Sứ Mạng Ở Á Châu Ngày Nay: Một Kiểu Thức Thần Học Sứ Mạng Mới



SỨ MẠNG Ở Á CHÂU NGÀY NAY: MỘT KIỂU THỨC THẦN HỌC SỨ MẠNG MỚI

1. Giới Thiệu
Á Châu là bản quán của nhiều nền văn minh và nhiều tôn giáo thế giới. Nhiều nền văn hóa, tôn giáo và triết học Á Châu cổ điển hơn cả Kitô giáo. Hai phần ba dân số thế giới sống ở lục địa này, nhưng sau hai ngàn năm hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, Á Châu vẫn là nơi có tỉ lệ Kitô hữu thấp nhất (khoảng 4%).
Chương này sẽ khảo sát thần học sứ mạng của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) như được trình bày trong các văn kiện chính thức suốt ba thập niên qua. Các giám mục Á Châu khẳng định rằng hoàn cảnh Á Châu, với tính đa dạng về tôn giáo, văn hóa và quan điểm triết học của nó, đòi phải có một cách tiếp cận riêng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Chúng ta sẽ điều tra về những khía cạnh chủ yếu và những nguyên tắc nền tảng của thần học sứ mạng do FABC phát triển. Đặc biệt, FABC khẳng quyết rằng sứ mạng Kitô giáo ở Á Châu phải được triển khai thông qua cuộc đối thọai ba mặt: với các truyền thống tôn giáo Á Châu, với các nền văn hóa Á Châu, và với đại đa số người nghèo và những người bị gạt ra bên lề xã hội. Điểm tới của chúng ta là nhận diện phương thức sứ mạng hàm ẩn bên trong thần học sứ mạng của FABC: missio inter gentes (ở giữa lương dân) thay cho mẫu thức truyền thống missio ad gentes (đến với lương dân).
2. Tin Mừng Kitô Giáo Cắm Rễ Trong Khung Cảnh Đa Dạng Tôn Giáo Ở A Châu
Thách đố lớn nhất mà FABC phải đương đầu liên quan đến sứ mạng Kitô giáo ở Á Châu có lẽ là tính đa dạng và đa nguyên của cảnh vực Á Châu, với vô số tôn giáo, nền văn hóa, và dân tộc. Trong giòng lịch sử 2000 năm của mình, Giáo Hội đã gặp gỡ nhiều dân tộc, văn hóa và tôn giáo - bắt đầu với các nền văn hóa Do Thái giáo và Hy La, trước khi di chuyển đến các nền văn hóa La mã, Germanic, Celtic, Gallic và các văn hóa Au Châu khác từ thế kỷ thứ 4 trở về sau. Ơ Au Châu và Mỹ Châu, vấn đề được giải quyết bằng sự kiện rằng Kitô giáo trở thành tôn giáo và văn hóa thống trị. Được hỗ trợ bởi sức mạnh của đế quốc, Giáo Hội ở Au Châu đã vượt qua các cơ chế và tôn giáo ngoại giáo và đã kitô hóa lục địa này. Công việc của sứ mạng Kitô giáo là “chinh phục và lật đổ”; Kitô giáo được coi như duy nhất, độc chiếm, thượng phong, chuẩn mực và tuyệt đối. Rồi với sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân tây phương, Kitô giáo mất đi thế thượng phong của mình; và ngày nay không còn “những đại dương tách biệt các Kitô hữu khỏi các tôn giáo khác nữa”.
Nhà thần học Mỹ gốc Việt Peter C. Phan đã dám tuyên bố rằng “ở Á Châu vấn đề đa nguyên tôn giáo rõ ràng là một vấn đề sống chết” và, quan trọng hơn, “tương lai của Kitô giáo ở Á Châu tùy thuộc vào cách mà đa nguyên tôn giáo được hiểu và được sống”.[1] Vậy Giáo Hội nói chung và các thừa sai nói riêng cần phản ứng thế nào trước tính đa dạng và đa nguyên của tôn giáo và văn hóa ở Á Châu?
