Chia sẻ tĩnh tâm tháng 10. 2018 cho chị em toàn Dòng NVHB

Đức cha Paul Léon Seitz gia nhập MEP là muốn đi truyền giáo ở Ma-rốc, nhưng Chúa lại dẫn ngài đến Việt Nam, đặt ngài ở Thủ đô Hà Nội, như bàn đạp để đẩy ngài lên Miền Cao Nguyên Trung Việt.

TẠ ƠN CHÚA
ĐÃ DỰNG NÊN CON CÁCH LẠ LÙNG (TV 139)

 
Dẫn vào:
 
Kính thưa quí chị, trong logo mừng năm Kim Khánh Thành Lập Dòng, chúng ta thấy có hàng chữ: TRI ÂN – CANH TÂN – LÊN ĐƯỜNG. Hôm nay, em kính mời quí chị cùng ngắm nhìn bối cảnh Dòng được thành lập, cùng sự bảo tồn sứ vụ riêng của Dòng qua hai Đức Cha Phaolô và Phêrô, để Tạ Ơn Chúa. Trong tâm tình đó, em kính mời quí chị cùng tìm hiểu và cầu nguyện.
 
Nhập nguyện:
 
Khung cảnh: Bối cảnh Dòng được thành lập và từng bước khai mở rõ nét sứ vụ riêng của Dòng trong chương trình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
 
Ơn xin: Xin cho con nhận ra và hiểu biết thật thâm sâu những ơn lành cao quí Chúa ban cho Hội Dòng và bản thân con; để con không ngừng tri ân và biết sẵn sàng dâng hiến cuộc đời con để phụng thờ Người, trong mọi sự và nơi mọi người.
 
Suy niệm:
 

  1. Bối cảnh Sáng lập

 
“Mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” (TV 139, 16).
Quả thế, Hội Dòng chúng ta có mặt trên cõi đời này, không phải do ngẫu nhiên, nhưng trong kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa. Và từng bước Người chuẩn bị môi trường, đẩy đưa từng cảnh huống, dẫn dắt đức cha Paul L. Seitz đến chỗ thành lập Dòng chúng ta.
Giờ đây chúng ta lần lượt điểm lại các sự việc từ khi Đức cha Paul L. Seitz đến Kontum tới lúc có lớp khấn sinh đầu tiên (chị Têrêxa Võ Thị Công và chị Joseph Phạm Thị Tất), cùng với “luật dòng” Mến Thánh Giá Kontum (1963). Đây là sự chuẩn bị gần của Thiên Chúa cho ngày sinh của Dòng.

Đức cha Paul Léon Seitz gia nhập MEP là muốn đi truyền giáo ở Ma-rốc, nhưng Chúa lại dẫn ngài đến Việt Nam, đặt ngài ở Thủ đô Hà Nội, như bàn đạp để đẩy ngài lên Miền Cao Nguyên Trung Việt.

Ngài đặt chân đến Kontum, ngày 02.11.1952. Chỉ 4 ngày sau, ngày 06.11.1952, ngài trình bày cho giáo phận chương trình hoạt động của ngài. Liền sau đó, ngài đi thăm 24 địa sở của Giáo phận. Ngài nhận thấy, người Thượng “hoặc là chết, do bị dồn ép và tiêu vong, hoặc là được cứu thoát, nhờ tự biến hóa và Kitô hóa”. Đối với ngài cũng như các vị thừa sai đang làm việc ở Kontum, thì “người Thượng có quyền được sống” và phát triển. Đây là “một công trình dài hơi”, mà sức mạnh Kitô giáo có thể và phải đảm đương. Lực bất tòng tâm, “chỉ riêng khu vực Truyền Giáo Gp. Kontum cũng đã rộng tới 70.000 km2, với 700.000 dân cư, trong đó chỉ có 26.000 người Công Giáo, và chỉ có 40 thừa sai”.

Trong suy tư, cầu nguyện, ngài cảm thấy cần phải có thêm nhiều “người thợ” tông đồ cho cánh đồng truyền giáo rộng lớn này.

Ngài nghĩ ngay đến Dòng Chúa Cứu Thế, là chỗ thân tình với ngài. Ngài viết thư mời họ cộng tác truyền giáo (1953 và 1956). Lời mời gọi tha thiết của ngài như rơi vào quãng không.

