cần đến, và chúng tôi đã thấy hàng bao nhiêu ngàn cán bộ ấy tràn vào miền Nam Việt Nam. Khi quyền lợi của Đảng trở thành tiêu chuẩn duy nhất của luân lý, khi mục đích biện minh cho phương tiện, và khi dư luận công chúng bị mê hoặc bởi sự thinh lặng hay dối trá, thì khi đó đã có được một chiến thắng rất lớn rồi, còn vang dội hơn là việc nghiền nát một đạo binh.

Sau đó Đức Cha Seitz vén mở cho thấy sự suy đồi luân lý có tổ chức của đối thủ Mỹ. Ngài nói:

500.000 lính Mỹ tại Miền Nam Việt Nam, không kể những thành phần khác, sau cùng đã hư hỏng bởi nạn mại dâm có tổ chức và ma túy. Thuốc phiện dưới hình thức bạch phiến hạng nhất, với số lượng không hạn chế và giá bán thấp kỳ lạ, đã lan tràn trong mọi đơn vị do các nguồn cung cấp đặc biệt của miền Bắc Việt Nam. Các binh sĩ Mỹ trẻ tuổi này đã dễ dàng biến thành mồi ngon, vì đã bị mất tinh thần bởi hoạt động tâm lý và chính trị. Họ lao mình vào ma túy một cách toàn diện và sâu rộng, đến nỗi Bộ Chỉ Huy phải mau chóng thành lập các nhà thương tẩy độc tại chỗ, và công bố trong mọi đơn vị rằng bất cứ ai nghiện ma túy đều phải khai báo mà không sợ hãi; những người đó sẽ được tiếp nhận vào nhà thương, rồi giải ngũ và được gửi về quê hương mà không bị phạt.

Việc sa lầy đã bắt đầu như thế, rồi tới sự suy đồi vì thối nát. Đây là một trận chiến lớn khác nữa, thầm lặng và nham hiểm, mà kẻ thù đã chiến thắng.

Thế nhưng khi trở về quê hương, mà tôi thấy đang sống trong hòa bình, tự do và thịnh vượng, tôi lại có một linh cảm lạ lùng về an ninh khiến tôi lo lắng: cuộc chiến tranh cách mạng lại đã chẳng bắt đầu tại Pháp trên hai bình diện tâm lý và luân lý như vừa nói hay sao?

Tại sao lại có sự sụp đổ nhanh chóng như vậy ờ Việt Nam? Vì người ta đã không phân định kịp thời tầm quan trọng của ba bình diện trong một cuộc chiến tranh cách mạng.

Diễn giả trở lại bình diện thứ nhất là bình diện quân sự, và việc Hòa Kỳ bỏ rơi Việt Nam. Thế nào, “bỏ rơi” ư?… Chẳng lẽ cứ phải tiếp tục chiến tranh hay sao?…Qua việc rút lui của Mỹ và ngưng bắn, Việt Nam lại không từ chiến tranh bước sang hòa bình hay sao?…

Không! Việt Nam đã không từ tình trạng chiến tranh bước sang hòa bình, nhưng là từ một tình trạng bạo lực thể lý sang một tình trạng bạo lực luân lý, hằng ngày cũng gây ra nhiều nạn nhân như chiến tranh vậy. Phải, đã có sự “bỏ rơi” của Mỹ, vì trong khi Mỹ tuân thủ các ký kết của thỏa hiệp ngừng bắn buộc hạn chế việc cung cấp khí giới và trợ giúp tài chánh cho các bên đang giao tranh, thì Nga và các “nước anh em” lại gia tăng viện trợ gấp ba gấp bốn cho Miền Bắc Việt Nam, mà không hề bị trừng phạt, trong sự thờ ơ hoàn toàn của thế giới. Khí giới của Miền Bắc bấy giờ rõ ràng là nhiều hơn khí giới của Miền Nam, và tương quan lực lượng giữa hai bên mất quân bình trông thấy.

Khi đó người dân Miền Nam ý thức được rằng Tây phương không còn quan tâm tới số phận của họ nữa, Tây phương đã nghe nói quá nhiều về cuộc chiến này rồi và đang muốn chấm dứt nó bằng mọi giá. Đó là chưa kể tới giới trí thức và việc tuyên truyền khéo léo đã và vẫn còn cho rằng sự tiến hóa bình thường của thế giới, xu hướng của Lịch Sử, đang ủng hộ chủ nghĩa mác xít.

Ngày 11 tháng 3 năm 1975, cuộc tấn công tổng lực đầu tiên đã được tung ra tại các tỉnh vùng Cao Nguyên và chỉ nội trong một tháng rưỡi, mọi sự đều chấm dứt. Kontum thất thủ ngày 18 tháng 3, và thủ đô Sài Gòn ngày 30 tháng 4. Lại một lần nữa, đảng cộng sản đãphản bội các thỏa hiệp đã ký kết mà không báo trước.

Ngay lập tức điều mà tôi đã thấy và đã sống, từ ngày 18 tháng 3 cho tới ngày 15 tháng 8 khi tôi bị trục xuất, đó là việc thiết lập tất cả bộ máy cổ điển của chế độ cộng sản nắm quyền: bộ máy công an và đàn áp, cỗ máy nghiền nát con người (…) Các sắc lệnh chính thức bảo đảm mọi quyền tự do dân chủ, cá nhân và tôn giáo. Nhưng xin quí vị hãy biết cho rõ rằng chúng được biên soạn để sử dụng bên ngoài, nhằm lừa dối dư luận cộng đồng quốc tế, chứ không phải để dùng cho người Việt Nam trong nước. Đó chỉ là sự dối trá. Thực tế mà tôi đã biết và đã sống với dân chúng của miền Nam được “giải phóng” là hoàn toàn khác:

Tự do đi lại bị hủy bỏ, mọi nơi trên đất nước đều được chia ra thành phường xóm để dễ bề kiểm soát, mọi người kiểm soát và tố cáo lẫn nhau, quyền tư hữu bị hủy bỏ;
Không còn quyền tự do diễn đạt: ba mươi nhật báo cũng như mọi nhật báo chính trị đều bị hủy bỏ, ngay khi các toán quân cộng sản tiến vào Sài Gòn;
Hủy bỏ tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do tôn giáo: tuần mười ngày thay thế tuần bảy ngày, chính là để cho ngày Chúa Nhật biến mất. Đi lễ là mất thời giờ, cần phải sử dụng thời giờ ấy cho tập thể: đó là tội ác. Cấm đeo thánh giá, ảnh tượng hay dấu hiệu tôn giáo.
Việc dậy dỗ chống tôn giáo thay thế giáo lý. Các trường học công giáo, các vườn trẻ, các trường kỹ thuật và cao đẳng đều bị hủy bỏ. Các nhà thương, bệnh xá bị lột sạch và cướp bóc; các nữ tu và y tá bị phân tán hoặc bỏ tù. Các linh mục không còn quyền đi lại trong các làng để cử hành thánh lễ và ban phát các bí tích;
Một sự tự do bề mặt còn có trong vài thành phố, mà người ta trưng ra cho những đoàn khách đến thăm; nhưng bệnh ung thư phát triển trong bóng tối; chế độ cần sự im lặng, sợ hãi, cả tin và dối trá.
Tiếp đến Đức Cha cho các thính giả một cái nhìn nhanh chóng về lịch sử Ki-tô hóa đất nước bắt đầu từ thế kỷ XVI, phát triển rộng rãi ở thế kỷ XVII với các tu sĩ dòng Tên, đặc biệt là cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), người đã để lại một kỷ niệm bất diệt, cách riêng với việc la-tinh hóa chữ viết. Trung Hoa của Mao sẽ tiếc nuối, vì đã không được nhận một điều tốt lành như thế. 

Bắt đầu từ năm 1663 có các giám mục đầu tiên do Roma gửi tới để thực sự thành lập và làm bén rễ cộng đoàn Ki-tô giáo trẻ trung này. Chỉ mãi về sau vào thế kỷ XIX, nước Pháp mới bắt đầu công cuộc thuộc địa hoá; lúc ấy đã có một Giáo Hội hãnh diện về lòng tin và về một trăm ngàn vị tử đạo của mình. Đức Cha nói:

Cái nhìn tóm gọn này là để giúp quý vị biết định rõ giá trị cái sáo ngữ mà những kẻ dốt nát đang dùng để xỉ vả chúng ta: “Việc rao giảng Tin Mừng đã được thực hiện sau gót giày của chế độ thực dân!” Ngày nay, khi không còn chế độ thực dân nữa, Giáo Hội này, “Trưởng nữ của Giáo Hội vùng Viễn Đông”, như Đức Piô XI đã gọi, cả hai miền Nam Bắc cộng lại, có ba triệu giáo dân, hai mươi sáu giám mục chính tòa và mười giám mục phó, ba ngàn linh mục, mười ngàn nữ tu, tất cả đều là người Việt Nam.

Đó là một Giáo Hội với đức tin sống động và số người giữ đạo lên tới tám mươi phần trăm. Các Ki–tô hữu này sẵn sàng đương đầu với mọi sự, sống đức tin cho tới chết vì đạo, như cha ông họ.

Đức Cha Seitz biết rằng các lời của Ngài gây khó chịu, sẽ có người chống đối, nói ngược lại, trong thành phần cấp tiến của Giáo hội Pháp, kể cả cho tới các vị cao nhất trong hàng giáo phẩm, cũng như các chính trị gia và nhà trí thức. “Ông là tên chống cộng sơ đẳng”, người ta ném vào mặt Ngài lời này một cách khinh mạn. “Trong chủ thuyết cộng sản cũng có những giá trị tích cực, đã được kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Tại sao ông không nêu điều đó ra?” Có một tay tên là Vercors (tay này có lẽ chưa bao giờ đặt chân tới Việt Nam, ít ra là mới đây!), còn nguyền rủa Đức Cha trong một bài viết đầy ác ý đăng trên nhật báo Le Monde ngày 7 tháng 10 như sau: “Các khẳng định của ông Giám mục này toàn là ảo tưởng và bịa đặt.”

 Tôi nghĩ về cộng sản điều mà cộng sản nghĩ về chính nó, Đức Cha Seitz trả lời, bằng cách trích tờ ICI[3], đăng lại các đoạn trong một bài viết của Nguyệt san Đảng cộng sản Tiệp khắc: “Các quan điểm của thế giới tôn giáo và của thế giới cộng sản hoàn toàn khác biệt nhau. Đó là những hệ thống với các nguyên tắc trái ngược.” Tôi nghĩ về chủ thuyết mác xít duy vật và vô thần điều mà Giáo Hội hôm qua cũng như hôm nay vẫn nghĩ, qua bản thân các Đức Giáo Hoàng, là những vị giữ gìn đức tin: “Tự bản chất, nó là một lý thuyết tà ác”. Đúng thế. Giờ đây tôi biết nó qua kinh nghiệm, tôi đã sống nó trong lý thuyết và trong thực hành.

Nhưng Đức Cha lưu ý xác định:

Nếu như triết lý của hệ thống, lý thuyết, ý thức hệ, là những điều mà một Ki–tô hữu không thể chấp nhận, thì trái lại, con người cộng sản là anh em tôi. Chúa Ki–tô đã chết trên Thập Giá cho anh ta, cũng như cho tôi; anh ta được yêu thương cũng như tôi được yêu thương. Tôi phải yêu anh ta, cả khi anh ta là kẻ thù của tôi.

Và ở đây Ngài nhắc lại cho các thính giả biết các huấn thị Ngài đã đưa ra cho giáo dân và hàng giáo sĩ ngày 18 tháng 3 vừa qua, khi Việt Cộng vừa mới chiếm Kontum. Ngài đã tiếp đón họ như những người anh em, sẵn sàng mở rộng vòng tay ra cho họ, vì họ cũng là con cái Thiên Chúa. Nhưng Ngài cũng sẵn sàng chịu tử đạo, nếu Chúa muốn.

