Thông Điệp Laudato Sí


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’
(CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG)
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
NGÀY 24 THÁNG 05 NĂM 2015
***

***
DẪN NHẬP
 
1. Thánh Phanxicô thành Assisi đã hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Trong bài thánh ca tươi đẹp này, ngài nhắc cho chúng ta nhớ, ngôi nhà chung của chúng ta phải được xem như người chị của chúng ta, mà chúng ta được chia sẻ cuộc sống, và như người mẹ ôm lấy chúng ta. “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con! Vì người chị của chúng con, người mẹ trái đất của chúng con, mẹ nâng đỡ chúng con và mang lại nhiều hoa trái, những bông hoa tươi đẹp, những cây cỏ xanh tươi” [1]
2. Người chị này đang kêu gào vì sự hủy hoại do chúng ta, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và bóc lột các tài nguyên. Vì cứ đinh ninh rằng, chúng ta chính là chủ nhân và sở hữu chủ, nên được quyền tận dụng. Bạo lực nằm trong trái tim bị tội lỗi gây thương tích của con người, xuất hiện rõ ràng qua các hiện tượng bệnh lý, mà chúng ta có thể ghi nhận trong đất đai, trong không khí và nơi các sinh vật. Vì thế, giữa những người nghèo bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất, chúng ta sẽ thấy trái đất của chúng ta bị bóc lột và bị tàn phá, “đang rên siết và quằn quại trong cơn sinh nở”(Rm 8, 22). Chúng ta quên rằng, chính chúng ta cũng là tro bụi (St 2,7). Thân xác của chúng ta cũng được tạo nên từ những yếu tố của vũ trụ; không khí của nó giúp chúng ta thở và nước của nó giúp chúng ta sống và được bồi dưỡng.
Chúng ta không thể dửng dưng trước bất cứ điều gì của trái đất
3. Khoảng độ năm mươi năm trước đây, lúc thế giới bị rơi vào cơn khủng hoảng của chiến tranh hạt nhân, vị thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã viết một thông điệp, trong đó không những ngài muốn ngăn chận chiến tranh, nhưng còn truyền đạt một đề nghị hòa bình. Ngài viết sứ điệp Pacem in terris – Hòa bình trên thế giớikhông những cho toàn thể Kitô hữu và còn thêm : “gởi cho tất cả những người thiện chí”. Hiện tại, khi phải đối mặt với những tác hại về môi trường trên khắp thế giới, Tôi muốn nói với tất cả mọi người đang sống trên hành tinh này. Trong Tông Huấn Evangelii gaudium – Niềm vui Tin Mừng, tôi viết cho mọi thành phần trong Giáo Hội, để dấn thân vào một cuộc canh tân truyền giáo đang tiến triển. Trong Thông điệp này, tôi đặc biệt kêu mời tất cả mọi người chú tâm vào ngôi nhà chung của chúng ta.
4. Tám năm sau thông điệp Pacem in terris – Hòa bình trên thế giới, vị chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1971 đã nói về đề tài sinh thái, khi trình bày cơn khủng hoảng như là “hậu quả bi thảm” của hoạt động không kiểm soát của con người. “Qua việc khai thác vô tội vạ thiên nhiên, con người phải đối mặt với một nguy hiểm là sẽ tàn phá thiên nhiên và trở thành tế vật cho việc tàn phá của mình” [2]. Cũng như trước diễn đàn Tổ chức lương nông quốc tế (FAO), ngài đã nói về mối “tai họa sinh thái như hậu quả của xã hội công nghiệp” và ngài nhấn mạnh về “một sự khẩn cấp thật cần thiết cho sự chuyển đổi triệt để trong thái độ của nhân loại”, chỉ vì, “những tiến triển siêu đẳng về mặt khoa học, những kỹ thuật đầy kinh ngạc, sự phát triển diệu kỳ của nền kinh tế, nếu như chúng không đi kèm theo sự phát triển xã hội và luân lý đích thực, sẽ chống lại loài người” [3].
5. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng đưa ra đề tài này, nhưng với một chú tâm đáng kinh ngạc. Trong thông điệp đầu tiên, ngài cảnh báo : “Con người đã không nhìn vũ trụ với một ý nghĩa nào khác, ngoài mục đích sử dụng trực tiếp và lạm dụng” [4]. Tiếp đến, ngài kêu gọi toàn thế giới phải có một sự chuyển đổi về mặt sinh thái [5]. Đồng thời, ngài cho thấy người ta dấn thân quá ít để “gìn giữ những điều kiện luân lý cho một sinh thái thật nhân bản (Humanõkilogie – écologie humaine)” [6]. Sự tàn phá môi trường sinh thái của con người đã rất trầm trọng, vì Thiên Chúa không những trao cho con người trái đất này, nhưng chính sự sống cũng là một quà tặng của Thiên Chúa, con người cần phải bảo vệ nó trước mọi tình trạng sa sút. Mọi cố gắng bảo vệ và kiện toàn trái đất nằm trong điều kiện phải có những thay đổi sâu xa trong “cách sống, các mẫu sản xuất, tiêu thụ và cơ cấu quyền lực, là những thứ đang thống trị xã hội” [7]. Việc phát triển mang tính nhân bản thực sự phải có một đặc tính luân lý và phải đưa đến một sự tôn trọng trọn vẹn đối với con người, nhưng còn phải chú tâm đến thế giới vạn vật, đến “bản chất của từng sinh vật và liên hệ trao đổi của nó trong hệ thống xác định” [8]. Vì thế khả năng con người để chuyển đổi thực tại, phải được triển khai dựa trên nền tảng của quà tặng vạn vật như Thiên Chúa đã dựng nên chúng từ thuở ban đầu [9].
6. Vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI lập lại lời đòi buộc “phải loại bỏ những nguyên nhân cơ cấu của các phận vụ lệch lạc về kinh tế thế giới và sửa lại các mẫu phát triển xem ra không còn khả năng tôn trọng môi trường” [10]. Ngài nhắc lại rằng, con người không thể phân tích vũ trụ khi tách từng phương diện một, vì “quyển sách vạn vật chỉ có một và không thể chia cắt được”, nối kết môi trường, sự sống, tính dục, gia đình và các liên hệ xã hội lại làm một. Vì thế, “việc hủy hoại vạn vật liên kết với văn hóa, là thứ tạo nên cuộc sống chung của nhân loại” [11]. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI giúp chúng ta nhận thức, môi trường tự nhiên mang đầy vết thương do thái độ vô trách nhiệm của chúng ta gây nên. Ngay cả môi trường xã hội cũng mang đầy thương tật. Chỉ vì tất cả cùng rơi vào một điều xấu, đó là ý tưởng cho rằng không có những chân lý cố định không thể tranh luận, những chân lý hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, và vì thế sự tự do của con người không bị đặt trong một giới hạn nào cả. Người ta quên rằng, “con người không tự tạo tự do cho riêng mình. Con người không thể tự tạo ra mình. Con người là tinh thần và ý chí, nhưng cũng là vật chất” [12]. Với sự âu lo của một người cha, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta nhận thức, “sáng tạo đang bị hư hoại, đây là nơi chúng ta hiện diện, nơi toàn thể không thuộc về chúng ta mà chúng ta lại hưởng thụ cho riêng mình. Việc lạm dụng các tài nguyên của sáng tạo đã khởi sự ngay từ đó, chúng ta không còn nhận ra một khoảng khắc nào trên chúng ta, nhưng chỉ còn nhìn thấy mỗi chúng ta” [13].
Hiệp nhất trong cùng một âu lo
7. Những tham luận của các vị Giáo Hoàng này đã gợi lên suy tư của không biết bao nhiêu nhà khoa học, triết gia, thần học và các tổ chức xã hội; các vị này đã đưa ra nhiều ý tưởng phong phú cho vấn đề này. Chúng ta không được bỏ qua, ngoài Giáo Hội Công Giáo, còn có nhiều Giáo Hội và cộng đoàn Kitô hữu khác – cũng như các tôn giáo khác – cùng triển khai những lo âu lớn lao và nhiều suy tư có giá trị cho đề tài gây bất an cho chúng ta. Chỉ cần nêu lên một tỉ dụ đáng chú ý, Tôi chỉ gợi lên một phần ngắn bài tham luận của vị Thượng Phụ đáng kính Barthôlômêô, người mà chúng ta hy vọng được chia sẻ vào sự Hiệp nhất trọn vẹn trong Giáo Hội.
8. Thượng Phụ giáo chủ Barthôlômêô đặc biệt nói về sự cần thiết phải sám hối, vì mỗi người theo cách của mình đã hủy hoại hành tinh, “trong mức độ chúng ta đã gây nên những thiệt hại nhỏ bé cho sinh thái”; chúng ta cũng phải nhận ra “những cộng tác dù nhỏ bé hay lớn lao tạo nên sự hủy hoại hay tàn phá sáng tạo”[14]. Về điểm này, ngài đã lập đi lập lại với những lời mạnh mẽ và kích động, đòi buộc chúng ta phải nhận ra lỗi lầm đã chống lại sáng tạo : “Con người đã tàn phá sáng tạo của Thiên Chúa với nhiều phương cách sinh học ; con người đã phá hoại sự toàn vẹn của trái đất, gây nên sự biến đổi khí hậu, bóc lột trái đất từ những cánh rừng tự nhiên hay tàn phá những vùng ẩm ướt ; con người đem đến những tai họa cho kẻ khác, gây bệnh hoạn vì làm nhơ bẩn nguồn nước, đất đai và không khí bằng những chất độc hại – đó là tội lỗi” [15]. Vì “một tội lỗi chống lại tự nhiên, cũng là tội lỗi chống lại chính chúng ta và là một tội lỗi chống lại Thiên Chúa”[16].