Thấy người Kinh ùn ùn kéo lên Cao nguyên, trong số này có nhiều người Công giáo. Ngài nghĩ “đây là người” Chúa gởi tới cho cánh đồng truyền giáo. Ngài liền viết thư khơi lên trách nhiệm truyền giáo của người kitô hữu và kêu gọi người Kinh truyền giáo cho anh em Thượng (Thư Chung 1958).

Trong hai việc làm trên, chúng ta đọc được nỗi thao thức của ngài: kiếm tìm người “đem ánh sáng Phúc Âm đến cho người Thượng”, từ tu sĩ ngoài giáo phận, đến tín hữu người Kinh trong Giáo phận, nhưng xem ra ngài đã “gõ” chưa đúng "cửa" trong kế hoạch của Chúa Cuối cùng, ngài được thúc đẩy lập một dòng mới để đáp ứng nhu cầu truyền giáo. Có thể nói, Dòng chúng ta là “món quà đầu tiên” Thiên Chúa muốn tặng ban cho vùng Tây nguyên nói chung và cho Giáo Phận Banmêthuột nói riêng, để kiến tạo cho vùng đất này “một kỷ nguyên Hoà Bình”. Công việc thành lập Dòng có nhiều yếu tố thuận lợi và tiến triển rất nhanh.

Vào năm 1959, khi thông báo cho toàn giáo phận để chiêu sinh lập dòng, ngài đã có ngay 19 ứng sinh mới cùng một ít chị Mến Thánh Giá không có lời khấn xin chuyển qua.

Khi Giáo hội vừa thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam (24.11.1960), ngài trở thành Giám mục chính toà Kontum. Ngài nghĩ ngay đến việc cải tổ Dòng Mến Thánh Giá, theo lời thỉnh cầu của Thánh Bộ Truyền Giáo và quyết định của Công Đồng Hà Nội. Ngài công bố điều này trên tờ báo “Dư âm”, tiếng nói chính thức của GP. Kontum vào ngày 01.01.1961, với các thành phần dự trù và chương trình huấn luyện hẳn hoi.

Ngày 20.02.1961, ngài đã gởi ngay 3 chị (Dòng MTG không có lời khấn) ra Đà Nẵng, vào lớp Tiền tập để chuẩn bị bước vào Nhà tập. Năm 1963, ngài đã có 2 khấn sinh cùng với Quy Luật Dòng Mến Thánh Giá Kontum ra đời.
Chúng ta chỉ biết “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu.” (TV 139)


Bảo tồn và khai triển rõ nét Đặc sủng sáng lập Dòng.

Kính thưa quí chị,
Bối cảnh Dòng khai sinh đã lạ lùng, nhưng để Hội Dòng được bảo toàn và phát huy bản sắc Đặc sủng Sáng lập, một lần nữa chúng ta lại thấy bàn tay dẫn dắt của Thánh Thần Thiên Chúa, trên đức cha Phêrô, khi ngài tiếp nhận và làm cho Dòng mỗi ngày một phát triển hơn.

Thật là kỳ diệu, Hội Dòng được khai sinh bởi Đức Cha Paul L. Seitz, từ động lực kiếm tìm người tông đồ cho cánh đồng truyền giáo mênh mông, đến chỗ lập Dòng. Để bảo vệ và phát triển gia sản của vị tiền nhiệm, Đức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai đã "ngoan ngoãn" đi theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, như ngài từng nói với quí chị thưở ban đầu, ngài “luôn luôn trung thành với Chúa Thánh Thần, dưới sự dìu dắt của Đức Mẹ”, khi viết Hiến Pháp cho Dòng.

Để có thể trải nghiệm điều này thật sâu, thật rõ, chúng ta thử tìm hiểu hai lá thư mời Dòng Chúa Cứu Thế và thư chung 1958 của đức cha Paul L. Seitz để xem ngài có hoài bão gì khi lập Dòng chúng ta. Ta có thể tóm gọn: TÌM NGƯỜI TÔNG ĐỒ CHO CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO KONTUM. Dòng tu là thành phần ngài nghĩ đến trước tiên, ngài thấy rằng:

  • sự hiện diện của một Tu Viện sốt sắng luôn là nguồn ơn đặc biệt cho khu vực

  • giúp hoàn thiện và đào sâu việc huấn luyện Kitô giáo cho những người Thượng

  • mở một trung tâm “tĩnh tâm” …cho những người Thượng nòng cốt.