Phải, tôi thừa nhận có các giá trị tích cực trong chủ thuyết cộng sản: các giá trị tích cực cộng thêm với sự hữu hiệu trong hành động. Nhưng. Chúa ơi! Với cái giá kinh khủng chừng nào! Đó chẳng phải là những giá trị mới mẻ gì, dù chúng có nhiều bao nhiêu đi chăng nữa: tất cả đều đã chứa đựng trong các giá trị văn hóa mà chúng ta được thừa hưởng qua bao thế kỷ, trong nền văn minh Ki–tô giáo, trong sự năng động nội tại của Lời Chúa, của sứ điệp Đức Ki–tô. Nhưng bởi vì chúng ta không còn có một đức tin đủ sống động nữa, một đức tin chuyển núi dời non, một đức tin mà Đức Ki–tô đòi hỏi, một đức tin buộc ta phải liều lĩnh dấn thân lành mạnh – ta thấy lại ở đây vị thừa sai can trường… – bởi vì chúng ta đã đánh mất đi tâm hồn thơ trẻ của mình (“Nếu các con không trở nên giống như trẻ thơ…”), thì khi đó, bị chóng mặt (“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa!, và con tim chúng con khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa!” (Thánh Augustino), chúng ta tự tạo ra cho mình một Đấng Cứu Thế mới, cũng đầm đìa chảy máu, nhưng đó là máu của kẻ khác, và chờ đợi nơi vị ấy một sự “Giải phóng” đã được hoàn thành từ 2000 năm nay!

Đức Cha Seitz kết thúc bài thuyết trình dài này, được lắng nghe trong sự trang nghiêm và xúc động, bằng cách thú nhận rằng Ngài và các bạn linh mục đã có một cảm nhận sâu sắc hơn về sự nghèo khó, bởi các Ngài đã bị lấy đi tất cả; nhưng trên hết, các Ngài nếm trải được tình yêu dành cho tha nhân, đặc biệt là tình yêu dành cho kẻ thù: thứ tình yêu mà người cán bộ cộng sản xem là điều chướng nhất trong Phúc Âm.

Thế rồi tôi còn nhận được một bài học này nữa: một trong các người anh em linh mục của chúng tôi, người cũng bị trục xuất khỏi Việt Nam, đã được phỏng vấn trên đài truyền hình. Trả lời câu hỏi được đặt ra: “Sau cùng cha nghĩ vấn đề cộng sản trên thế giới sẽ được giải quyết ra sao?” người anh em này, đúng là một người của Chúa, đã trả lời đơn giản với mấy chữ: “Bằng lời cầu nguyện”.

Vậy thì sao? Phải giang tay ra theo hình thánh giá trên đỉnh núi như ông Môshê, và cầu nguyện. Và chỉ vậy thôi sao? Một đức tin không được biểu lộ ra trong các việc làm thì không phải là đức tin thật. – Việc làm đầu tiên, đó là cầu nguyện. Tôi tin rằng chúng ta sẽ chỉ thoát ra khỏi tình trạng hiện nay trên thế giới bằng cách dùng thần bí (theo nghĩa mà các nhà tu đức và các thánh mặc cho nó: thần bí là tái khám phá ra một lý tưởng sống) chống lại thuyết ngoại giáo.

Thần bí đối nghịch với sự man rợ luôn luôn tái phát.

Thần bí đối nghịch với mọi chủ nghĩa khoái lạc, với tất cả tinh thần hưởng thụ đang giết chết thế giới này.

Thần bí đối nghịch với chủ nghĩa duy khoa học, như vào thế kỷ thứ XIX vừa qua, khi có nhiều người cho rằng nó là lối thoát duy nhất.

Thần bí đối nghịch với việc thần thánh hóa con người, với chủ nghĩa mác xít, vì thật ra chủ nghĩa mác xít này chính là việc thần thánh hóa con người, thay thế chỗ của Thiên Chúa.

Tôi đã nói với quý vị những điều này, bởi vì tôi luôn tâm niệm lời của Đức Hồng Y Wyszynski, Giáo Chủ Ba Lan: “Chúng ta không thể nói dối, ca tụng sự dữ; cho điều xấu là tốt; bò lết trước lý do lợi ích quốc gia tạm thời. Chúng ta chiến đấu chống lại các lực lượng của tối tăm. Chúng ta cần phải đứng thẳng trước các ông hoàng, các người cai trị và nhà cầm quyền”

Đứng thẳng: có nghĩa là sống lý tưởng tin mừng trong mọi đòi hỏi của nó. Chiến đấu chống lại các lực lượng của tối tăm, đơn giản chỉ là trở nên con cái của Ánh Sáng: không phải là chống lại một cái gì, nhưng là sống cho Ai đó.

Chưa bao giờ lại có nhiều tiếng nói gióng lên như ngày nay để mời gọi chúng ta vươn tới đó.

Và để kết thúc bài diễn thuyết, Đức Cha Seitz trích lời văn hào Soljénitsyne như sau:

Chiến trận không diễn ra giữa họ và các bạn, nhưng giữa các bạn và chính các bạn. Phải làm gì bây giờ? Tất cả tùy thuộc, một cách mầu nhiệm, vào quyết tâm của từng người trong các bạn. Chưa bao giờ tương lai của hành tinh này lại tùy thuộc vào một số ít người như vậy[4].

Cuộc diễn thuyết hùng hồn này đã soi sáng cho nhiều con tim biết đón nhận, và đã được Đức Cha lập lại dưới nhiều hình thức khác nhau, trước các công chúng khác nhau. Ngài được mời nói chuyện trong các câu lạc bộ, trường học, đan viện. Ngài gặp gỡ nhiều giới chức khác nhau và thuyết phục – hay ít nhất lay động – các tâm trí chai sạn đến nghe với chủ ý phản bác. Nhưng không ai có thể nghi ngờ sự chân thành và kinh nghiệm sống của Ngài. Đức Cha còn nói thêm:

Mặc dù có thể có quý vị sẽ ngạc nhiên và có thể có những người khác lấy làm chướng tai gai mắt, nhưng xin quí vị ít nhất hãy biết cho rằng tôi không tuyên xưng bất cứ một “khuynh hướng chống cộng sản triệt để nào cả”. Tôi không chống đối chủ thuyết cộng sản xét như là ý niệm, là sự lựa chọn, là cách sống của con người trong xã hội, miễn là nó được sống theo ý Thiên Chúa – tôi còn mời gọi quý vị sống như thế nữa kia! Cũng như nó đã được thực hành trong cộng đoàn Ki–tô giáo tiên khởi tại Giêrusalem; cũng như nó vẫn còn đang được thực hành bởi các đan sĩ nam nữ, trong các đan viện sốt sắng nhất, bởi các cộng đoàn tu hội đời, thuộc Ki–tô giáo hay không, hiện vẫn âm thầm nảy sinh rải rác đó đây. Họ là những con người ưu tú nhất, họ là những người đầu tiên đã tự do lựa chọn hình thức sống này, là hình thức khó nhất và đúng với Tin Mừng nhất, hoặc họ vẫn còn đang sống tinh thần ấy ngày nay trước mắt chúng ta. Khó, bởi vì nó đòi hỏi biết bao can đảm và nhân đức, vượt lên trên sức lực của người phàm: ở đây, cần phải có sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa, của tình yêu, nếu không, nó chỉ có thể đắm chìm toàn bộ, thoái hóa trở thành vô chính phủ hay độc tài.

Thế rồi Đức Cha Seitz còn dám trích dẫn Jean Jaurès: “Điều mà tôi khiển trách các Ki-tô hữu, không phải là giáo thuyết của họ; nhưng đó là họ không thực hành nó”. Ngài chất vấnnhững kẻ bách hại Ngài như sau:

Hỡi các người anh em cộng sản, cũng như anh em, nhưng vì một lý do khác, tôi cũng xác tín rằng cuộc cách mạng đang tiến hành vững chải và sẽ lan rộng trên toàn thế giới. Nó sẽ không phải của cánh hữu, cũng không phải của cánh tả, không phải của giáo sĩ, không phải của Mỹ, không phải của chủ nghĩa Mác, Xô Viết hay Mao; không phải của bất cứ đảng phái hiện tại hay tương lai nào, không phải của bất cứ người nào, cho dù có tài giỏi đến đâu; không phải của bất cứ quốc gia nào, dù có mạnh mẽ và được vũ trang đến đâu. Vì nó đã được tiến hành, và còn hơn thế nữa: đã hoàn thành bởi Đấng duy nhất đã được trao ban quyền bính: Đức Giêsu[5] (5).

Thư tín

Các thư từ chẳng bao lâu đã được trao đổi, dĩ nhiên là qua ngã ngoại giao, giữa Đức Cha Seitz và hàng giáo sĩ hay giáo dân cũ của Ngài, cũng như với người kế vị Ngài là Đức Cha Lộc. Đức Cha Lộc viết:

Xem ra người ta đang muốn đơn giản loại trừ các bệnh nhân không còn hy vọng được chữa lành. Cần phải can thiệp, nhưng làm sao đây?… Nhất là khi điều đó được nói ra trong nơi thầm kín. Con liên lỷ kêu cầu Thiên Chúa Nhân Lành và Chúa Thánh Linh.

Hôm qua người ta đã yêu cầu con hiến tặng xưởng thợ với tất cả nhà cửa, máy móc và hầu hết những gì còn lại. Các anh em linh mục ở trong tình trạng báo động bị bắt. Xin phó thác cho Chúa. Xin cầu nguyện cho chúng con. Lộc

Cha Faugère, bề trên chủng viện Kontum, trình bày với Đức Cha Seitz ngay từ ngày 20 tháng 11, nhiều khó khăn ngài gặp phải, nhưng kết luận:

Điều khiến con hạnh phúc sâu xa, đó là thấy rằng các chủng sinh của chúng ta đã ý thức hơn về sứ mệnh của mình trong hoàn cảnh này; các khó khăn đã không đánh gục được họ, trái lại đã giúp họ thêm can đảm và biết hoán cải. Đức Cha rất hài lòng.

Thật thế, có một linh mục trẻ ghé qua Kontum và cho biết cha rất ấn tượng bởi tinh thần của các linh mục và chủng sinh. Các linh mục hiệp nhất chung quanh Đức Cha Lộc… trừ vài trường hợp – điều này khiến cho vị Tân Giám mục khổ tâm rất nhiều. Ngài đã thú nhận: “Tôi thật kiệt sức rồi.”

Ngày 4 tháng giêng năm 1976, Đức Cha Seitz viết thư cho bạn bè cùng anh em ở Việt Nam và chỉ cho họ thấy rằng, từ một nhãn quan nào đó, tình trạng bên Pháp cũng chẳng đáng ao ước hơn tình trạng của họ:

Pháp là nước truyền giáo? – Phải, Giáo Hội ở đây bị rạn nứt; phong hóa và lòng tin bị trúng thương, Đức Giáo Hoàng bị phản đối công khai. Nhưng cũng còn có các tổ ấm tuyệt vời của đời sống thiêng liêng và cầu nguyện tha thiết. Có nhiều hơn là mười người “công chính” đã giúp cho thành Sôđôma được cứu. Chưa mất hết mọi thứ.

Pháp có phải là nước đã góp phần, qua các phương tiện truyền thông, cầm giao đâm Việt Nam trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến không? – Phải, và kể cả bây giờ. Dư luận quần chúng đã bị đánh lừa và gây mê. Cả trong Giáo Hội, cũng không thiếu các linh mục phò chế độ cộng sản, và chính họ là những kể thành công nhất. Họ hướng về một vị “Giải phóng” khác: Họ thật là điên, những người Gô-loa này!