Phải nói ngay rằng FABC tỏ ra rất ‘thoải mái’ với tính đa dạng và đa nguyên này. Ngay từ đầu, FABC đã từ chối mọi hình thức của chủ nghĩa tôn giáo độc tôn, và nhìn tình trạng đa nguyên tôn giáo như một khía cạnh cố hữu và độc đáo của hòan cảnh tôn giáo và xã hội Á Châu. Các giám mục Á Châu cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách nào các Giáo Hội địa phương ở Á Châu có thể sống ‘thoải mái’ với tình trạng đa dạng và đa nguyên này. Hội nghị mở rộng FABC lần thứ nhất đã nhìn nhận rằng các truyền thống tôn giáo lớn ở Á Châu là “những yếu tố tích cực và đầy ý nghĩa trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.”[2]Về đa nguyên, các giám mục cho rằng đó là “điều cần thiết và không nên coi đó như một mối đe dọa đối với tính hiệp nhất Kitô giáo - trái lại, đó là một dấu tích cực và sáng tạo giúp chúng ta phát huy giá trị đích thực của hiệp nhất trong khác biệt.” FABC cũng khẳng định rằng “rõ ràng là Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động trong mọi truyền thống tôn giáo”, bởi vì ngay từ thời Giáo Hội của các tông đồ cũng đã ghi nhận rằng Thánh Thần của Đức Kitô hoạt động bên ngòai ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Ơn cứu độ của Thiên Chúa không bị giới hạn cho chỉ các thành viên của Giáo Hội, song được ban cho hết mọi người. An sủng của Thiên Chúa có thể đưa dẫn một số người đến đón nhận Phép Rửa và gia nhập Giáo Hội, nhưng không thể giả định rằng trường hợp này luôn luôn xảy ra. Đường lối của Thiên Chúa là cái gì mầu nhiệm và không thể đo lường được, và không ai có thể thiết định sự hoạt động của ân sủng Thiên Chúa.[3]
Đồng thời, FABC nhìn nhận rằng những người phê bình đa nguyên tôn giáo thường đề cập đến mối nguy của chủ trương tương đối và chủ quan. Đáp lại sự phê bình này, Văn Phòng Đặc Trách Các Mối Quan Tâm Thần Học của FABC giải thích rằng việc nhìn nhận đa nguyên tôn giáo không nhất thiết dẫn tới sự chấp nhận chủ nghĩa chủ quan hay chủ nghĩa tương đối - theo nghĩa rằng mọi quan điểm đều tốt ngang nhau! Những quan điểm triết học hay thần học như thế phải bị bác bỏ; và quả thật, mọi tôn giáo lớn của Á Châu đều tố cáo việc tương đối hóa thực tại như thế, nhất là việc tương đối hóa các giá trị căn bản của con người.[4]
3. Sứ Mạng Xét Như Cuộc Đối Thọai Với Thực Tại Ba Mặt Của Á Châu: Tôn Giáo, Văn Hóa, Và Sự Nghèo Đói
Ngay từ đầu, FABC đã luôn luôn chủ trương rằng trọng tâm sứ mạng của các Giáo Hội địa phương ở Á Châu phải là cuộc đối thọai với thực tại ba mặt của cảnh vực Á Châu: tôn giáo, văn hóa, và sự nghèo đói. Đối với FABC, đối thọai là “một phần thiết yếu của loan báo Tin Mừng,”[5] là phần “cốt yếu của chính đời sống Giáo Hội.”[6]
Đồng thời FABC cũng giải thích rằng đối thọai không che lấp nhu cầu loan báo Tin Mừng của Kitô giáo. Quả thực, có những lúc “Thiên Chúa mở ra cho chúng ta công việc minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ và là câu trả lời cho những vấn nạn nền tảng nhất của hiện sinh con người.”[7] Tuy nhiên, cần phải có một phương thức rao giảng riêng biệt đáp ứng được cảm thức Á Châu. Và phương thức này - theo các giám mục Á Châu - hệ tại trước hết ở chứng tá của các Kitô hữu và các cộng đoàn Kitô hữu về các giá trị của Nước Thiên Chúa. Đối với các Kitô hữu Á Châu, loan báo Đức Kitô trước hết có nghĩa là sống như Ngài, giữa các anh chị em thuộc các niềm tin khác, và thực thi các công việc của Ngài bằng sức mạnh của ân sủng Ngài.
Hội Nghị Toàn Thể FABC lần thứ 5 đã kết luận như sau: “Sứ mạng bao gồm: hiện diện với người ta, đáp ứng các nhu cầu của họ, nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa trong các nền văn hóa và các truyền thống tôn giáo khác, và làm chứng cho các giá trị của Nước Trời xuyên qua sự hiện diện, liên đới và chia sẻ.”[8] Như vậy, loan báo hay rao giảng được đồng hóa với chứng tá đời sống. Hội Nghị lần thứ 7, sau hai tháng suy tư về Tông Huấn Ecclesia In Asia của Đức Gioan Phaolô II, đã tái xác nhận việc chọn lựa “chứng tá đời sống” như phương thức loan báo Tin Mừng Kitô giáo ở Á Châu: “Phương thức hữu hiệu nhất để loan báo Tin Mừng và phục vụ nhân danh Đức Kitô vẫn luôn luôn là chứng tá đời sống. Người Á Châu sẽ nhận ra Tin Mừng mà chúng ta công bố khi họ nhìn thấy nơi đời sống chúng ta vẻ trong suốt của sứ điệp Đức Giêsu.”[9]
4. Rao Giảng Xuyên Qua Đối Thọai
Uy Ban Tư Vấn Thần Học của FABC trong tài liệu Các Luận Đề Về Đối Thọai Liên Tôn (1987) khẳng định rằng việc rao giảng có tính đối thọai: “Đối thọai và rao giảng là những chiều kích cốt thiết, biện chứng, và bổ trợ cho nhau trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Đối thọai đích thực bao gồm một chứng tá về trọn vẹn đức tin Kitô giáo của mình đồng thời cởi mở đón nhận chứng tá của tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Còn rao giảng là lời mời gọi người ta trở thành môn đệ Đức Giêsu và đảm nhận sứ mạng.”