  • ảnh hưởng trên người Việt hiện có hay sẽ tới, để nắn đúc họ vào vai trò đào tạo và tông đồ cho những người Thượng.

  • tìm ơn gọi linh mục, tu sĩ nơi người Thượng.

Khi viết thư chung cho người Kinh năm 1958. Ngài mời gọi họ quan tâm đến người Thượng. Ngài bảo: “họ có trách nhiệm mưu phần rỗi đời đời cho anh em Thượng”; và ngài nhờ họ giúp người Thượng được phát triển về “nhân cách và xã hội” v.v…: “anh em là những người đã được Thiên Chúa lựa chọn để chu toàn nhiệm vụ ấy, nhiệm vụ đào tạo người”.

Khi không nhận được sự đáp ứng của Dòng Chúa Cứu Thế, ngài đã trực tiếp viết thư cho người Thượng (1956, 1958), lời viết trong thư khi thì tha thiết dạy dỗ, khuyên răn, khi thì nghiêm khắc sửa dạy. Mục tiêu là để bảo tồn nòi giống họ, để làm vinh Danh Chúa và mưu phần rỗi đời đời cho bản thân và con cháu họ.

Trong bối cảnh ấy, ngài đã quyết tâm lập Dòng mới mang danh Mến Thánh Giá Kontum, để có những người thợ tông đồ biến những ước mong của ngài nên hiện thực mà ngài đã đêm ngày cầu nguyện và kiếm tìm cho cánh đồng truyền giáo.

Và thật lạ lùng, những ước mơ ngài ấp ủ chưa nói ra thành lời rõ ràng, cụ thể cho con cái qua luật Dòng, thì chính đức cha Phêrô đã từng bước thực hiện những điều ấy cho Dòng và chỉ dạy cụ thể qua Sắc lệnh Thiết lập, qua việc soạn thảo Hiến Pháp, và Giải thích Hiến Pháp của Dòng.

Hành động:
Khu đất, chiếc nôi đầu tiên của Dòng tại 151 PCT trở thành Nhà Hướng Thượng (1969). Nơi đây có 2 cơ sở: 1 là lưu trú cho các em nữ người dân tộc và 1 là Trung Tâm huấn nghệ của Giáo phận.

Cộng đoàn đầu tiên được thành lập năm 1970, giữa làng Thượng, đó là : cộng đoàn Ea Kmar, lúc đó toàn Dòng chỉ có 13 chị khấn sinh.

Về văn bản

Qua Sắc Lệnh Thiết Lập: “Ta đã xin phép Toà Thánh sáng lập một dòng nữ để xúc tiến việc truyền bá Phúc Âm trong địa phận mới Ta được trao phó”.

Địa phận mới là Giáo phận Banmêthuột, “Giáo phận thừa sai... đi đến với các người sắc tộc, do đó sắc thái đặc biệt của địa phương là hướng về người sắc tộc”. (GTHP số 4: mục đích riêng).

Tuy nhiên, ngài khẳng định: “Nhưng vì làm việc tông đồ giữa người sắc tộc là một đoàn sủng đặc biệt, đòi hỏi phải có những khả năng tri thức, tinh thần và siêu nhiên thích ứng. Do đó, Hội dòng phải thận trọng lựa chọn những người tình nguyện và có khả năng thực sự”.

Nơi khác ngài lại nói: “Ý của các Bề-trên Giáo-phận khi chủ trương xây dựng một hội dòng, trong hoàn cảnh cụ thể của miền Cao Nguyên, là để có những tông đồ được sai đi đến với những người thiểu số sống tản mác trong khắp miền. Có thể nói được rằng: đặc điểm hay đoàn sủng riêng biệt của Hội dòng là truyền giáo giữa anh em Thượng”. Tuy nhiên, Dòng chúng ta không chỉ lo cho người Thượng, nhưng đối với họ “Hội dòng phải luôn luôn dành ưu tiên cho những người này, vì họ là những người “khó nghèo”“bé mọn”, theo nghĩa của Thánh Kinh; họ là đối tượng ưu đãi của những sinh hoạt tông đồ trong Hội dòng”.