Chính vì thế nên ngay từ khi mới trở về, tôi đã cắm đầu lao mình vào cuộc ẩu đả. Ngày này qua ngày khác. tôi đã lên tiếng, tôi chấp nhận diễn giảng trên mọi phương tiện: phỏng vấn, phát thanh, truyền hình; tôi làm chứng cho những điều mình đã thấy, đã sống và đã biết: tôi đã sang Roma hai lần, Đan Mạch hai lần, và một lần bên Đức. Tôi chưa bao giờ làm việc nhiều như thế trong đời mình… Tôi tin rằng mình còn phục vụ Việt Nam và Kontum theo cách thức ấy. Bởi thế suýt nữa tôi bị xem là xa rời anh em. Nhưng dù sao, không một giây phút nào tư tưởng của tôi, lời cầu nguyện của tôi không gần gũi anh em và ở với anh em.

Đức Cha quyên tiền cho giáo phận. Tình hình tài chánh của người dân Việt thật thảm hại: sau giai đoạn tham nhũng của chính quyền ông Thiệu khiến cho nạn lạm phát gia tăng phi mã, thì chế độ cộng sản vừa mới nắm quyền đã đi thẳng vào mục tiêu – dĩ nhiên là để mưu lợi cho mình – và phát hành các đồng tiền mới: 100.000 đồng cũ ăn 200 đồng mới! Cha quản lý của giáo phận, vẫn còn ở đó, xem ra là một người xứng đáng thi đua với người quản lý mà thánh Luca nói tới trong Phúc Âm chương 16.

Ngài cho biết: “Việc trao đổi với nước Pháp rất có lợi, vì có thể đi đến chỗ đổi gấp năm lần giá chính thức”. Cha cũng thú nhận rằng hầm rượu của ngài đang đầy ắp, nhờ những gì các người Pháp ra đi đã để lại. Điều này cho phép ngài còn giúp đỡ được nhiều người, một cách kín đáo, vì, như ngài nói, “chúng con bị rình mò khắp nơi, nhưng có Chúa Nhân Lành canh giữ”

Ngày 25 tháng giêng, một linh mục khác viết:

Tại Kontum, người ta thúc giục phải quét sạch hết các tàn tích nền văn minh sa đọa của người Mỹ và Tây Phương. Vì thế phải giao nộp mọi sách báo, nguyệt san bằng tiếng ngoại quốc hay tiếng Việt, kể cả các tác phẩm tôn giáo. Chỉ có sách Kinh Thánh là có thể giữ lại. Các băng đĩa cũng bị tịch thu. Trong các làng, người ta tịch thu cả các sách kinh do các phù thủy mang tới. Đức Cha Lộc muốn can thiệp để cứu thư viện của chủng viện, mà con đã gắng lập nên với biết bao nhiêu vất vả từ khi giải phóng.

Và vài ngày sau cha viết:

Các học sinh đã đào hầm để giấu tạm những sách quý nhất. Mọi biện pháp đề phòng đã được đưa ra để chúng không bị mối mọt ăn.

Như vậy chủng viện đã được mở cửa lại và có năm mươi lăm đại chủng sinh: mười ba thầy ban thần học và bốn mươi hai thầy ban triết học. Cũng có hai mươi tiểu chủng sinh trung học đệ nhị cấp. Sỉ số bị hạn chế nhiều, một phần vì phí tổn, nhưng cũng vì khó khăn trong việc xin cư trú. Chỉ có năm người là được thường trú hợp pháp, còn những người khác thì phải kín đáo hết sức, vì họ có nguy cơ bị chính quyền địa phương đuổi về nhà, với lý do nhỏ nhặt nhất. Trường đào tạo giáo phu đã không mở lại được vì thiếu phương tiện.

Một linh mục viết cho cha Rannou ngày 21 tháng 2 năm 1976 rằng mỗi khi một cha sở muốn dâng thánh lễ cho anh chị em Thượng, thì dân chúng phải làm đơn xin và phải được chính quyền chấp thuận – đó là điều xảy ra khoảng hai tuần một lần. Các giáo phu không được phép nói hơn mười lăm phút, và thỉnh thoảng mới được nói. Cán bộ không ngừng lặp đi lặp lại rằng không hề có Thiên Chúa, chỉ cần dựa trên công việc của mình và trên chính quyền thôi, và phải tăng gia sản xuất. Làm vậy… dân chúng sốt sắng hơn xưa rất nhiều!

Người ta cũng biết tin là tại Giáo hoàng học viện Đà Lạt, nơi các tu sĩ Dòng Tên đã bị đuổi và thay thế bằng các tu sĩ Đaminh, có một sự khó chịu thật sự và ban giáo sư mới bị chống đối, vì các đại chủng sinh cho là họ quá cấp tiến. Vài thầy rất được đa số anh em quý mến đã bị cho về. Nhiều giám mục, trong đó có Đức Cha Mai của Ban Mê Thuột, đã nói các ngài muốn rút các chủng sinh về. Giáo Hội Việt Nam bị chia rẽ: phái cấp tiến không nhiều, nhưng họ là những kẻ duy nhất có quyền lên tiếng.

Các chủng sinh Kontum đang học tại Đà Lạt viết thư cho Đức Cha Seitz để cám ơn Ngài về những gì nhờ Ngài mà họ nhận được. Thầy Paul đại diện cho tất cả thưa với Đức Cha trong lá thư viết ngày 8 tháng 7 năm 1976:

Có một điều an ủi chúng con, và vì điều này chúng con phải thực sự biết ơn Đức Cha: đó là chúng con nhận biết mình đã nhận được một nền giáo dục vững chắc cho tinh thần tông đồ, lòng hăng say với công việc và tinh thần hiệp nhất. Đôi khi chúng con cho phép mình so sánh một chút với chủng sinh của các giáo phận khác: kết quả là lúc nào kiến thức của chúng con cũng vượt trên họ xa, một phần nhờ các sách mà chúng con đã có thể mua với sự trợ giúp của Đức Cha. Chúng con nói lên điều này, không phải để kiêu ngạo, nhưng với một chút hãnh diện, điều sẽ nâng đỡ chúng con giữa vô vàn khó khăn và chướng ngại trong tương lai. Khi cậy nhờ vào ơn thánh Chúa, chúng con hy vọng có thể trở nên những dụng cụ ngoan hiền và hữu hiệu cho công việc tông đồ. Một phần chúng con cũng cậy nhờ vào sự nâng đỡ của Đức Cha trong lời cầu nguyện, cũng như trên ký ức về gương sáng của Đức Cha.

Như thế tinh thần vẫn luôn luôn tuyệt vời giữa các chủng sinh Kontum sống tại chỗ hay trên Đà Lạt. Nhưng dù ở đâu thì tất cả những người này đều phải làm đơn xin để có thể tiếp tục cư trú, bằng cách liệt kê chương trình học, và chẳng hề biết chắc mình có được phép thụ phong linh mục hay không. Các linh mục, trái lại, được mời tới gặp công an một cách riêng rẽ, và phải khai chi tiết lý lịch của mình, tường trình các hoạt động và của cải cá nhân. Nhiều linh mục cũng như các nữ tu bị đưa vào trại cải tạo, và người ta không có tin tức gì về họ: tính trung bình mỗi giáo phận có khoảng mười vị, riêng Giáo phận Vĩnh Long có tới bốn mươi bảy người.

Biết rằng người ta luôn luôn cần sự an ủi bên ấy, Đức Cha Seitz viết thư cho người kế vị ngày 4 tháng 2 năm 1976 như sau:

Ý nghĩ, con tim và lời cầu nguyện của tôi không ngừng ở với Đức Cha! Đâu đâu tôi cũng không ngừng xin lời cầu nguyện cho Đức Cha: tín điều các thánh thông công là một thực tế. Xin bảo đảm với Đức Cha là tôi nỗ lực hết sức mình cho việc phục vụ Kontum. Tôi đã sung sướng và hãnh diện biết bao, khi nhận được tin của Đức Cha, các linh mục, các nữ tu và anh chị em giáo dân! Xin Đức Cha nói với tất cả mọi người về tình bạn trung thành của tôi và sự hiệp thông của tôi trong lời cầu nguyện. Tôi hiểu Đức Cha và mọi người bên ấy đang phải chịu thử thách nặng nề như thế nào: Xin Thiên Chúa ban cho mọi người sức mạnh, an bình và niềm vui của Ngài.

Với các cha giáo và các thầy trong chủng viện, tôi xin bày tỏ lại một cách đặc biệt tình thương mến của tôi: mong sao họ luôn kiên trì trên con đường vương giả của hy sinh! “Chúa Ki–tô vẫn hấp hối cho tới ngày tận thế.”  Chúng ta mặc thêm cho Ngài một nhân tính nữa – bởi chính cuộc sống của chúng ta. Chúc mọi người can đảm và kiên trì! Rất thân mến.

Ngày 22 tháng 4 Đức Cha còn viết thêm:

(…) Mỗi khi có thể được, mà không gây nguy hiểm cho Đức Cha cũng như cho giáo phận, xin cho tôi nhiều tin tức chính xác liên quan tới nhân sự và cuộc sống của giáo phận: con tim của tôi, ý nghĩ của tôi ngày đêm hướng về với Đức Cha, tới độ Đức Cha không thể tưởng tượng được. Tôi bảo đảm với Đức Cha rằng tôi tận dụng tất cả sức lực cuối cùng của tôi để la to lên sự thật với người Pháp và Âu châu: những người cộng sản và thân cộng sản không hài lòng, nhưng mặc kệ họ!

Tôi không ngừng cầu nguyện và xin người ta cầu nguyện cho Đức Cha, cho Giáo Hội Việt Nam. Người ta không quên Đức Cha và Giáo Hội Việt Nam đâu; người ta còn biết rõ hơn rằng Đức Cha và Giáo Hội Việt Nam đang tuyên xưng đức tin, trong đêm tối và trong gian khổ. Đức Cha hãy can đảm lên. Tôi ghen với Đức Cha… Tôi muốn trở lại Việt Nam để âm thầm chịu đau khổ với Đức Cha và tất cả anh chị em. Nhưng tôi tự hỏi không biết rồi đây Âu châu lại sẽ chẳng sớm phải chịu cùng một thảm cảnh như bên đó hay không.

Xin Đức Cha chuyển đến tất cả mọi người lòng yêu mến trung thành của tôi cũng như sự hiệp thông của tôi trong “sự đồng thương khó” và lời cầu nguyện.

Đức Cha Seitz buồn, buồn kinh khủng, về hiện trạng quê hương thứ hai của Ngài, bởi Ngài vẫn tiếp tục nhận được, qua ngã bí mật – vì mọi thứ đều bị kiểm duyệt – những tin tức càngngày càng nguy kịch hơn. Tình hình ngày càng tồi tệ, không chỉ đối với Giáo Hội, mà đối với toàn dân nữa. Thuốc men trở nên khan hiếm, ngay cả tại Sài Gòn. Đâu đâu cũng bị nạn đóihoành hành, nhưng muốn giúp cũng rất khó, lại còn liên lụy đủ thứ. Việt cộng luôn muốn tìm biết Tòa Giám Mục lấy nguồn lợi từ đâu để nuôi những người đói khát: phải kê khai số tiền Đức Cha Seitz đã để lại, do bán các vật dụng, các hãng xưởng và đất đai.

Đức Cha Lộc ngày càng bị canh chừng, và ngài cảm thấy sẽ tới tượt mình bị đuổi khỏi giáo phận, mà ngài mới chỉ là chủ chăn có một năm; ngài đã không thể lựa chọn một người kế vị. Ngày 28 tháng 9 năm 1976 ngài viết cho Đức Cha Seitz như sau:

Chẳng bao lâu nữa là kỷ niệm ngày tấn phong giám mục của Đức Cha. Nhân danh cá nhân con và nhân danh các anh em linh mục cùng toàn thể giáo phận, con xin gửi tới Đức Cha những lời chúc mừng tốt đẹp nhất, với tất cả các lời cầu nguyện và sự hy sinh của chúng con, để xin Chúa Nhân Lành gìn giữ Đức Cha sống lâu hầu tiếp tục công việc của mình.