Mối liên hệ giữa đối thọai và rao giảng là một mối liên hệ phức tạp. Chúng ta phải tránh mọi cố gắng giảm trừ cái này vào cái kia. Một số người có vẻ muốn nghĩ rằng đối thọai là hình thức đích thực duy nhất để rao giảng, vì Giáo Hội chỉ là một trong nhiều con đường cứu độ. Một số người khác sẽ cho rằng đối thọai chỉ là một bước - dù nó có căn tính riêng - trong tòan bộ tiến trình dẫn đến việc rao giảng. Ta thấy rằng trong khi chủ trương thứ nhất tước đoạt mọi ý nghĩa chuyên biệt của rao giảng, thì chủ trương thứ hai lại biến đối thọai thành một công cụ.
Ba chiều kích của loan báo Tin Mừng là hội nhập văn hóa, đối thọai liên tôn và giải phóng; rao giảng không phải là một chiều kích thứ tư, nhưng là khía cạnh chứng tá gắn kết mật thiết với cả ba chiều kích trên. Một chỗ khác, FABC tuyên bố rằng “đối thọai nhắm đến việc kéo người ta vào niềm tin tôn giáo và truyền thống của mình là điều thiếu trung thực và phi đạo đức.”[10] Về mối tương quan giữa đối thọai, rao giảng, và cải giáo người ta, FABC đã nêu rõ rằng “đối thọai và rao giảng phụ trợ cho nhau; đối thọai đích thực và chân thành không nhắm làm cho người ta cải giáo - vì cải giáo là điều hoàn toàn tùy thuộc vào tiếng gọi bên trong của Thiên Chúa và quyết định tự do của mỗi người.”[11]
Một đàng, FABC không loại bỏ việc rao giảng Tin Mừng Kitô giáo cách minh nhiênn trực tiếp trong công cuộc sứ mạng; nhưng FABC nêu bật rằng bối cảnh đóng một vai trò quan trọng trong việc ấn định phương thức tốt nhất cho sứ mạng ở Á Châu. Rao giảng mà không đối thọai thì có nguy cơ trở thành ‘truyền đạo quá khích’ với những hệ lụy rất tiêu cực. Trong tâm cảnh của người Á Châu, “chân lý không áp đặt chính nó, nhưng đúng hơn nó hấp dẫn người ta bằng vẻ đẹp, vẻ sáng và bằng sự quyến rũ của nó.”[12] Michael Amaladoss thì nói rằng “chúng ta không áp đặt những cơ cấu tiền chế của ơn cứu độ từ một nơi nào đó khác, nhưng chúng ta cho phép người Á Châu đối thọai với Tin Mừng một cách sáng tạo và thích đáng.”[13]
Đàng khác, xuyên qua đối thọai, không chỉ các thực tại tôn giáo xã hội Á Châu có thể được làm phong phú hóa bởi Kitô giáo, mà chính Kitô giáo cũng có thể được làm phong phú bởi các thực tại Á Châu. Bất cứ công cuộc sứ mạng nào không nhìn nhận những gì Thiên Chúa đang làm với một dân tộc trong lịch sử của họ thì đều bộc lộ tính cách kiêu căng tự mãn. Và tư tưởng hãnh thắng thì luôn luôn là điều đối ngược với linh đạo.
Quan trọng hơn, hàm chứa trong một sứ mạng học như thế là sự nhìn nhận và chấp nhận một mối tương quan căn bản có tính hữu thể học, cứu độ học và hiện sinh giữa Tin Mừng Kitô giáo và các dân tộc Á Châu với các truyền thống tôn giáo và văn hóa phong phú, cũng như với những thách đố kinh tế xã hội hằng ngày của họ. Một sứ mạng học sâu sắc như thế sẽ thúc đẩy các Giáo Hội địa phương từ bỏ não trạng ‘trồng Giáo Hội’, từ bỏ việc ‘trồng một cơ chế’ ở Á Châu, để hướng tới ‘một cộng đoàn loan báo Tin Mừng của Á Châu’. Rõ ràng, nhãn quan của FABC không phải là ‘một Giáo Hội ở Á Châu’ mà là ‘một Giáo Hội Á Châu’.