Như thế, giữa ĐC Paul Seitz và ĐC Phêrô có điểm trùng phùng: Dòng Truyền giáo và ưu tiên cho anh em Thượng.

Chúng ta chỉ biết cúi đầu và thưa: “Bàn tay Ngài, Ngài đặt lên con. Kỳ diệu thay tri thức siêu phàm, quá cao vời con chẳng sao vươn tới.” (TV 139, 5b-6)

  1. Tâm tình tri ân cảm tạ

Giờ đây xin quí chị thật thanh thản và lắng đọng tâm hồn. Hình dung Chúa đang hiện diện và thủ thỉ với chị câu này: Trước mắt Ta, Dòng ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và yêu thương (x. Is 43, 4). Hãy nghe đi nghe lại cho đến khi chị cảm thấy lòng tràn trề niềm vui, chứa chan hạnh phúc và tận đáy lòng chị thốt lên: Xin cho con nhận ra và hiểu biết thật thâm sâu những ơn lành cao quí Chúa ban cho Hội Dòng và bản thân con; để con không ngừng tri ân và biết sẵn sàng dâng hiến cuộc đời con để phụng thờ Người, trong mọi sự và nơi mọi người.

Chị hãy bắt đầu với lời cầu xin đầu tiên và dừng lại bao lâu chị có thể tìm thấy thú vị và an ủi thiêng liêng… Và cứ tiếp tục như thế cho từng lời mời của ơn xin.

Chị hãy để cho những người liên quan đến sự ra đời và phát triển của Dòng xuất hiện, cảm nhận tình mến họ dành cho Dòng và cho chị. Ngắm tâm tình, nhận ra công sức họ đầu tư cho Dòng và cho chị. Chị hãy hưởng nếm sự quí mến ấy với lòng biết ơn.

Chị cũng hãy để Chúa Giêsu hiện diện trước mắt chị và lắng nghe: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Ep 1, 4). Trong Đức Kitô, Dòng cũng nằm trong kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa như thế.

Đó là cách Thiên Chúa biểu lộ tình yêu đối với Dòng và với riêng chị… Chị có cảm thấy được thúc đẩy đáp trả tình thương của Thiên Chúa bằng việc tri ân và lên đường không?
 
Kết nguyện:
 
Hãy thân thưa với Chúa như tâm tình lòng chị đang có.

Đọc kinh lạy Cha để kết thúc hoặc kinh:

Lạy Chúa Giêsu, con dâng Chúa tay con để hoàn tất công việc của Chúa và để gieo vãi ân phúc của Chúa.
Con dâng Chúa chân con để bước đi trong đường lối Chúa.
Con dâng Chúa mắt con để điều hướng và chiếu giãi lòng nhân từ Chúa
Con dâng Chúa trí khôn con để Chúa suy tưởng trong con.
Con dâng Chúa lưỡi con để nói những lời yêu thương của Chúa
Con dâng Chúa tâm tư con để Chúa nguyện cầu trong con
và dâng Chúatrái tim con để yêu Cha trên trời, yêu Mẹ Thánh đáng mến
và yêu tất cả mọi người chung quanh con.
Xin hãy làm cho con bé nhỏ đi để Chúa được lớn lên trong con. Amen.
 
Tài liệu tham khảo:

  1. Hai thư đức cha Paul L.Seitz viết cho Dòng Chúa Cứu Thế (1953 và 1956).

  2. Thư viết cho người Thổ dân (1956).

  3. Hai thư chung (1958), một cho người Kinh và một cho người Thổ dân.

  4. Thông báo trên DƯ ÂM, Cơ Quan Chính Thức của Địa Phận Kontum  Năm thứ 20  – số 79, tháng 1 d.l năm 1961, về việc Cải tổ Nhà Phước Mến Thánh Giá tại địa phận Kontum.

  5. Hai thư của hai đức cha: Paul Seitz và Phêrô M. Phạm Ngọc Chi (1961).

  6. Danh sách quí chị tu từ 1959-1966 và số khấn từ 1963-2004.

  7. Sắc lệnh Thiết lập Dòng (31.05.1969)

  8. Giải thích Hiến pháp của đức cha Phêrô.

  9. Sách “Các Lm Thừa sai hải ngoại Paris đã phục vụ Giáo phận Kontum (1850-1975).

    Nt. Maria Kim Sơn
    Dòng Nữ Vương Hòa Bình