Chúng con xin nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng con đối với tất cả những gì Đức Cha đã làm và tiếp tục làm cho chúng con.

Cha Nghị của chúng ta đã bị kết án tử hình: ngài đã liên lụy vào việc tổ chức một đảng phái chống chính quyền – ít ra các hồ sơ chính thức nói thế.”

Và người kế vị bất hạnh của Đức Cha Seitz tiếp tục một chuỗi các tin xấu: Cha Faugère, đến lượt ngài bị trục xuất; các chủng sinh bị trả về gia đình, “cho đi nghỉ hè” và phân tán, buộc phải làm việc để kiếm sống: lao công, làm nông, xẻ gỗ, thợ thủ công…; Cha Faugère phân phát cho họ một cách kín đáo phương tiện sống qua ngày. Một vị phụ trách viết cho Đức Cha Seitz rằng:

Thật rất an ủi, khi nghe các con cái Kontum của Đức Cha, các bạn trẻ dũng cảm này, mỗi khi họp mặt, đều dâng lời chúc tụng Chúa và Đức Mẹ, như lời chào giữa họ với nhau.

Những người lớn làng Kon Trang Kola phải đi làm rẫy ở Ngô Trang, nơi trước đây có đồn lính; ở đó mìn còn đầy dưới đất, không thể tránh hết được; bởi thế ngày nào cũng có những người chết và bị thương nặng.

Người già và trẻ em không làm việc thì không có quyền lãnh khẩu phần gạo. Chỉ những ai làm việc mới được lãnh một ít gạo mỗi chiều (khoảng một lon sữa hộp).

Công việc “tư nhân” bị cấm, chỉ có công việc tập thể là “bó buộc và được phép”. Tuy nhiên, vì cơn đói hành hạ ruột gan chúng con, đôi khi chúng con phải vào rừng tìm rễ cây và củ có thể ăn được. Nhưng nếu không trở về làng đúng giờ, họ phạt chúng con bằng cách bắt chạy chung quanh một thửa ruộng lớn; chúng con phải chạy như thế có lẽ tới mười cây số, và trong các ngày bị phạt này chúng con không được lãnh phần gạo của mình.

Thật là kinh hoàng! Cả khi bị bệnh, chúng con không dám xin phép ở nhà. Con nghĩ rằng các anh chị em Thượng không có hy vọng sống còn: chúng con thiếu thốn mọi sự, và cả thuốc men.

Một lá thư ngày 17 tháng 11 viết:

Cha quí mến, sau đây là vài ba tin tức về Kontum. Cha ơi! Kontum ngày nay không còn là Kontum ngày xưa nữa; bây giờ buồn, buồn lắm. Trước đây, dân làng làm việc để sống, họ làm việc tùy theo nhu cầu và sức lực của mình. Ngày nay chúng con làm việc khổ cực lắm, theo lệnh của những người chỉ huy … mà chỉ được ăn rất ít.

 Lá thư viết ngày 21 tháng 11 có nội dung cảm động như sau:

Thưa Cha, con đã kể với Cha những chuyện đang xảy ra, nên lần này con không muốn kêu than nữa… sợ rằng tất cả những điều đó khiến Cha buồn lòng, và tim Cha lại “thổn thức vì thương xót cho người Thượng”. Vậy con sẽ chỉ nói điều này thôi: “Giờ đây chúng con thật hạnh phúc: như thể là chúng con đang sống trong hỏa ngục với Luxiphe vậy”

Mấy người Kinh nói với chúng con: “Tụi mày, dân Thượng tụi mày phải vào các vùng kinh tế mới mà ở”. Và thế là chúng con phải bỏ nhả cửa, ruộng vườn, nương rẫy, để giao hết lại cho những người làm việc cho “chúng nó”, hay cho người Kinh.

Vì quá buồn đau nên có nhiều người đã tự tử bằng thuốc độc hay treo cổ. Cha ơi, nếu như Cha có mặt ở đây, nước mắt Cha sẽ không bao giờ khô được đâu, khi trông thấy nỗi khốn cùng nơi các gia đình của Cha. Cha ơi, chó sói đã vào chuồng chiên, và nó đang cắn xé.

Còn có một lá thư khác, đề ngày hôm sau 22, viết rằng:

Chúng nó ngược đãi chúng con, còn tệ hơn con bò con chó… Chúng nó nói: “Tụi mày mà có chết cả trăm đứa thì cũng có sao, miễn là máy cày chạy tốt: chúng mày không đáng giá bằng một cái máy cày đâu.” Chúng nó thương xót một chiếc máy cày hơn một mạng người, đúng là chúng con còn thua con chó.

Những bức thư như thế khiến cho vị cựu Giám mục Kontum rụng rời; Ngài càng rụng rời hơn nữa vì không thể trực tiếp làm gì được cho con cái Ngài ở bên đó. Nhưng ít ra, Ngài có thể khiến cho các tin tức này vang vọng một cách thuyết phục hơn trên các thính giả của Ngài, và xin họ trợ giúp, cũng như Ngài sẽ cầu nguyện và xin họ cầu nguyện cho Kontum.

Trước đây Ngài đã gặp Đức Gioan XXIII, rồi Đức Phaolô VI, và Ngài đã trình bày tình hình một cách sâu rộng. Ngài còn trở lại Roma để gặp Đức Gioan Phaolô II, là Giáo Hoàng từ năm 1978. Đức Cha nói với Ngài: “Con đang thất nghiệp”. Đức Gioan Phaolo II vỗ vai Đức Cha và trả lời: “Một giám mục thừa sai thì không bao giờ thất nghiệp”. Trong một lần tiếp kiến sau đó, Đức Gioan Phao lô II lấy lại một dự án của Bộ Truyền Giáo và nói với Đức Cha:

Đức Cha à, Đức Cha còn khỏe lắm! Ta nghĩ tới chuyện bổ nhiệm Đức Cha làm Đại diện Tòa Thánh đặc trách người Việt hải ngoại trên toàn thế giới.

Đức Cha cám ơn và trở về Pháp – Nhưng không có tin tức gì về việc bổ nhiệm. Nhiều tháng sau đó, Ngài trở lại Roma, và hỏi thăm ở Bộ Truyền Giáo. Đức Ông Guidoni tâm sự với Đức Cha:

“Sẽ không có chuyện bổ nhiệm ấy đâu. Có bốn tiếng nói từ phía bên kia dẫy Alpes chống lại việc ấy…” – “Nhưng mà tôi đã làm gì họ…” Đức Cha thở dài, chán ngán. Rồi Ngài lấy lại bình tĩnh, không chấp nhận than van, cũng như ném đá người khác: “Tốt! vậy thì ta sẽ kín đáo làm cái việc mà đáng lý ta có thể chính thức làm!”

Sự chai đá của vài người trong hàng giáo sĩ, chắc còn hơn là trong giới chính trị, và cả sự thờ ơ của vài nhân vật mà Ngài đáng lẽ ra có thể tin cậy, đã thúc đẩy Đức Cha Seitz viết một cuốn sách, vừa mang tính lịch sử vừa gay gắt, mà Ngài đặt tựa đề là Thời của Những Con Chó Câm. Sau khi tuần tự kể lại từng ngày cuộc xâm lăng cuối cùng của Việt Cộng, Ngài ghi lại các suy tư cá nhân mà sự thử thách đã gợi hứng cho mình, cũng như sự thất vọng mà Ngài đã cảm nhận khi thấy lại một nước Pháp đang mê ngủ và câm nín, thờ ơ với thảm kịch đã và đang còn diễn ra trong vùng đất truyền giáo của mình. Nếu nước Pháp đã biết sủa như các con chó trung thành biết làm với chủ của chúng, thì chính Đức Cha vẫn còn ở đó để thi hành một sứ vụ thiết yếu cho việc cứu rỗi các linh hồn.

Vài vị trong các hàng giám mục vẫn giữ khoảng cách đối với Ngài, nhưng có những vị khác vốn đã biết Ngài tại Roma trong thời Công Đồng Chung Vatican sẵn lòng mời Ngài, mặc dù hơi dè dặt vì lý do “tinh thần giám mục đoàn”. “Không gây sóng gió”, đó là mệnh lệnh của thời đại dành cho một Giáo Hội Pháp đang muốn bị “chôn vùi”. Điều này hoàn toàn trái ngược với những gì mà vị Giám mục Truyền giáo đang la to lên, đến nỗi Ngài phải viết như sau trong Lá thư ngỏ gửi các anh em cộng sản Việt Nam của tôi:

(…) Sở dĩ tôi đã thử xé bức màn khói, mà các bạn đang giăng ra trên một thực tại mà các bạn tìm cách che dấu, hay bóp méo trước mắt dư luận, thì đó không phải là để trả thù hay để làm hại quyền lợi của Việt Nam, là quê hương thứ hai của tôi. Nhưng đó chỉ đơn thuần là vì cần phải nói lên sự thật: sự thật không thuộc về chúng ta. Đó là một vấn đề của sự liêm chính: tôi làm “nghề” của tôi cũng như các bạn đang làm nghề của các bạn, và các bạn có quyền khinh bỉ tôi, vì biết rất rõ tôi là ai, nếu như tôi không lên tiếng.

Đức Cha được an ủi khi viếng thăm các đan viện chiêm niệm mà Ngài đã lui tới ngày xưa: tại Fontgombault, ở đây Ngài tìm thấy lại những nơi chốn trong năm đầu tiên gia nhập chủng viện, đan viện luôn nồng nhiệt tiếp đón Ngài, như tiếp đón một vị tuyên xưng đức tin. Ngày 6 tháng 8 năm 1979, Đức Cha được mời truyền chức linh mục cho ba đan sĩ và chức phó tế cho ba thầy khác[6] (6). Rồi tại Randol, ngay từ tháng sáu năm 1977, Ngài thích thú khám phá ra chi nhánh đầu tiên của đan viện Fontgombault và vui mừng vì sức sống và lòng trung thành của nó dành cho tất cả những gì mà Ngài yêu mến trong Giáo Hội, với tâm hồn chiêm niệm của Ngài.

Đây cũng là thời xảy ra “vụ Lefebvre” làm lung lay lương tâm nhiều người và rung chuyển các bức tường chủng viện, đang ngày càng vắng bóng người xin gia nhập. Đức Cha Seitz đã gặp nhà truyền giáo vĩ đại này là Đức Cha Marcel Lefebvre trong thời Công Đồng. Ngài khâm phục ý thức lớn lao của Đức Cha về Giáo Hội và công việc tông đồ tuyệt vời mà Đức Cha đã thực hiện bên Phi châu. Tuy nhiên, Ngài cũng ái ngại cho sự xa cách, mà vị sáng lập cộng đoàn Écone tỏ ra với Đức Phaolô VI, và sự bất tuân phục mà Đức Cha đã rơi vào. Trong các dịp gặp gỡ giữa hai người với nhau, Ngài đã thảo luận sâu xa với Đức Cha, và cũng thừa nhận tình trạng đáng buồn của Giáo Hội tại Pháp, nhưng Ngài lại trình bày cho Đức Cha thấy sự cần thiết tuyệt đối phải hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, trong sự tuân phục, lòng bác ái và sự thật. Nhưng Ngài rất tiếc là đã không thành công trong việc níu giữ vị cựu Tổng Giám Mục Dakar khỏi tuột xuống dốc và đành phải giữ khoảng cách với ngài..