5. Mục Tiêu Chính Của Sứ Mạng: Xây Dựng Nước Thiên Chúa
Thánh Thần của Đức Kitô hoạt động vượt quá các vành đai của Giáo Hội hữu hình. Chính qua Nước Thiên Chúa mà Thiên Chúa muốn hòa giải mọi sự với Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Vì thế, tiêu điểm của sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội là xây dựng Nước Thiên Chúa và xây dựng Giáo-Hội-để-phục-vụ-cho-Nước-Thiên-Chúa. Nước Thiên Chúa, vì thế, rộng lớn hơn bản thân Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích của Nước Thiên Chúa, làm cho Nước ấy nên hữu hình, thăng tiến Nước ấy, nhưng Giáo Hội không ‘cào bằng’ rằng mình là Nước ấy. FABC giải thích mối quan hệ giữa Giáo Hội và Nước Thiên Chúa như sau: “Triều đại Thiên Chúa là lý do chính cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại trong và cho Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa, tức món quà tặng do sáng kiến của chính Thiên Chúa, đã bắt đầu và tiếp tục được thể hiện qua Thánh Thần. Ơ đâu Thiên Chúa được chấp nhận, ở đâu các giá trị Tin Mừng được sống, ở đâu con người được tôn trọng… thì ở đó có Nước Thiên Chúa.”[14] Tương tự, tài liệu của Uy Ban Tư Vấn Thần Học 1991 nêu rõ: “Triều đại Thiên Chúa là thực tại ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, trong đó các Kitô hữu và những người khác cùng sống với nhau. Đó là mầu nhiệm căn bản của sự hiệp nhất. Nhìn theo hướng này, một phương thức ‘regnocentric’ để tiếp cận thần học sứ mạng không hề đe dọa nhãn giới ‘christocentric’ của đức tin. Trái lại, ‘regnocentric’ cần đến ‘christocentrism’, và ngược lại.”
Với những kết luận trên, rõ ràng là tiếng gọi hoán cải nhắm trước hết đến Thiên Chúa và sau đó mới nhắm đến Giáo Hội. Căn tính của Giáo Hội không nằm ở chỗ trở thành “con tàu cứu độ độc nhất’ nhưng là thực thi sứ mạng để chuyển hóa thế giới từ bên trong - như men trong bột - mà không hề nắm hiểu rõ sự chuyển hóa ấy sẽ dẫn đến những hình thái nào. Hơn nữa, trong khi không loại bỏ công việc loan báo Tin Mừng, kiểu thức Nước Thiên Chúa thách đố các Giáo Hội địa phương Á Châu làm việc với các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác, cùng với các anh chị em thuộc các niềm tin khác, và với hết mọi người thiện chí, để làm cho Nước Thiên Chúa trở nên hữu hình hơn tại lục địa này.
6. Hướng Tới Một “Cuộc Loan Báo Tin Mừng Năng Động Và Toàn Diện”
Mối quan hệ giữa sự hòa điệu các tôn giáo, sứ mạng và đối thọai được trình bày rõ bởi Hội Nghị Tòan Thể lần thứ 5 của FABC: “Sứ mạng ở Á Châu cũng sẽ tìm cách - qua đối thọai - phục vụ cho sự hiệp nhất các dân tộc Á Châu vốn được đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin, các nền văn hóa, và các cơ cấu chính trị xã hội khác nhau. Trong một Á Châu có nhiều phân hóa và xung đột, Giáo Hội phải đặc biệt trở thành một bí tích - một dấu hữu hình và khí cụ của hiệp nhất và hòa điệu.”[15] Các giám mục Á Châu xác quyết rằng các Giáo Hội địa phương ở đây phải đối thọai với các dân tộc và các thực tại Á Châu để biện phân “những công việc gì Chúa muốn được thi hành để cho cả nhân lọai có thể được thâu họp trong hòa điệu như đại gia đình của Chúa.” Quả thực, chính qua việc đáp ứng và phục vụ cho những nhu cầu của các dân tộc Á Châu mà các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau có thể trở thành những Giáo Hội địa phương đích thực.
