31.01 - Thánh Gioan Bosco, Lm


31.1 Thứ Ba Thánh Gioan Bosco, Lm
Dt 12:1-4; Tv 22:26-27,28,30,31-32; Mc 5:21-43

Chỉ Cần Tin Thôi 


          
Thánh Gioan Boscô là một vị thánh nổi tiếng trong Giáo Hội vì những đóng góp to lớn của Ngài cũng như của Hội dòng do Ngài thiết lập trên khắp thế giới. Tên đầy đủ của Ngài là Giovanni Melchiorre Bosco. Ngài chào đời ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại làng Becchi, thuộc tỉnh Piémont miền Bắc nước Ý, trong một gia đình nông dân nghèo. Cha Ngài là Phanxicô Bosco. Khi ông qua đời, Boscô mới lên hai tuổi. Như vậy Boscô đã phải mồ côi cha từ lúc hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita, một người đàn bà rất đạo đức, yêu lao động và rất ham thích việc cầu nguyện. Tuy phải làm lụng vất vả mới kiếm đủ tiền để nuôi con, nhưng không bao giờ bà sao lãng việc giáo dục con cái. Chính bà đã truyền thụ cho Bosco nhiều đức tính cao quý cũng như một trí tuệ thông minh sắc sảo, và một lòng đạo đức có chiều sâu. Chính nhờ đó mà sau này Don Boscô sớm có được một đời sống tốt lành thánh thiện trong công việc tông đồ.
          
Boscô đã không được may mắn hưởng những ngày thơ ấu êm đềm như các trẻ nhỏ cùng trạc tuổi. Bosco rất ham học hỏi, nhưng vì không có đủ tiền đi học nên cậu phải đến nhờ cha sở dạy cho. Nhưng rủi thay chỉ ít lâu sau cha sở lại qua đời.
         
Từ đó, để có tiền đi học, Boscô đã phải làm nhiều việc khác nhau như: chăn bò, làm công việc đồng áng, bồi bàn cà phê, may quần áo, may giầy.v.v.. Mãi đến năm 11 tuổi, Don Boscô mới chính thức được bước chân đến trường. Và năm 16 tuổi Boscô đã vào được bậc trung học.
          
Từ nhỏ, Don Boscô đã có ý nguyện muốn dâng mình cho Chúa trong bậc tu trì. Chính vì vậy, mà vào năm 1835, Ngài đã xin vào Đại chủng viện Torino. Ý nguyện của Ngài được chấp nhận và sáu năm sau Ngài được thụ phong linh mục. Và vào ngày 5 tháng 6 năm 1841 lúc đó ngài đã được 26 tuổi. Sau khi chịu chức, Ngài khởi đầu mục vụ tông đồ bằng cách đi thăm các trại giáo hóa dành cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại Giáo phận Torino.
          
Cuối năm 1841, Ngài nhận nuôi dưỡng Bartôlômêô Garelli, một trẻ em vô gia cư. Dần dà, Ngài nhận nuôi thêm nhiều trẻ em vô gia cư hoặc mồ côi khác. Ban đầu, Ngài quy tụ các em để tổ chức vui chơi, tham dự Thánh Lễ và học giáo lý. Sau khi có nơi ăn chốn ở cố định ở Valdocco, Thành Torinô, Ngài đã cho xây nhà nội trú, mở các lớp dạy học và mở các xưởng dạy nghề cho các em. Số lượng trẻ em ngày càng đông, khiến công việc của Ngài ngày càng vất vả, nên có một lúc Ngài đã từng bị sưng phổi nặng nhưng rất may là cơn bệnh cũng đã qua.
          