Các bạn trẻ Thượng tại Pháp

Đức Cha Seitz có nhiều việc khác phải làm. Các bạn trẻ Thượng mà Ngài đã gửi qua Pháp cách đây vài năm năn nỉ Ngài, và thế là Ngài đóng lại vai trò làm cha và nhà giáo dục đối với họ. Ngài đi thăm các gia đình đã tiếp đón họ: tại Ham, trong vùng Somme, nơi gia đình Beauvais nhận Pierre như con; tại Sarthe nơi Cô Chesnot nuôi nấng bốn trẻ  em của cùng một dòng họ với lòng quảng đại không mệt mỏi: đó là Francois Régis Ngip-Runh và Francois–Xavier Ngip-Ran mà chính cô đã sang đưa về từ Kontum, theo sau đó là Marie-Cécile Ngip-Ren và Joseph Ngip-Rul; tại Saint-Amand-Montrond, nơi có hai em; tại Rumilly, trong vùng Haute-Savoie, tại Dieppe, tại Saint-Quentin, tại Orléans,  tại Aire-sur-Adour, và các nơi khác.

Kể từ khi Đức Cha để các em ở lại, tất cả đều biến đổi, khỏe mạnh về mặt thể lý cũng như tinh thần và thành công trong việc học hành. Ngài có nhiều tham vọng dành cho các em và nhấn mạnh các em phải được đào tạo vững chắc về phương diện nhân bản cũng như về đời sống Ki-tô giáo. Đức Cha có quen các tu sĩ Saint-Vincent-de-Paul, nên Ngài gửi khoảng mười em Thượng theo học trường trung học của các ngài tại Combreux. Hai trong số các em sẽ biết tới ơn gọi linh mục. Khi Pierre Tis chia sẻ với Đức Cha ước muốn trở thành linh mục, Ngài trả lời: “Cha đã không gửi con qua Âu châu với mục đích này, nhưng Cha rất hài lòng”. Đức Cha sẽ theo dõi việc học để làm linh mục của thầy, ban đầu tại Érigné chỗ các tu sĩ Saint-Vincent-de-Paul, rồi tại trường Truyền Giáo ở Roma, nơi thầy Tis sẽ được truyền chức Phó Tế. Một trong những niềm vui cuối cùng của Đức Cha sẽ là việc chính Ngài truyền chức Linh Mục cho thầy vào tháng 6 năm 1982, trong nhà nguyện của Hội Thừa Sai Paris. Đây là linh mục đầu tiên người Bahnar. Tham dự thánh lễ có nhiều người Việt và Thượng, trong đó có cha Joseph A-Roan tương lai, là người sẽ chọn gia nhập giáo phận Paris.

Còn trong lúc này, Đức Cha nói với họ về quê nhà, đào tạo họ hướng đến ngày trở lại, huấn luyện họ một cách cứng rắn, như Ngài đã biết làm với các người trẻ, khi được chỉ định về Hà Nội; Ngài dạy họ tình yêu đối với Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng và ngay từ mùa hè năm 1976, Ngài đưa tất cả hai mươi mốt em qua Roma, nơi các em có một buổi triều yết với Đức Phaolô VI. Nhiều ngày thăm Roma rồi Assisi, Torino: các em như ngất ngây, và sẽ giữ mãi kỷ niệm này.

Trong các mùa hè tiếp theo, Đức Cha dẫn các em đi cắm trại tại Savoie, các em lại càng thích thú – và cả Ngài nữa!…

Người ta cũng xin Ngài giúp cho các hướng đạo sinh. Cũng như nhiều người trẻ khác, họ đang trải qua một cuộc khủng hoảng, nhưng vẫn trông thấy các cố gắng vực dậy nhờ có các huynh trưởng năng nổ và trung thành với tinh thần của những người sáng lập. Một trong số các huynh trưởng là sinh viên Cao Học Thương Mại, xin lời khuyên của Đức Cha, sau khi Ngài đến diễn thuyết tại trường này. Anh có nên buông tay không? Anh có một nhóm hướng đạo sinh khó điều khiển, trong khi các cha tuyên úy lại không hề khích lệ anh…Và Đức Cha nói với anh:

Con cứ nài nỉ, cứ nài nỉ. Hãy nói với các cha là không bao giờ có chuyện mất thời giờ với một người trẻ đâu!

Đó là bởi vì Đức Cha quá biết hướng đạo sinh mà! Ngay từ thời còn bé bạt mạng tại thành phố cảng Le Havre!… Và giới trẻ, nói chung, Ngài đã không ngừng đồng hành với họ, “nâng họ lên cao”, như Ngài từng nâng mình lên cao. Hướng tới Thiên Chúa!

Khi Đức Gioan Phaolô II công du nước Pháp năm 1980, một cuộc gặp gỡ quy tụ 50.000 bạn trẻ đã được dự kiến tại Parc des Princes (Công Viên các Hoàng tử), và các giáo dân của Đức Cha Seitz cũng tự tổ chức để tham dự cuộc gặp gỡ này. Họ nhận thấy các bài ca do ban tổ chức chính thức đưa ra để đón tiếp Đức Giáo Hoàng không hay và cũng chẳng ra gì. Không chần chừ gì cả, Đức Cha và nhóm người trẻ chung quanh Ngài bắt đầu huy động, và với một chút mưu mẹo, họ dành được một ngàn chỗ quy tụ bên nhau. Từ đó họ hát to lên bài Ave Maria Lộ Đức, được đám đông lập lại. Và thế là thành công rực rỡ! Đức Gioan Phaolô II biểu lộ niềm vui của Ngài và cùng hát với tất cả mọi người.

Đức Cha nói [7](7): Người ta đã viết về “người nữ vĩnh cửu”, đã bàn về “người nam vĩnh cửu”, Tôi ước mong mai sau này sẽ có một tuyệt tác mà tôi gợi ý lấy tựa đề là Người trẻ vĩnh cửu (Ngài lại đã chẳng viết tác phẩm đó sao!…). Vì tôi thực sự tin rằng mình đã gặp Người trẻ vĩnh cửu ấy trong suốt các cuộc hành trình của tôi. Người trẻ vĩnh cữu ở đó, giữa chúng ta; họ không tệ hơn, cũng chẳng tốt hơn, và cũng không hề có một bản tính khác với chúng ta trước đây.

Từ thế hệ này sang thế hệ khác, người ta tìm thấy cùng những đức tính nền tảng ấy: Người trẻ bị lôi kéo bởi Chân, Thiện, Mỹ. Họ hướng về điều đó tự bản chất. Hơi thở anh hùng hay thần bí ở trong họ, với việc ưa thích mạo hiểm, ít nhất là dưới dạng tiềm năng. Thật hạnh phúc khi các tiềm thể bẩm sinh này đã không bị phá hủy một cách có hệ thống!

Và người trẻ vĩnh cửu ấy cũng có cùng những thiếu sót: thiếu kinh nghiệm, dĩ nhiên; không làm chủ được tất cả những gì đang sôi sục trong lòng, hành xử nhiều khi mâu thuẫn vì bản vị chưa được định hình. Sau hết, như luôn luôn vẫn thế, họ cần được “giáo dục”, trong nghĩa mạnh của từ này: được hướng dẫn, được nâng lên cao. Họ không khước từ điều đó – trừ khi người ta làm mọi thứ để khiến cho họ chán ngán.

Nguồn gốc cuộc khủng hoảng của người trẻ không nằm trong sự thay đổi bản tính – cũng không nằm trong sự thay đổi xã hội – nhưng là trong sự hoảng loạn, đôi khi trong việc đào nhiệm, của người lớn.

Paul Seitz, “người trẻ vĩnh cửu” giờ đây đang dùng các sức lực cuối cùng của mình với giới trẻ, Ngài ý thức về các ân sủng Thiên Chúa đã ban cho Ngài đối với họ, về tâm hồn trẻ trung mà Ngài vẫn luôn duy trì được, và nhờ đó, Ngài thông truyền cho họ lòng hăng say đối với sự nghiệp của Thiên Chúa, là sự nghiệp mà Ngài đã luôn luôn phục vụ. Một sinh viên làm chứng như sau[8] (8):

Gặp Đức Cha Seitz trong bối cảnh sinh viên thời đó – một bối cảnh còn đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi “các biến cố” năm 1968, trong lúc mà tư tưởng mác xít đã không để nguyên vẹn bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống xã hội, làm rúng động cả các xác tín sâu thẳm nhất, và đi tới chỗ buộc tội cho các giá trị tinh thần là đã gây ra sự đổ vỡ xã hội – gặp Đức Cha Seitz trong bối cảnh này có nghĩa là nhận được một luồng khí trong lành to lớn giữa một môi trường tù túng và ù lì, nơi các điểm mốc bị đánh phá và bị giản lược thành một bước đi nhỏ bé của lịch sử mà người ta nhất thiết cần bỏ lại sau lưng, nếu không muốn có nguy cơ và đôi khi có đe dọa bị loại trừ nguyền rủa.

Trước lúc Đức Cha Seitz tới, đã có rất ít tiếng nói, nếu không muốn nói là không có tiếng nói nào, dám liều lĩnh bơi ngược dòng dư luận xã hội chung quanh tới mức ấy, và công khai như vậy. Còn một vài tiếng nói đã làm điều đó thì lại chưa tìm được nền tảng suy tư, kiên trì, đào sâu, điều rất cần thiết để chống lại cả một hệ tư tưởng (…).

Đức Cha Seitz là một trong những người đầu tiên trở về từ hệ tư tưởng này, một loại bẫy lừa dối về tự do: đó chính là chế độ cộng sản được áp dụng trong thực tế. Ai đó mà khám phá ra Ngài sau khi từ Việt Nam trở về thì chỉ có thể ngạc nhiên, như tôi đã ngạc nhiên, bởi nhữnggì Ngài thể hiện và chứng thực. Đó là hiện thân của con người đứng thẳng, được tôi luyện qua thử thách bởi sứ mệnh của mình, sứ mệnh này vừa làm Ngài thoả mãn, vừa dẫn Ngài tới việc bị trục xuất, sau bao nhiêu trận chiến lập đi lập lại, với những hệ lụy đau đớn. Tuy nhiên, Ngài vẫn gây ấn tượng bởi sự đơn sơ, bởi sự thanh thản trên khuôn mặt, bị che dấu một phần bởi cặp kính đen dầy, mà người ta thoáng thấy hốc hác trên chòm râu ngắn của vị thừa sai.

Cái nhìn tự tin, trầm tĩnh, vừa cương quyết vừa dịu hiền, lộ ra nét khổ đau của kẻ bị lưu đầy, cái số phận mà Ngài phải phũ phàng đón nhận. Cái nhìn đó còn in dấu ấn của tinh thần trách nhiệm đối với các linh hồn, mà Ngài đã gánh lấy trên vai, và xem ra Ngài đã không thể hoàn toàn trút bỏ. Cái nhìn của Ngài luôn hướng tới các Ki–tô hữu mới này, là hoa trái các cố gắng của Ngài, những người xuất thân từ nền văn minh nho giáo, và theo Ngài, nền văn minh ấy hoàn toàn hướng về sự sống, thí dụ như, một cách tự nhiên, nó chống lại việc phá thai.

Đức Cha Seitz cho rằng Ngài được củng cố trong lòng tin, sau khi trông thấy đức tin Ki–tô đã có thể đâm chồi nảy lộc phong phú biết bao trong nền văn hóa đông phương, bề ngoài xem ra rất xa lạ với nền văn hóa của chúng ta, nhưng trong thực tế, lại rất gần gũi với các giá trị của Tin Mừng.

Có một điểm ngạc nhiên khác nữa: đó là lòng kiên nhẫn của Đức Cha đối với các kẻ xử tội Ngài, tự căn bản, đó là một tâm tình huynh đệ vô biên, vượt lên trên sự tương phản về quan điểm. Ngài đã muốn, vì thiện ích của họ, chứng minh cho họ thấy rằng kiểu suy tư của họ khiến họ lạc hướng biết chừng nào, nhưng Ngài không bao giờ nguyền rủa con người họ.