Trong chiều hướng đó, Hội Nghị Tòan Thể lần thứ 7 đã đề ra cụm từ mới “loan báo Tin Mừng năng động và toàn diện” để mô tả một phương thức sứ mạng hội nhập lòng xác tín, thái độ dấn thân phục vụ cho sự sống, chứng tá đời sống, đối thọai, và xây dựng Nước Thiên Chúa. Cụm từ này được giải thích như sau:
Trong 30 năm, chúng ta đã cố gắng thiết định lại căn tính Kitô giáo ở Á Châu. Chúng ta đã lần lượt xem xét những vấn đề khác nhau: loan báo Tin Mừng, hội nhập văn hóa, đối thọai, bản sắc Á Châu của Giáo Hội, công lý, sự chọn lựa người nghèo, vv. Ngày nay, sau 30 năm, chúng ta không còn nói về những vấn đề riêng biệt như thế nữa. Chúng ta đang đứng trước những nhu cầu rất to lớn và ngày càng phức tạp. Những vấn đề nói trên không phải là những chủ điểm thảo luận cách rời rạc nhau, nhưng là những khía cạnh của một phương thức toàn diệntiếp cận sứ mạng yêu thương và phục vụ. Chúng ta cần cảm nhận và hành động ‘một cách toàn diện’. Đối mặt với những nhu cầu của thế kỷ 21, chúng ta dấn thân sứ mạng với những con tim của Á Châu, trong liên đới với người nghèo và những người bị bỏ rơi, trong liên kết với tất cả anh chị em Kitô hữu khác, và trong sự cộng tác với tất cả mọi người Á Châu thuộc các niềm tin khác. Hội nhập văn hóa, đối thọai, công lý, và chọn lựa người nghèo là những khía cạnh của bất cứ gì chúng ta làm.[16]
7. Missio Inter Gentes: Một Kiểu Thức Mới Trong Thần Học Sứ Mạng Của Liên Hiệp Các HĐGM Á Châu
(1) Xuất phát từ hoàn cảnh đa dạng và đa nguyên

FABC không ngừng tìm cách làm cho Kitô giáo và các Giáo Hội địa phương trở thành thực sự là một phần của đời sống ở Á Châu. Các giám mục nhận thức sâu sắc rằng sự đa dạng về văn hóa và sự đa nguyên tôn giáo nằm ở trung tâm của bản sắc Á Châu. Sự đa dạng và đa nguyên này, vì thế, không phải là cái gì cần phải bị loại bỏ, nhưng trái lại ta phải vui vì nó và thăng tiến nó. Quả thực, các Kitô hữu Á Châu sống và làm việc với các tín đồ thuộc các tôn giáo khác là chính người trong gia đình mình, láng giềng mình, bạn hữu và đồng nghiệp của mình - cùng chia sẻ vui buồn sướng khổ của cảnh sống hằng ngày. Trong khi Đức Gioan Phaolô II nêu bật những thành quả cầu nguyện và đối thọai liên tôn diễn ra ở Assisi, thì các Kitô hữu Á Châu sống hằng ngày trong ‘khung cảnh Assisi’ đó. Trong khi đức giáo hoàng phải mời các đại diện thuộc các tôn giáo khác đến Assisi để cầu nguyện và đối thọai, thì các Kitô hữu Á Châu thường xuyên sống giữa các anh chị em thuộc các tôn giáo khác, thường xuyên ở trong một cuộc đối thọai trong đời sống với họ.
(2) Hạn từ ‘missio inter gentes’
Có lẽ hạn từ “missio inter gentes” là thích đáng nhất để diễn tả đường lối sứ mạng học của FABC - vì hạn từ này nói lên sự dứt khoát vượt qua những phương thức sứ mạng của quá khứ và nay không còn phù hợp nữa. Hạn từ ‘missio inter gentes’ được nêu ra lần đầu tiên bởi William R. Burrows trong bối cảnh bài nói chuyện của Michael Amaladoss “Đa Nguyên Tôn Giáo Và Việc Rao Giảng Đức Giêsu Kitô Trong Khung Cảnh Á Châu” tại cuộc Hội Nghị Thường Niên lần thứ 56 của Hội Thần Học Công Giáo Mỹ (Milwaukee, 2001). Nhà thần học Peter C. Phan cũng sử dụng hạn từ này như một sự thay thế cho ‘missio ad gentes’ khi ông thảo luận về ý nghĩa của hoán cải trong ‘thần học sứ mạng mới’.[17]
(3) Tính thích đáng của hạn từ
Quả thực, người ta có thể nói rằng sứ mạng học của FABC là một sứ mạng học thiên về ‘sứ mạng ở giữa các dân tộc’, với sự nhấn mạnh đặt ở sự liên đới và hòa điệu giữa khung cảnh đa dạng và đa nguyên. Hình ảnh truyền thống của sứ mạng như là ‘sai ra đi’ xem ra không còn thiết thực nữa - không chỉ bởi vì hình ảnh đó ‘quá gắn kết với một mẫu thức Giáo Hội nặng tính cơ chế và phẩm trật’, nhưng còn bởi vì hình ảnh ấy hàm nghĩa rằng sứ mạng là một ‘con đường một chiều’, không mấy xét đến sự hiện diện và hoạt động sẵn có của Thiên Chúa trong thế giới.[18]
Sự nhấn mạnh thường xuyên của FABC đặt trên mối liên đới, hiệp thông với các dân tộc Á Châu quả thực là missio inter gentes xét theo mọi khía cạnh của hạn từ này. Giáo Hội Á Châu nhận ra rằng để tồn tại mình phải hòa nhập vào trong cái đa dạng và đa nguyên ở đây, chia sẻ đời sống với đồng bào và phục vụ cho sự sống, như Đức Giêsu đã làm - đúng hơn là rao giảng cho các dân tộc với hi vọng làm cho họ bỏ tôn giáo của họ và theo Kitô giáo.