9. Đồng thời, Đức Thượng Phụ Barthôlômêô gây chú ý đến nguồn gốc đạo đức và tinh thần về vấn đề môi trường, đòi buộc chúng ta tìm cách giải quyết, không những về mặt kỷ thuật, nhưng còn ngay trong việc thay đổi con người, vì thật ra, chúng ta chỉ đối mặt với các hiện tượng. Ngài đề nghị với chúng ta từ việc tiêu thụ sang hy sinh, từ sự tham lam sang quảng đại, từ phung phí sang khả năng chia sẻ, bước vào sự khổ hạnh, điều đó có nghĩa là, học hỏi để ban phát, chứ không phải chỉ biết từ chối. Đó là một cách yêu thương, từng bước từ vượt qua điều chúng ta ham muốn đến việc trao ban điều mà vũ trụ của Thiên Chúa cần thiết. Đó là việc giải thoát khỏi lo âu, ham hố và ràng buộc” [17]. Ngoài ra chúng ta là Kitô hữu, còn được mời gọi, đón nhận “vũ trụ như một bí tích của cộng đoàn, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trong chiều kích vũ trụ. Đó là một xác quyết khiêm tốn, gặp gỡ với điều của Thiên Chúa và nhân loại trong những thành phần nhỏ nhất của trang phục không viền mối sáng tạo của Thiên Chúa, ngay cả trong hạt bụi nhỏ bé nhất của hành tinh chúng ta” [18].
Thánh Phanxicô thành Assisi
10. Tôi không muốn tiếp tục thông điệp này mà không gợi lên một ảnh hình tốt đẹp có thể động viên chúng ta. Tôi coi danh hiệu này như một hình ảnh hướng dẫn và như một thứ gợi hứng cho tôi ngay lúc được chọn làm Giám Mục thành Rôma. Tôi tin rằng, thánh Phanxicô là mẫu gương tuyệt vời cho việc tôn trọng những gì yếu đuối và cho một sinh thái được sống cách trọn vẹn đầy niềm vui đích thực. Ngài chính là vị thánh cho tất cả những ai tìm hiểu và làm việc trong lãnh vực sinh thái; ngài được nhiều người không phải là Kitô hữu yêu mến. Ngài cho thấy một sự chú tâm đối với sáng tạo của Thiên Chúa và đối những kẻ nghèo hèn và cô đơn nhất. Ngài yêu thích niềm vui với một tâm hồn thanh thản, ngài đã sống sự tận hiến quảng đại với tâm hồn rộng mở. Ngài là một vị huyền nhiệm và là một lữ khách sống trong sự đơn sơ và hòa hợp với Thiên Chúa, với kẻ khác, với vạn vật và với chính bản thân. Trong ngài, chúng ta thấy rõ mức độ ngài liên kết tất cả việc chăm sóc thiên nhiên, sự công bằng với kẻ nghèo, việc dấn thân cho xã hội và bình an nội tâm vào một điểm gắn kết chung với nhau, không thể phân ly.
11. Chứng cứ của ngài cho chúng ta thấy, một sinh thái trọn vẹn đòi hỏi phải có một sự rộng mở đến các yếu tố vượt trên ngôn ngữ toán học hay sinh học, và hướng chúng ta đến bản chất nhân bản. Tất cả những gì xảy ra khi chúng ta yêu thương một người, mỗi lần như thế, người đó sẽ chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng hay là một sinh vật bé nhỏ nhất, phản ứng của anh là ca hát lên và lôi kéo tất cả tạo vật vào bài ca của mình. Anh ta bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với cả sáng tạo và sẽ giảng thuyết cho cả loài hoa “và mời gọi chúng cùng ca tụng Chúa, nếu như chúng là một loài có lý trí”[19]. Phản ứng của anh sẽ vươn xa hơn mọi thứ đánh giá dựa theo tri thức hay kinh tế, vì đối với anh mỗi tạo vật là một anh em, một chị em, nối kết với anh bằng liên hệ tình yêu thật êm dịu. Đệ tử của Ngài là thánh Bônaventura, thuật lại như sau : “Khi nghiệm thấy rằng tất cả thụ tạo đều có chung một nguồn gốc cuối cùng nơi Thiên Chúa, ngài cảm thấy tràn đầy sự âu yếm với tất cả. Vì thế, ngài đã gọi các tạo vật bé nhỏ nhất là anh em, là chị em” [20]. Đừng hạ thấp xác tín này thành một thứ lãng mạn siêu thực, vì chúng đưa đến những hệ luận các định kiến xác định thái độ của chúng ta. Nếu chúng ta đến gần thiên nhiên và môi trường chung quanh, mà không có chút rộng mở để kinh ngạc và trầm trồ, nếu chúng ta không nói với thế giới chung quanh bằng ngôn ngữ huynh đệ và đẹp đẽ, thì thái độ của chúng ta sẽ trở thành thái độ của sở hữu chủ, của người tiêu thụ hay chỉ là của những người bốc lột tài nguyên, không có khả năng thiết đặt ranh giới cho chú tâm trực tiếp của mình. Nhưng nếu chúng ta cảm nghiệm được liên kết với tất cả những gì đang hiện hữu, thì sự điều độ và chăm sóc sẽ tự đến. Sự nghèo khó và đơn sơ của thánh Phanxicô không phải là sự khổ hạnh ở bên ngoài, nhưng là một điều gì triệt để : một sự từ chối biến thực tại trở thành đối tượng sử dụng và thống trị.