Một khi đến Paris, Ngài đã tìm thấy nơi thủ đô một bầu khí khiến Ngài không khỏi nhớ tới một vài khía cạnh của những gì Ngài đã sống tại Việt Nam. Dầu vậy, Ngài đã kêu lên: “Người ta đã nói với tôi rằng Paris là một thành phố đồi trụy, nơi lan tràn một chủ thuyết trí thức ngột ngạt. Nhưng tôi, tôi xin nói với quý vị, hãy mở to mắt và nhìn cho kỹ. Đây Paris, thành phố thánh thiện. Paris này đang hiện diện, rất sống động, và tại nhiều nơi, một số đông dân cư của mình đang cầu nguyện. Đó là điều thật phi thường”

Và người chứng này viết tiếp:

Vài sinh viên của trường H.E.C (Cao Học Thương Mại) tìm cách lên án Đức Cha bằng cách gán cho Ngài cái nhãn “thực dân tôn giáo”. Ngài điềm tĩnh trả lời họ rằng chỉ Phúc Âm thôi đã đủ để đến được với các con tim, thậm chí bên ngoài bối cảnh của người giới thiệu nó, Ngài còn nhấn mạnh rằng người Việt Nam đủ thông minh để phân biệt Sự Thiện, và hồi phục lại chính từ nền tảng các truyền thống của mình.

Như vậy, với tất cả những ai muốn lắng nghe, Ngài đã cho họ tấm gương của một vị tông đồ cương quyết, và của một tình người tràn sức sống.

—————————————–

(1) Đường Hy Vọng, tựa đề cuốn sách đầu tiên mà Đức Cha Thuận đã viết trong những năm này; nó sẽ được tiếp nối bằng nhiều sách khác về cùng đề tài.
(2) Các máy bay ném bom nổi tiếng của Mỹ, bay trên độ cao 5.000 mét để tránh súng phòng không, mục tiêu các cuộc ném bom này thường không thể đạt tới; nhưng số nạn nhân gần thì vô kể.
(3) Informations Catholiques Internationals (Tin tức Công giáo Quốc tế), số ngày 15-2-1975.
(4) Bài phỏng vấn của Georges SUFFERT, trong Le Point 29-12-1975.
(5) Le Temps des Chiens muets (Thời của Những Con chó Câm), tr. 278.
() Fontgombault đã tìm lại được chủ đích đầu tiên của nó là đan viện Biển Đức vào năm 1948: sau khi chủng viện dành các ơn gọi tu muộn, nơi chàng thanh niên Paul Seitz sống giữa các năm 1928-1929, bị đóng, Viện Phụ Solesmes đã gừi một đoàn đan sĩ tới để đem lại sự sống cho ngôi nhà cầu nguyện này.
(7) Le Temps des Chiens muets (Thời của Những Con Chó Câm), tr.217.
(8) Alain de la Bigne.

****************************************************

CHƯƠNG XV
SỨ MỆNH HOÀN THÀNH

“Những năm ra mặt trận được tính gấp đôi”, trong quân ngũ người ta nói thế. Vậy mà Đức Cha Seitz đã ra mặt trận từ năm 1937, nghĩa là bốn mươi năm; nhân đôi lên thành tám mươi năm!… Không tính ba mươi năm chuẩn bị trước đó, cũng không lúc nào ngơi nghỉ  – giữa việc đi quân dịch bên Maroc, các tháng dài nằm trong nhà thương và tĩnh dưỡng trên núi và việc đào tạo cam go tại chủng viện…

Tuy trên giấy tờ, Đức Cha mới chỉ chưa đầy bảy mươi tuổi, khi Ngàitrở về Pháp, thân xác Ngài đã từng chứng kiến biết bao biến cố, biểu lộmột sự mòn mỏi nào đó, nếu không muốn nói là một sự mỏi mòn chắc chắn. Dĩ nhiên, Ngài không muốn để lộ ra điều gì cả, tính Ngài là vậy, và Ngài càng gắng sức hơn nữa, khi cảm thấy thể xác mình trở nên bướng bỉnh. Tuy nhiên, những người thân của Ngài không bị lừa, và họ xin Ngài làm việc ít lại, nghỉ ngơi thêm. Nhưng Đức Cha nói mình không có thời giờ cho việc ấy. Đầu óc Ngài còn đầy những dự án, với cái nhìn rất rộng, hướng ra toàn cầu, đặc biệt liên quan tới nền giáo dục Ki-tô giáo; vậy là Ngài cứ thường xuyên làm việc quá sức. Ngài muốn chết trong khi đang phấn đấu, và luôn cố gắng lấy lại sức, cho đến ngày cuối cùng khi sức lực đã cạn kiệt.

Khẩu hiệu mới của Ngài là: “Nếu chờ cho mọi sự xuôi chảy mới hành động, thì sẽ chẳng bao giờ làm gì cả!”

Cuộc Cách Mạng đang tiến hành và sẽ lan rộng khắp nơi, Ngài đã nói thế. Ngài nghĩ rằng điều còn thiếu để cho cuộc cách mạng này có thể đốt cháy thế giới, không phải bằng lửa và nước mắt, nhưng là bằng hòa bình, công lý và tình yêu, đó là chúng ta, các Ki-tô hữu, phải quyết định bước theo chân Chúa Ki-tô, để thực hiện thành công sứ điệp của Ngài.

Về vấn đề này, mỗi người trong chúng ta phải thừa nhận rằng mình còn chậm chạp trong việc sống “sự điên dại” mà Lời Chúa đòi hỏi; và chúng ta cần phải thú nhận sự bất trung hay sự nguội lạnh của mình. Quá nhiều khi, chúng ta coi việc thực hành đức tin của mình như một hãng bảo hiểm cho mọi nguy cơ: đó đâu phải là Tin Mừng đích thực.

Ngài còn công bố cho tất cả những ai muốn nghe Ngài: Đây là thời điểm dành cho các thánh, và chúng ta cần phải nên thánh! Vậy chả lẽ chúng ta sẽ phải đi qua hỏa ngục trước khi xác tín về điều này hay sao? Quý vị cứ hỏi các Ki–tô hữu bên Việt Nam, bên Tầu, bên Liên Xô xem tôi có nói quá đáng không!

Trên thực tế, các Ki-tô hữu Việt Nam đang sống trong một hỏa ngục ngày càng kinh khủng; nó trở thành không kham nổi nữa đến độ con số các thuyền nhân ngày càng gia tăng trong những năm sau khi vị Giám mục Kontum trở về Pháp. Bị chèn ép, người dân  trốn chạy cộng sản, họ thà

liều mình chết trên biển cả hơn là chịu những sự bách hại tàn bạo của Việt Cộng, hỏa ngục của các trại tập trung cải tạo và cưỡng bức lao động. Không gì có thể ngăn chặn những kẻ xâm lăng trong nhu cầu quái ác của chúng đòi nghiền nát tất cả những gì không đi theo lý tưởng mác-xít, thêm một chút nồng nặc của chủ thuyết Mao; và chúng bắt đầu bằng cách nghiền nát Giáo hội Công giáo.

Có cần phải lập lại điều này với những người đã không hiểu nó một cách đầy đủ không? Thể trạng Đức Cha ngày càng mòn mỏi, từ khi trở về Pháp, vì sự thiếu hiểu biết không thể hiểu nổi của những người mà Ngài tin tưởng sẽ giúp chuyển lại sứ điệp của Ngài cho người đồng hương, cho các anh em đồng đạo và cho Hội đồng Giám mục. Chẳng quan trọng gì đối với Ngài các lời nguyền rủa cá nhân, mà người ta ném vào mặt Ngài: đồ “bất lương”, “giả hình tột độ”, “phản động”, “thủ cựu”, “chống cộng sơ đẳng”, “chứng nhân phe đảng”: tất cả những điều này đã được nghe và được viết chống lại Ngài. Sau cùng, sự tấn công thấp hèn nhất lại đến từ các giáo sĩ Pháp – và không phải là những người cấp thấp —. Sau khi loại Ngài ra khỏi Hội nghị khoáng đại của các Giám mục Pháp, những vị này đã thành công trong việc thuyết phục Vatican đừng bổ nhiệm Ngài làm “Đại diện Tòa Thánh” đặc trách người tỵ nạn Đông Nam Á, trong khi sắc lệnh đã sẵn sàng để được ký… Ngài khẳng định rằng không phải chỉ trong chế độ cộng sản người ta mới bị phản bội bởi chính các người thân của mình.

Tuy nhiên, sự lạc quan siêu nhiên và lòng tin tưởng của Ngài nơi Thiên Chúa cũng như nơi con người đã khiến cho Ngài, thay vì thất vọng, thì lại trông thấy trong những năm thi hành sứ mệnh trên đất Pháp, một bình minh bắt đầu ló dạng ở chân trời, và Ngài thông truyền niềm hy vọng của mình sang con tim của các đám đông đang lắng nghe mình.

Để có thế nắm bắt tốt hơn tâm hồn của Đức Cha Seitz ở chặng cuối này trong cuộc đời dương thế của Ngài, cần đọc lại những hàng sau cùng trong cuốn Thời Những Con Chó Câm :

Dấu chỉ đầu tiên của bất cứ cuộc tái sinh tinh thần nào, dù là của một người hay của một dân tộc, đó là lời cầu nguyện. Khi ông Khanania, con người đáng thương đang ngột ngạt vì sợ hãi, nhận được lệnh đến đặt tay trên anh Saolô kẻ bách hại, Chúa đã trấn an ông bằng cách chỉ nói một cách đơn giản: “Anh ấy đang cầu nguyện!” – Vậy là Khanania hết run sợ (xem sách Công Vụ Tông Đồ 9,10-19-ND).

Thế mà này đây, sau biết bao năm vắng mặt, khi miệt mài rong ruổi trên đất Pháp đang bệnh hoạn trong tâm hồn , tôi khám phá ra cùng dấu chỉ khích lệ ấy: nước Pháp đang cầu nguyện.

Tôi thấy ở đây người ta rất “đói khát” Thiên Chúa; có nhiều lời cầu nguyện đích thực trong các tổ ấm đầy sức sống thiêng liêng đang hiện diện khắp nơi và ngày càng gia tăng. Không có gì mất đi, không có gì bị chết. Các ơn gọi không thiếu: chúng đang chờ đợi.

Ngay cả nếu trong số những người kiếm tìm Thiên Chúa đó, có vài kẻ đi lạc trên những con đường băng ngang, hướng về các “nơi trú ngụ hạng hai” là các giáo phái, các tôn giáo Đông phương, kiếm tìm các thầy guru Ấn Độ; kể cả những người đắm mình trong ma túy hay trong sự phản kháng: tất cả đều đua nhau làm chứng rằng vũ trụ vắng bóng Thiên Chúa của chúng ta đã trở thành nơi không thể thở được, rằng ở đó họ bị ngạt, và họ đang khao khát một nền thần bí đòi buộc họ phải vươn cao hơn, rằng họ buồn nôn vì chủ thuyết chính trị xã hội lè tè tầm thường này, trong đó có biết bao ngôn sứ giả đang tìm cách dẫn họ đi lạc lối.

Giáo Hội của Chúa Ki–tô, dù ngày nay bị khinh miệt biết chừng nào, chưa bao giờ lại có một tương lai phong phú như thế, một bình minh tươi sáng như thế trước mặt: Giáo Hội đang lên đường tìm kiếm con người. Các đám đông mênh mông tìm kiếm Giáo Hội.

Có lẽ chưa bao giờ người linh mục lại được mời gọi để thực thi một nhiệm vụ hiển nhiên và cao quý hơn, đòi hỏi xả thân quên mình hơn – bởi vì ngày nay đó là một nhiệm vụ vô cùng khẩn thiết: nhiệm vụ đem Thiên Chúa, và chỉ mình Thiên Chúa thôi, đến cho các tâm hồn đang suy nhược vì đói lả; phần còn lại rồi sẽ được ban thêm gấp bội. Đơn giản chỉ là vấn đề về sự minh bạch của Thiên Chúa!