Nói tắt, điều mà FABC hi vọng đạt được ở Á Châu có thể được mô tả tốt nhất là ‘missio inter gentes’ (sứ mạng ở giữa các dân tộc) - với cuộc đối thọai ba mặt với các nền văn hóa, các tôn giáo và người nghèo ở Á Châu. Nghĩa là, chứng tá đời sống là phương tiện hữu hiệu nhất để loan báo Tin Mừng và phục vụ nhân danh Đức Kitô.
8. Missio Ad Gentes Đối Chiếu Với Misio Inter Gentes
Trước hết, nếu có một điểm chung giữa hai kiểu thức, thì đó chính là sự cần thiết của sứ mạng ở Á Châu. Trên nguyên tắc, FABC không phản đối mục tiêu sứ mạng là mangTin Mừng của Đức Kitô - tức tình yêu, hi vọng, và giải phóng - đến cho mọi dân tộc ở Á Châu. FABC cũng xác nhận rằng Giáo Hội tự bản chất có tính sứ mạng thừa sai.
Một đàng, hầu như kiểu thức missio ad gentes tập chú đến khía cạnh tại sao, cái gì, và ai của sứ mạng - cố gắng biện minh cho sự cần thiết của sứ mạng và cố gắng trình bày nội dung của sứ mạng. Người ta có ấn tượng rằng kiểu thức missio ad gentes xuất phát từ nhãn giới về các nhà thừa sai ra đi đến với những người chưa được rửa tội. Trong khi đó, FABC xem vấn đề tại sao, cái gì và ai là đương nhiên không cần bàn luận; thay vào đó FABC tập chú đến khía cạnh thế nào của sứ mạng - tức vấn đề phương pháp luận và các phương thức.
Quan trọng hơn, sự khác biệt giữa hai kiểu thức nổi rõ nơi cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề đa nguyên tôn giáo. Nói chung, missio ad gentes không thoải mái với đa nguyên tôn giáo, xem tình trạng đa nguyên tôn giáo như một thách đố lớn đối với Tin Mừng Kitô giáo. Sở dĩ thế bởi vì phương thức missio ad gentes cắm rễ trong cái nhìn về Kitô giáo như tôn giáo thống trị trong khung cảnh chính trị, văn hóa và xã hội Au Châu - mặc dù ngày nay nó đang bị cạnh tranh ráo riết bởi chủ nghĩa thế tục và hậu hiện đại.
Nói riêng, missio ad gentes giả thiết một cái nhìn cổ điển trong đó Au Châu (hay Rôma) được xem như trung tâm của Chân Lý, và công cuộc sứ mạng là việc các nhà thừa sai Au Châu thuộc các hội truyền giáo hay các dòng truyền giáo ra đi đến với các vùng mà sự ngu dốt còn đang thống trị. Như vậy, missio ad gentes dành ưu tiên cho việc rao giảng bằng lời, xem đó như phương thức chủ yếu của sứ mạng Kitô giáo, nhất là việc rao giảng minh nhiên và trực tiếp về Đức Kitô là Đấng Cứu Độ độc nhất của con người. Mục tiêu củamissio ad gentes là: cuối cùng thì đa nguyên tôn giáo sẽ nhường chỗ, và những người ngòai Kitô giáo sẽ đón nhận Tin Mừng, bởi vì chỉ Kitô giáo mới có thể thỏa mãn những niềm hi vọng sâu xa nhất của những người ngòai Kitô giáo.
Đối với những người ủng hộ kiểu thức missio ad gentes, mặc dù chứng tá đời sống và đối thọai là những chiều kích quan trọng của công cuộc sứ mạng, chúng cũng không thể ưu tiên hơn việc rao giảng trực tiếp bằng lời. Một cách tiếp cận như thế rõ ràng chủ yếu có tính suy diễn, rút ra từ những nguyên tắc phổ quát và trừu tượng, và không liên can trực tiếp với các thực tại đa dạng và đa nguyên của Á Châu. Mặc dù những người ủng hộ cái nhìn này có ý thức về các thực tại đa dạng và đa nguyên của các tôn giáo, các nền văn hóa và các dân tộc Á Châu, họ không coi sự đa dạng này như một phần của năng lực sáng tạo của Thiên Chúa. Lý do năm ở chỗ cách làm thần học theo phương pháp suy diễn của họ, trong đó lịch sử cứu độ được hiểu như một diễn tiến thẳng băng từ đức tin tiền-Thánh-Kinh tới Thánh Kinh, và tới tột đỉnh nơi Đức Kitô xét như Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới.