Năm 1859, Gioan Bosco cùng với các đồng chí của mình chính thức thành lập Hội dòng của Thánh Phanxicô Đệ Salê (tiếng Latin: Societas Sancti Francisci Salesii), với hàm ý noi gương Đức ái Tông đồ, sự Hiền lành và lòng kiên nhẫn của thánh nhân. Ngày 25 tháng 3 năm 1855, Micae Rua trở thành tu sĩ đầu tiên với lời tuyên khấn dòng trọng thể. Năm 1860, Giuse Rossi trở thành sư huynh đầu tiên được đón nhận vào Dòng. Sau đó, ngày 14 tháng 6 năm 1862, 22 tu sĩ Salêdiêng khác đã thực hiện lời tuyên khấn.
          
Gioan Bosco cũng đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (còn được gọi là Dòng Nữ Salêdiêng Don Bosco) vào ngày 5 tháng 8 năm 1872. Năm 1876, Ngài thành lập Hiệp hội Cộng tác viên Salêdiêng. Ba Nhóm này và nhiều Nhóm khác được thành lập sau này liên kết với nhau thành một Gia đình, một tổ chức xã hội Công giáo thống nhất. Vào năm 1872, Ngài tiếp tục lập thêm hai hội dòng khác: Hội Đức Mẹ hằng Cứu giúp để bảo trợ ơn gọi linh mục; Hội Dòng nữ Salésienne nhằm giáo dục các em cô nhi. Các tổ chức này đã có tầm ảnh hưởng khắp nơi ngay khi Ngài còn tại thế.
          
Với những nỗ lực không mệt mỏi của mình, Gioan Bosco kiệt sức, lâm bệnh và qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 tại Torino, hưởng thọ 73 tuổi. Để tưởng thưởng cho những công lao to lớn quí báu của Ngài với giáo hội và xã hội, Giáo Hội đã phong Ngài lên bậc chân phước ngày 2/6/1929 và ngày 1/4/1934 Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh với biệt hiệu: Cha và Thầy của thanh thiếu niên.
          
Ngài qua đi nhưng hình ảnh của người cha hiền còn sống mãi trong lòng nhân thế. Lòng nhiệt thành và từ tâm của Ngài đối với bầy trẻ côi cút phải là bài học sáng ngời soi dẫn tâm hồn con người trong muôn thế hệ.
          
Tin mừng hôm nay nói đến hai người nữ được Chúa Giê-su chữa lành và cứu sống: một là người phụ nữ bị băng huyết 12 năm, một là cô bé đã chết 12 tuổi. Người phụ nữ xuất huyết 12 năm được ơn chữa lành do lòng tin mãnh liệt của bà; cô bé đã chết 12 tuổi được Chúa cứu sống do sự vững tin của người cha. Có một mối liên kết giữa những người nữ được nói tới ở đây với Israel – con số 12 chẳng phải là biểu tượng cho 12 chi tộc Israel đó sao.
          
Mở đầu đoạn tin mừng là việc người cha đến xin Chúa Giêsu cứu chữa cho cô con gái 12 tuổi sắp chết của ông; đoạn giữa là sự kiện người bà bị xuất huyết đã 12 năm tìm cách đến gần sờ đụng vào Chúa Giêsu để được cứu chữa: Đối với người Do-thái, máu huyết là chất thiêng, biểu hiện cho sự sống - người đàn bà bị xuất huyết lâu dài tức là sự sống đang rời bỏ bà và bà lâm vào tình trạng rất nguy kịch (vì các thầy lang đã bó tay mà bà thì cũng đã tán gia bại sản bởi căn bệnh) - tuy nhiên nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giê-su mà bà đã được chữa lành; đoạn cuối là việc Chúa Giê-su cứu sống cô bé 12 tuổi nhờ lòng tin của người cha. Mặt khác, để quyền năng Chúa được thể hiện và phép lạ xảy ra, chúng ta thấy tất cả những nhân vật chính trong trình thuật đều vượt qua những rào cản của luật lệ: Người đàn bà loạn huyết theo luật Do-thái không được đến gần tiếp xúc với ai vì có thể làm cho đối tượng mình tiếp xúc ra nhơ uế (Lv 15, 19 – 27), vậy mà bà lại dám cả gan chen chúc vào giữa đám đông theo Chúa Giêsu để động chạm vào áo của Người – bà đã vi phạm luật. Còn ông Gia-ia khi chứng kiến và biết Chúa Giêsu đã bị nhơ uế do người phụ nữ kia mà vẫn để cho Người đến nhà mình để cứu chữa cho con gái thì ông cũng là kẻ vi phạm luật lệ và nhà ông bị nhơ uế. Về phía Chúa Giêsu, Ngài dường như không quan tâm đến việc mình bị mắc uế hay không mắc uế, Ngài chỉ quan tâm đến con người và những nỗi thống khổ của họ. Cho nên, bất chấp những luật lệ khô cứng, phép lạ sống động đã xảy ra.
          