Như thế, khi rong ruổi đó đây trên toàn nước Pháp, tôi vẫn thường nghĩ tới nhân vật truyền kỳ tý hon trong số các tượng mầu vùng Provence: đó là tượng “Người hân hoan”… chú bé đơn sơ này chả làm gì cả, nhưng lại khiến cho mọi người khác khó chịu với đôi cánh tay giơ cao và chỉ biết lập đi lập lại: “A! Đẹp quá!”, bởi chú ta đang cảm tạ Thiên Chúa vì các điều kỳ diệu mà mình khám phá ra khắp nơi, tận cả trong trái tim con người!

Đức Cha Seitz còn khẳng định rằng: Tôi không thể bi quan, mặc dù các mối đe dọa nặng nề đang đè trên chúng ta, bởi vì than hồng vẫn nóng cháy dưới lớp tro, trong nước Pháp quê hương tôi, và thi hào Péguy thật chí lý khi viết:

“Phiền ghê, Thiên Chúa nói.
Khi mai đây không còn những người Pháp này nữa.
Có những điều Ta làm ra, và sẽ không còn ai để hiểu chúng.
Hỡi Dân Ta, các dân trên trái đất nói rằng ngươi thật nhẹ,
Bởi vì ngươi là một dân nhanh nhẹn.
Các dân giả hình nói rằng ngươi thật nhẹ
Bởi vì ngươi là một dân lẹ làng.
Ngươi đã tới trước khi những dân khác lên đường.
Nhưng Ta, Ta đã cân ngươi, Thiên Chúa nói, và Ta đâu hề thấy ngươi nhẹ tí nào. 
Hỡi dân đã tạo ra các nhà thờ chính toà, Ta đâu hề thấy ngươi nhẹ trong đức tin.
Hỡi dân đã sinh ra đạo binh thập tự, Ta đâu hề thấy ngươi nhẹ trong đức ái.
Còn đức cậy, tốt hơn đừng nói đến, chỉ có đức cậy dành cho chúng thôi.
Dân Pháp của chúng ta là thế đấy, Thiên Chúa nói.
Không phải là chúng không khuyết điểm.
Cần phải vậy.
Thậm chí chúng còn nhiều khuyết điểm.
Nhiều khuyết điểm hơn những dân khác.
Nhưng với tất cả những khuyết điểm của chúng,
Ta lại còn yêu chúng vượt trên mọi dân khác, được coi như ít khuyết điểm hơn.
Ta yêu chúng vì chúng là như thế.
Chỉ mình Ta, Thiên Chúa nói, là không khuyết điểm!”[1] 

Không một chút cay đắng nào trong con tim vị Thừa sai bao la như biển cả này; không một thoáng hận thù nào đối với những kẻ đã làm cho Ngài đau khổ, dù họ là cộng sản hay giáo sĩ.

Khổ đau, chắc chắn rồi! Khổ đau muôn vàn vì cảm thấy mình bị phản bội trong các xác tín sâu thẳm nhất và chính đáng nhất. Nhưng “đời sống là niềm vui trong đau khổ của tình yêu”: câu nói này của một đan sĩ thần bí dòng Biển Đức[2] (2), Ngài đã sống lời ấy từng ngày, và sẽ còn sống lời ấy cho tới giây phút cuối. Và Ngài kết thúc:

Vâng, kìa bình minh đang ló dạng… Nó cho thấy Thiên Chúa!

Bình minh của sự vĩnh cửu

Bình minh của một cuộc sống mới bắt đầu le lói ở chân trời. Đến ngày mà “Anh Lừa” có ý chống đối, tỏ ra mệt mỏi với những cơn đau trong ngực, nhắc nhớ thời trẻ tại chủng viện, nhưng nhất là những cơn đau nơi thận. Những cơn đau này, Ngài cảm thấy từ hai mươi năm nay, nhưng đã không bao giờ tìm ra thời giờ để chăm sóc.

Có phải là bệnh lao phổi, căn bệnh đã từng để cho Ngài yên trong suốt các năm làm việc truyền giáo, thời mà Ngài đã từng trải qua một cuộc sống vất vả kiệt lực, có phải căn bệnh ấy giờ đây tái xuất hiện hay không, khi Ngài đã tìm lại được không khí quê hương? Cũng như thời xa xưa ấy, Ngài không hề để lộ gì ra bên ngoài, và gồng mình chịu đựng, theo thói quen của Ngài, để bắt con vật bất kham là thân xác phải tùng phục.

Nhưng con vật này nhảy lồng lên: vào năm 1980, những cơn đau ở thận mạnh đến nỗi Ngài phải quyết định đi khám bác sĩ và chụp quang tuyến. Việc chẩn bệnh cho biết một kết quả thật bàng hoàng: thận có bướu. Ngài được đưa vào bệnh viện Val-de-Grâce và giải phẫu ngay: người ta đã lấy ra một cục bướu to như trái bưởi.

Thể chất cứng rắn, nghị lực, lời cầu nguyện của Ngài cũng như của tất cả rất đông bạn bè thân hữu đã giúp Ngài hồi phục, và thậm chí có thể sinh hoạt trở lại bình thường. Đức cha sẽ còn xả thân suốt bốn năm nữa, đến tột đỉnh giới hạn của khả năng con người; đồng thời, Ngài cũng phải chống chọi cơn đau, đương đầu với những di căn đang lan ra một cách khắc nghiệt. Ngài phải nhập viện thường xuyên, để hạn chế sự tiến triển của chúng, Ngài phó mình trong tay Chúa và thưa lên với Người câu khẩu hiệu giám mục của mình, câu mà Ngài đã lấy lại của vị giám mục đầu tiên và nổi tiếng của Hà Nội là Đức Cha Retord: — “Fac me cruce inebriari —  Xin cho con say mê Thánh Giá.”

Bây giờ Ngài biết rằng kỳ hạn đời mình đã tới. Ngài xin lãnh nhận bí tích xức dầu bệnh nhân; và chính người cộng sự trung thành của Ngài từ ba mươi năm nay là cha André Rannou, đã làm phép cho Ngài trong hầm nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo thuộc Hội Thừa Sai, với sự hiện diện của các anh em linh mục trước đây tại Việt Nam.

Một cuộc giải phẫu mới đã được lên chương trình cho ngày 23 tháng giêng năm 1984, lần này là ở phổi, vì ung thư đã  di căn lên đó. Tám ngày trước khi mổ, Đức Cha Seitz đã tự tay viết di chúc, chỉ định chủng viện Hội Thừa Sai Paris là người thừa hưởng di sản, và Cha André Rannou là người có toàn quyền thi hành.

Một bản bổ túc di chúc cho thấy tình trạng nghèo khó đến bần cùng của vị Thừa sai vĩ đại, người đã quản trị hằng bao nhiêu triệu quan Pháp, đồng tiền Việt hay Mỹ kim trong suốt thời gian làm việc tông đồ của mình. Đức Cha viết trong di chúc:

Trước hết tôi muốn tuyên bố rằng, là người nghèo khó khi đến vùng truyền giáo năm 1937, tôi đi tới cuối đời trong cùng tình trạng trần trụi ấy. Tôi không có gì làm của riêng[3].

Cả các quà tặng hay của bố thí mà tôi đã có thể nhận được, “intuitu personœ [4]”, tôi đã luôn luôn coi như để phục vụ công việc truyền giáo. Tuy nhiên, tôi đã quản trị các ngân quỹ thuộc về giáo phận Kontum (Về điểm này, xin liên lạc với Roma (Toà Thánh, ND).)

Ngoài ra tôi đã sử dụng ở Hội Thừa Sai, phòng số 1.33, một số bàn ghế và vật dụng thuộc tài sản của Nhóm Thượng Kontum. Xin tùy vị thi hành di chúc quyết định.

Gậy giám mục bằng ngà với cái hộp đựng thuộc về giáo phận Kontum, và trong tương lai sẽ phải được trao lại cho giáo phận.

Chén thánh riêng của tôi, kỷ niệm của gia đình, sẽ được giao cho cháu tôi là M. Yves Seitz, bao lâu mà cháu thấy là có thể và có lý để giữ nó. Nếu không, thì chén thánh này được biếu cho Joseph A-Roan, nếu anh ấy kiên trì cho tới chức linh mục.

Vài vật kỷ niệm, không có giá trị riêng: các con triện cũ, nhẫn giám mục vv. có thể được giữ lại để một ngày kia giao lại cho giám mục Kontum, nếu như ngài thấy chúng cũng có giá trị nào đó vì là kỷ vật của quá khứ.

Thư viện: tôi rất mong muốn rằng các tác phẩm khoa học, lịch sử vùng Viễn Đông hay Việt Nam, nhân chủng học và những thứ khác, được giao cho Cha Pierre Tis gìn giữ. Còn mọi sách khác thì tùy ý vị thi hành di chúc quyết định, vì lợi ích hiện tại và tương lai của người Thượng Kontum sống tại Pháp.

Sau hết, một ước muốn cuối cùng để chấm dứt: mong sao việc nhận đỡ đầu cho người Thượng vẫn được tiếp tục bằng bất cứ giá nào, và qua ý muốn của những người Thượng đầu tiên đến Pháp, với sự nâng đỡ của Cha Rannou.
Làm tại Paris ngày 14 tháng hai năm 1984.
Paul L. Seitz

Như thế các ý nghĩ sau cùng của Ngài vẫn hướng về các bạn trẻ người Thượng; các sức lực cuối cùng của Ngài đã được dùng để gửi cho họ một bức thư cuối cùng, các lời khuyên sau hết, những novissima verba[5] . Ngày 21 tháng hai, hai hôm trước khi qua đời, Ngài viết cho họ như sau:

Tất cả các bạn trẻ, nam và nữ, rất thân mến,

Có lẽ vài người trong các con biết tại sao Cha còn ở trong bệnh viện? Một số khác thì không… Vì vậy Cha nghĩ rằng Cha phải cho các con biết sự thật. Khi các con nhận được những dòng chữ này, thì Cha đã được giải phẫu. Thứ năm ngày 24 tháng hai tới, Cha phải chịu cắt lá phổi bên trái, mà ung thư đã lan tới. Lá phổi này đã chết và là nguyên do thường xuyên gây nên tình trạng sốt cao và bị nhiễm trùng.

Bác sĩ phẫu thuật, mà Cha vừa mới tiếp chuyện về vấn đề này, đã không dấu Cha rằng có rất nhiều nguy cơ trong và sau khi mổ, vì Cha tuổi đã cao và tim lại đang mệt, vv và vv. Riêng Cha, Ca chỉ muốn biết một điều: đó là Cha đang ở trong tay Chúa, và điều mà Ngài muốn hay cho phép, luôn luôn là điều tốt đẹp nhất có thể cho thiện ích thế trần và vĩnh cửu của chúng ta.

Chính vì vậy mà Cha sống các ngày giờ chờ đợi này trong sự thanh thản và vui tươi, chúng sẽ cho Cha biết một cách rõ ràng ý muốn của Chúa. Cha mời gọi các con chia sẻ với Cha các tâm tình của niềm tin sơ đẳng này.

Nhưng trên hết, Cha muốn nói về các con. Tất cả các con đều đã đạt đến tuổi trưởng thành và tuổi của một sự chín chắn nào đó về tinh thần cũng như tình cảm. Nhìn chung, tác động của việc giáo dục và đào tạo nhân bản cũng như đạo đức Ki–tô giáo, được bắt đầu tại Pháp hơn mười năm nay, đã tỏ ra tích cực và hữu ích: bằng chứng là các người Thượng vùng Cao Nguyên Việt Nam là những người hoàn toàn, như những người khác, có khả năng thông minh và hội nhập. Đã có thời một số nhà quan sát nghi ngờ điều này. Riêng Cha, Cha chưa bao giờ mảy may nghi ngờ điều đó.