Trái lại, FABC xem đa nguyên tôn giáo không như một cái gì phải được đương đầu và vượt qua, nhưng như một yếu tố làm nên khung cảnh Á Châu. Chính vì thế, các giám mục Á Châu không ngừng cho thấy mối quan tâm tìm kiếm một phương thức sứ mạng ít có tính đối đầu hơn. Trong khi không bỏ qua tầm quan trọng của rao giảng, FABC đánh giá cao tình thân hữu và sự tín nhiệm, việc xây dựng các mối tương quan và đối thọai, cũng như sự liên đới và hòa điệu như những yếu tố thiết định sứ mạng Kitô giáo ở Á Châu. Bởi vì phương thức sứ mạng của FABC tập chú trên sự thấm nhập của Tin Mừng Kitô giáo và các Giáo Hội địa phương vào trong các thực tại Á Châu, với tinh thần dấn thân phục vụ sự sống, nên chúng ta có thể mệnh danh đó là missio inter gentes - sứ mạng ở giữa các dân tộc Á Châu.
Một cách chuyên biệt, FABC nhìn lịch sử cứu độ của lục địa Á Châu như được thể hiện trong lịch sử, các tôn giáo, các nền văn hóa, các thách đố, cảm hứng và hi vọng của các dân tộc ở lục địa này. Đối với FABC, lịch sử cứu độ đã không bắt đầu với việc Kitô giáo đặt chân đến Á Châu. Đúng hơn, FABC nhìn nhận sự hiện diện và hoạt động cứu độ của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong và xuyên qua các truyền thống tôn giáo Á Châu trước cả việc Kitô giáo đặt chân đến đây - và sự hiện diện và hoạt động ấy cũng tiếp tục như một phần thiết yếu của lịch sử tôn giáo Á Châu đang diễn tiến.
Rõ ràng, phương thức sứ mạng của FABC, tức cuộc đối thọai ba mặt với các dân tộc Á Châu (văn hóa, tôn giáo, và sự nghèo đói), cũng như việc thăng tiến Nước Thiên Chúa xét như mục tiêu chính của sứ mạng cho thấy một đường lối sứ mạng tự yếu tính của nó không phải là tới (ad) nhưng là ở giữa (inter) các dân tộc Á Châu. Nói riêng, FABC đã không ngừng xác quyết rằng công cuộc sứ mạng Kitô giáo phải được thực hiện không phải cho chính nó, cũng không phải cho sự phát triển của Giáo Hội, nhưng là cho Nước Thiên Chúa. Vì Giáo Hội phục vụ cho Nước Thiên Chúa, nên các Kitô hữu Á Châu được mời gọi đóng góp cho các nền văn hóa, các tôn giáo Á Châu và trả lời cho các thách đố kinh tế xã hội ở đây - ngay cả dù những nền văn hóa, tôn giáo và những xã hội này không trở thành ‘Kitô’ theo nghĩa cơ chế.
Đối với FABC, các thừa sai không được gọi để chinh phục thế giới Á Châu nhân danh một Đức Kitô đắc thắng, hay xây dựng một thể chế Kitô giáo hãnh thắng trên mảnh đất Á Châu, nhưng là để phục vụ bằng cách trao hiến chính mình, mang sức sống và hy vọng của Nước Thiên Chúa lại cho một thế giới đầy những thách đố và các vấn đề. Nghĩa là, trong khi những người hậu thuẫn kiểu thức missio ad gentes gán tầm quan trọng cho sự phát triển có thể đo lường bằng việc gia tăng những con số hay mở rộng trong địa dư, thì FABC chọn một phương thức phẩm tính (qualitative approach) nhắm tìm cách chuyển hóa và chữa trị sự gãy đổ trong các nền văn hóa và các thực tại Á Châu. Nói cách khác, FABC chấp nhận rằng Giáo Hội Á Châu sẽ luôn luôn là một “đàn chiên nhỏ” trong đại dương các nền văn hóa và các tôn giáo của một Á Châu đa nguyên - trong khi những người hậu thuẫn kiểu thức missio ad gentes mơ về một ngày Giáo Hội sẽ lớn lên và thu tóm đại đa số người Á Châu, và trong tiến trình đó sẽ gây ra sự tiêu diệt các thế giới lớn ở đây.