Như vậy, đoạn Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống và mời gọi con người tin vào Ngài để có được sự sống đích thực và khỏi chết muôn đời. Qua đó, trình thuật cũng diễn tả cho thấy Israel đang trong tình trạng nguy khốn; sự sống niềm tin của họ đã bị xơ cứng và đang chết dần mòn bởi những vỏ bọc luật lệ vô hồn, lắm khi trở thành bất nhân. Họ cần tin vào Chúa Giêsu để được giải thoát khỏi ách nặng nề của lề luật và có được cách thế sống niềm tin tràn đầy niềm vui và tình yêu như Thiên Chúa mong muốn.
          
Giáo hội mời gọi con cái mình, những Ki-tô hữu xét lại niềm tin cũng như cách thế sống đức tin của mình một cách tích cực và cấp thiết hơn trong một thế giới mà các giá trị sự sống thánh thiêng dần bị đánh mất và các giá trị luân lý đang bị suy đồi, đồng thời chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa duy lợi nhuận vật chất đang được đề cao và tôn vinh lên thành ‘thượng đế’. Vì vậy, nếu khi phải lựa chọn, bạn đặt quan trọng một dịch vụ làm ăn hơn là Thánh lễ, một đám tiệc hơn là Thánh Thể, một cuộc vui chơi hơn là những việc tông đồ bác ái, công ích…là bạn đang sống theo chủ nghĩa duy vật chất - bạn đang đánh mất niềm tin của mình.
          
Khi đời sống bạn lâm vào tình trạng khổ đau thử thách (nghèo đói, tật bệnh, gia đình có nguy cơ tan vỡ…) hoặc có những vấn đề nan giải, bạn suy sụp tuyệt vọng, chạy tìm sự khôn ngoan thế tục hơn là các giá trị giá trị tin mừng, cậy dựa vào các thế lực tăm tối của sa tan (tiền bạc, bói toán, đồng bóng…) hơn là cậy trông vào Chúa thì đó là dấu hiệu niềm tin của bạn đã chết. Thiên Chúa là Đấng có thể cứu bạn, bạn hãy tha thiết chạy đến với Người để xin ơn đức tin, xin Người cứu chữa khỏi tình trạng khốn khổ của mình.
          
“Đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (c.36) lời của Chúa Giêsu nói với ông Giai-rô cũng là thông điệp Người nhắn gửi mỗi người chúng ta. Sống trong một thế giới đa tạp, niềm tin đang dãy chết, các giá trị giả - thật, thật – giả nhiễu nhương khó phân biệt, chúng ta cần cầu nguyện rất nhiều, cần cắm neo cuộc đời mình trong lòng bàn tay Chúa, trong tình thương xót của Chúa. Đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho những ai khao khát kêu xin Người. Do đó, bạn đừng ngần ngại xin ơn đức tin và hãy kiên trì, kiên vững trong lòng tin. Bởi vì trong cuộc sống chúng ta chỉ cần tin Chúa, can đảm bước đi theo lời chỉ bảo, hướng dẫn của Người, chúng ta sẽ không bao giờ sợ lầm đường lạc lối, và Chúa sẽ thực hiện những điều lạ lùng, diệu kỳ trên cuộc đời của chúng ta.