Đàng khác, Cha biết các con đã chịu cú sốc lớn như thế nào khi Việt Nam rơi vào chế độ cộng sản năm 1975! Nó loại bỏ mọi hy vọng được sớm trở về quê hương, và gặp lại gia đình. Nhưng chúng ta không làm chủ Lịch Sử: Thiên Chúa đã quyết định một cách khác, và này đây tất cả các con, khi dần dần thêm tuổi, thấy mình bị bó buộc phải hội nhập vào thế giới này, sống một cuộc sống rất khác với cuộc sống tại Việt Nam, và cách riêng với cuộc sống tại quê nhà các con –nói chung các con đang can đảm làm điều này. 

Nhưng đó chính là điều cha mong muốn lôi kéo sự chú ý của các con, liên quan tới vài điểm suy tư có tầm quan trọng rất lớn đối với sự tiến  triển hài hòa của các con sau này.

Các con có biết điều gì đã đánh động Cha nhất, khi quan sát cuộc sống của người Thượng ngay từ lúc Cha đặt chân lên vùng Cao Nguyên năm 1952 không? Đó là cảm thức của họ về thiên linh, về sự thánh thiêng, về tôn giáo, về siêu nhiên… các con gọi điều ấy là gì thì tùy.

Một số học giả ngày nay gọi đó là cảm thức siêu hình bẩm sinh nơi con người – con người mọi thời và mọi nơi, thuộc mọi nền văn minh và văn hóa. Cha mong rằng đó là một trong những đức tính nền tảng đầu tiên của các con, một món quà mà Thiên Chúa không bao giờ khước từ với người thiện chí.

Vậy thì, câu hỏi đầu tiên mà Cha đặt ra cho tất cả các con là câu hỏi sau: các con đã làm gì với món quà ấy của Thiên Chúa, trong bối cảnh của cuộc sống Tây phương, duy vật và hưởng thụ này? Tự lòng mình, mỗi người phải trả lời một cách riêng tư.

Có một câu hỏi khác mà Cha mời gọi từng người trong các con trả lời một cách thành thật trước mặt Thiên Chúa: các con biết rằng ngày xưa đã có nhiều người ngoại quốc đến “làm việc” thiện nguyện giúp cho người Thượng. Tại sao trong tương lai lại sẽ không có chính các người Thượng làm việc thiện nguyện này?

Như vậy tham vọng của Cha đối với các con không hề ngừng lại tại điểm mà hôm nay đã đạt tới. Mọi sự bây giờ mới bắt đầu … và sẽ chỉ có các con là đưa ra được câu trả lời cho những tham vọng thân tình và yêu thương sâu thẳm của Cha. Nếu Chúa muốn, thì đó là cả một chương trình suy tư, đã phải khai mào giữa các con, và có lẽ sẽ được tiếp tục trong một cuộc gặp gỡ tại Précigné, vào cuối mùa hè tới.

Cha kết thúc bằng cách tuyên bố với các con rằng cha ủy thác cho Cha Pierre Tis gia tài tình yêu thương trìu mến của cha và tất cả sự tận tụy của các Linh Mục đã thành lập giáo phận Kontum. Chính Cha Tis có bổn phận thắt chặt các mối dây liên kết thân hữu giữa các con với nhau và giúp đỡ các con trong suy tư của mình, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của Cha André Rannou.

Dù có xảy ra điều gì đi nữa, cha “tạm biệt” các con!

Đức Cha Paul L. Seitz

Đó là di chúc thật sự của vị Giám mục Thừa sai Kontum, để lại cho các con cái Bahnar của Ngài, để lại cho những kẻ mà Ngài đã gọi là Những người đứng thẳng, trong cuốn sách tuyệt vời, rất tiếc là được ấn hành với con số quá khiêm tốn, trong đó Ngài cho biết về chủng tộc thuộc gốc Mã lai-Polynési và Môn-Khmer này, với ngôn ngữ riêng, với nền văn hóa đặc thù, mà nếu không có Ngài  thì chắc là đã bị diệt vong.

Chính Đức Cha đã là “người đứng thẳng” cho tới ngày cuối đời. Buổi chiều ngày 22 tháng hai năm 1984, khi Cha Rannou, người cộng sự thân tín trông thấy tình trạng yếu mệt của Đức Cha nên khuyên Ngài thôi công việc thư tín mà Ngài vẫn đang tiếp tục, Ngài đã trả lời cha bằng cách chỉ vào cuốn sách trên chiếc bàn đầu giường, đó là một tuyển tập những bức thư của thống tướng de Lattre de Tassigny, bạn Ngài. Tựa đề: Đừng cam chịu.

Vài giờ sau đó, trên bàn mổ, Đức Cha Seitz trút linh hồn trong tay Chúa.

Vĩnh biệt Đức Cha về bên Chúa

Nhà nguyện Hội Thừa Sai, tuy rộng rãi, nhưng hôm ấy lại quá chật hẹp để tiếp đón đám đông tín hữu đến “tiễn biệt” người cha, người anh, người bạn của họ trong ngày thứ tư 28 tháng 2 năm 1984 về với Chúa. Chung quanh bàn thờ, gian giữa, các hàng ghế hai bên và cả ngoài sân, đâu đâu cũng đầy người, cho dù trời lạnh. Người Pháp, người Việt, người Thượng từ mọi miền nước Pháp đến đây khóc thương Ngài.

Đức Tổng Giám Mục Paris đã muốn đến chủ sự thánh lễ an táng để đánh dấu lòng quý mến của mình đối với Ngài – đã quá lâu là nạn nhân của việc một số giám mục tẩy chay Ngài – nhưng giờ đây được giới tríthức của nước Pháp nhìn nhận như là “một trong những người đem lại vinh dự lớn nhất cho Hội Thừa Sai Paris trong thế kỷ XX”, Đức Cha J.M. Lustiger khẳng định.

Thư gửi tín hữu Roma (15, 15-21) chương 15 các câu từ 15 tới 21 đã được chọn rất đúng để nói về vị Giám mục Thừa sai. Cha Jean Faugère – cũng là một người bạn trung thành và cộng sự nữa từ buổi đầu tiên cho tới giờ cuối cùng – đảm trách phần giảng lễ. Sau khi nhắc lại công trình bao la mà Đức Cha Seitz đã hoàn thành tại Hà Nội, rồi sau đó tại Kontum, cha nêu bật các nét chính nơi con người Đức Cha như sau:

Lo cho các linh hồn trước hết, điều này đã có nghĩa là cứu giúp người nghèo, giới trẻ, người đau yếu, người bị bỏ rơi, các gia đình tan nát vì chiến tranh;
Lo cho các linh mục, và sự hiệp nhất huynh đệ giữa hàng giáo sĩ Việt nam và các Thừa sai;
Lo cho việc phát triển con người toàn vẹn, trong mọi chiều kích: thể lý, trí thức và tinh thần;
Lo cho việc đào tạo các tiểu và đại chủng sinh, và Ngài rất quan tâm theo dõi việc học hành của họ.
Cha Faugère, người đặc trách các chủng sinh nhắc lại:

Chúng tôi đã thường được Ngài viếng thăm. Ngài thích nói chuyện với các học sinh, và nhiều chú nói với tôi: “Đức Cha nói tiếng Việt không rành lắm, nhưng chúng con hiểu hết. Chúng con lúc nào cũng thích thú lắng nghe Đức Cha, mà không để ý đến thời giờ qua đi.” Đó là vì các lời của

Ngài thông truyền sức năng động và những xác tín của Ngài, là các dấu chỉ của một đức tin sâu xa, một tinh thần lạc quan không hề lay chuyển, không thể để cho ai thờ ơ, và các học sinh của chúng tôi đặc biệt thích thú. Cũng chính vì thế mà người ta thường mời Đức Cha tới nói chuyện, diễn thuyết và giảng tĩnh tâm ngoài giáo phận của Ngài.

Chúa xét rằng công trình của Đức Cha trên trái đất này đã hoàn tất. Những năm sau này và những tháng cuối đời, Ngài đã phải chịu nhiều cơn đau thể lý. Những người đã có dịp sống với Ngài trong thời gian này biết Ngài đã chấp nhận thử thách với lòng can đảm và sự lạc quan dường nào. Mọi khổ đau Ngài chịu, Ngài đã dâng hết cho Việt Nam, và một cách đặc biệt cho các Ki–tô hữu Kontum, là những người, họ cũng thế, đang trải qua thử thách, một thử thách khủng khiếp. Nếu người ta xét qua vài tin tức mà chúng tôi nhận được, thì họ vẫn trung thành với Đức Ki–tô.

Lòng trung thành với Đức Ki-tô của các Ki-tô hữu vùng Cao Nguyên ấy, mặc dù họ vẫn bị bách hại dữ dội, người ta còn thấy rõ ba mươi năm sau ngày Chúa gọi vị Giám mục Thừa sai can trường này về: Ngài là người đã thực hiện biết bao công trình phi thường qua các tình huống tưởng chừng như bất khả, Ngài được thúc đẩy bởi một tinh thần đức tin giúp Ngài nhận ra bàn tay của Đấng Quan Phòng giữa các thử thách tồi tệ nhất, Ngài đã là vị chủ chăn của họ từ năm 1952 cho tới năm 1975, và đã tính sổ với Chúa về các linh hồn đã được trao phó cho mình.

Lạy Cha,
những người Cha đã ban cho con
con muốn rằng con ở đâu, họ cũng ở đó với con,
để họ chiêm ngưỡng vinh quanh của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.”
(Ga 17,24) 

********************************** 
 VÀI NIÊN BIỂU

22/12/1906 : sinh tại Le Havre, lúc đó thuộc giáo phận Rouen (hạ nguồn sông Seine)
01/1907 : rửa tội, tại giáo xứ Sainte-Anne, Le Havre
04/1917 : thêm sức, tại giáo xứ Sainte-Anne, LeHavre                                                                   
12/1926 –3/1928 : đi quân dịch bên Marốc             
4/1928 : quyết định ơn gọi
04/10/1928 : đến chủng viện Fontgombault
13/09/1929 : đến chủng viện Bièvres
23/12/1933 : chịu chức cắt tóc
01/07/1934 : chịu các chức nhỏ bậc một 
07/07/1935 : chịu các chức nhỏ bậc hai
05/07/1936 : phụ phó tế
13/03/1937 : phó tế
04/07/1937 : linh mục
14/09/1937 : lên đường truyền giáo
15/10/1937 : tới Hà Nội
25/01/1939 : cha phó nhà thờ chính tòa Hà Nội
23/12/1941 : giám đốc các hoạt động của Công Giáo Tiến Hành
1945 : cha sở nhà thờ chính tòa Hà Nội
22/08/1947 : thân mẫu qua đời, thọ 69 tuổi
29/06/1952 : được chọn làm giám mục Kontum
03/10/1952 : tấn phong giám mục tại Hà Nội
02/11/1952 : long trọng vào Kontum
11/10/1962 – 08/12/1965   : tham dự Công Đồng Chung Vatican II
15/07/1968 : thân phụ qua đời, thọ 94 tuổi
15-16/08/1975 : bị trục xuất khỏi Việt Nam, trở về Paris
23/02/1984 : qua đời tại Paris, thọ 77 tuổi 3 tháng.
19/06/1988 : Đức Gioan-Phaolô II chủ sự lễ phong Hiển Thánh cho 117 Vị Tử Đạo Việt Nam tại Roma.
                       
[1] PÉGUY, Le Mystère des saints Innocents (Sự huyền bí của các Thánh Vô tội)
[2] Dom Édouard ROUX, abbé (Đức Viện phụ) de Fontgombault
(3] Chính Ngài gạch bên dưới nhấn mạnh
[4] “Với danh nghĩa cá nhân”
[5] Những di ngôn tối hậu

Xin cáo lỗi vì file nghe có một số từ Tiếng Pháp chưa đọc đúng.