Trong chiều hướng này, FABC xác tín rằng “nếu không khám phá ra căn tính của mình, các Giáo Hội Á Châu sẽ không có tương lai.”[19]
9. Kết Luận
Thần học sứ mạng của FABC không bắt đầu từ phía trên hay từ trung tâm, nhưng là từ phía dưới và từ ngoài rìa, di chuyển về trung tâm. Đối với FABC, sứ mạng và việc loan báo Tin Mừng không phải là một ‘con đường một chiều’, một ‘sự rao giảng một chiều’ về những nguyên tắc tín lý hay những chân lý đức tin trừu tượng. Vì vậy, khi xây dựng phương thức missio inter gentes để thực thi sứ mạng Kitô giáo ở Á Châu, FABC bắt đầu không phải với những ý niệm và phạm trù thần học trừu tượng phổ quát, nhưng với những kinh nghiệm đời sống và những thách đố khác nổi lên từ cuộc gặp gỡ đang diễn ra với các thực tại hiện nay của Á Châu và với những bối cảnh đặc thù Á Châu. Đối với FABC, sứ mạng là một cái gì lớn rộng hơn việc trồng một Giáo Hội địa phương mới ở nơi mà nó chưa hiện diện. Các giám mục Á Châu không coi các dân tộc Á Châu như những đối tượng của sứ mạng, theo nghĩa là phải được giúp cải giáo và đưa vào Giáo Hội, mặc dù các Kitô hữu sẵn sàng mời gọi họ như thế. Đúng hơn, tiêu điểm của sứ mạng inter gentes của các Giáo Hội địa phương Á Châu được đồng hóa với chính tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu: đem Nước Thiên Chúa đến giữa đồng bào mình.
Theo quan điểm của FABC, các Giáo Hội địa phương ở Á Châu được mời gọi cộng tác với sứ mạng đang tiếp diễn của Thiên Chúa để hiện thực hóa Nước Thiên Chúa xuyên qua chứng tá đời sống và cuộc đối thọai ba mặt với các dân tộc Á Châu. Hội nhập văn hóa, đối thọai, và giải phóng con người là những chiều kích thiết yếu của sứ mạng, chứ không phải duy chỉ là sửa soạn cho việc loan báo Tin Mừng (pre-evangelization).
Hơn nữa, FABC nghĩ về sứ mạng của Giáo Hội như là được cảm hứng từ hoạt động trước của Thiên Chúa trong thế giới, xuyên qua sứ mạng của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thực vậy, theo nhận định của FABC, những nền móng cứu độ học sâu sắc của các tôn giáo và triết học Á Châu vốn truyền cảm hứng cho vô số người Á Châu không phải là sự dữ, nhưng xuất phát từ chính Thiên Chúa. Vì thế, FABC dứt khoát khẳng định rằng kho tàng khôn ngoan của các triết học Á Châu và các yếu tố cứu độ học của các tôn giáo Á Châu đều được tác động bởi Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động vượt quá các ranh giới của Giáo Hội cơ chế.
Phương thế chủ yếu của missio inter gentes là đối thọai, một cuộc gặp gỡ hai chiều giữa Tin Mừng Kitô giáo với các thực tại ba mặt của Á Châu: các nền văn hóa, các tôn giáo và người nghèo. Ở đây, điều rõ ràng là không chỉ các thực tại xã hội tôn giáo Á Châu được làm phong phú hơn bởi Kitô giáo, nhưng Kitô giáo cũng được làm cho thêm phong phú bởi các thực tại xã hội tôn giáo Á Châu. FABC xem đối thọai và hòa điệu là điều thiết yếu; cách riêng, đối thọai có tiềm năng đem lại cơ hội cho các bên - để cho dù với những thế giới quan khác nhau các bên có thể đi vào những chân trời của nhau, hiểu nhau hơn và kiến tạo những mối quan hệ hòa điệu với nhau.
 
Tác giả: Lm. Lê Công Đức chuyển dịch.

________________________________________
[1] Những nhận định này được đưa ra bởi Peter Phan trong bài điểm sách Introducing Theologies of Religions của tác giả Paul Knitter. Xem Horizons 30 (2003), p. 117.
[2] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p.14.
[3] Ibid., p. 115.
[4] For All the Peoples of Asia, vol. 3, p. 334.
[5] Ibid., p. 111.
[6] Michael Amaladoss, The Challenges of Mission Today, trong Trends in Mission: Toward the Third Millennium(Maryknoll: Orbis 1991), p. 362.
[7] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 282.
[8] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 280.
[9] For All the Peoples of Asia, vol. 3, pp. 12-13.
[10] For All the Peoples of Asia, vol. 2, p. 158.
[11] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 120.
[12] Felix Wilfred, Inculturation As A Hermeneutical Question, trong Vidyajyoti 52 (1988), p. 427.
[13] Michael Amaladoss, Missionary Challenges in Asia, trong Jeevadhara 30 (2000), p. 340.
[14] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 252.
[15] For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 282.
[16] For All the Peoples of Asia, vol. 3, p. 8.
[17] Peter C. Phan, The Mission of God: Its Challenges and Demands in Today’s World, trong East Asian Pastoral Review 42, p. 124.
[18] Donal Dorr, Mission in Today’s World, (Maryknoll, New York: Orbis, 2000), p. 189.
[19] Asian Colloquium on Ministries in the Church, Art. 14.