12. Mặt khác, thánh Phanxicô rất trung thành với Thánh Kinh, đề nghị chúng ta nhận ra thiên nhiên là quyển sách sáng ngời, trong đó, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho chúng ta thấy một ánh quang đẹp đẽ và nhân từ của Người : “Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo Thành” (Kn 13,5) và “quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua công trình của Người” (Rm 1, 20). Vì thế, thánh Phanxicô muốn đan viện phải để ra một mãnh đất không canh tác, để cho cỏ dại có thể mọc lên, để những ai chiêm ngắm chúng có thể nâng tâm hồn lên với Chúa, Đấng là tác giả các vẻ đẹp này [21] Vũ trụ còn hơn là một vần đề phải giải quyết, chúng là một mầu nhiệm thật thân thương, để chúng ta chiêm ngắm trong niềm vui và ca tụng.
Lời kêu gọi của Tôi
13. Việc đòi hỏi khẩn thiết để bảo vệ cho ngôi nhà chung của chúng ta, cũng đưa đến việc cả gia đình nhân loại phải kết hợp với nhau, tìm cách phát triển lâu dài và trọn vẹn, vì chúng ta biết, mọi vật đều có thể thay đổi. Đấng Sáng Tạo không bỏ rơi chúng ta, không bao giờ Người rút lại chương trình tình yêu của Người, Người cũng không hối hận khi sáng tạo nên chúng ta. Nhân loại có khả năng cộng tác với nhau để xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta. Tôi muốn chào đón, động viên và cảm ơn tất cả mọi người hoạt động trong nhiều lãnh vực khác nhau, bảo vệ ngôi nhà chung mà chúng ta cùng chia sẻ. Tôi đặc biệt cám ơn những người can đảm giải quyết các hậu quả bi đát về vấn đề tàn phá môi trường ảnh hưởng trên đời sống những người nghèo nhất trên thế giới. Giới trẻ đòi buộc chúng ta phải thay đổi. Họ tự hỏi, có khả năng nào xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, mà không nghĩ đến cơn khủng hoảng môi trường và đau khổ của những người bị loại ra bên ngoài xã hội.
14. Tôi khẩn khoản kêu gọi một cuộc đối thoại mới về cách thức chúng ta xây dựng một tương lai mới cho hành tinh của chúng ta. Chúng ta cần một cuộc trao đổi kết hợp chúng ta lại với nhau, vì sự thách đố của hoàn cảnh môi trường mà chúng ta đang sống, chú tâm và tiếp cận các căn cơ thuộc con người của môi trường này. Phong trào sinh thái trên toàn thế giới đã có một quá trình lâu dài với nhiều thành công, đưa đến các liên hệ xã hội gây nhiều ý thức. Tiếc thay, nhiều cố gắng để tìm cách giải đáp cụ thể cho khủng hoảng môi trường, thường thất bại, không phải chỉ vì chống đối với những người có quyền lực, nhưng còn vì vô cảm với những kẻ khác. Những thái độ – ngay cả giữa các tín hữu – sơ cứng trên những con đường giải quyết, đưa đến việc phủ nhận các vấn đề với thái độ dửng dưng, chống đối cách hời hợt hay tin tưởng cách mù quáng vào các giải quyết dựa trên kỹ thuật. Chúng ta cần một sự liên đới toàn cầu cách mới mẽ. Như các vị Giám Mục Phi Châu nói “cần đến các tài năng và dấn thân của tất cả mọi người, để làm tốt lại những gì con người lạm dụng, gây tổn thất cho sáng tạo của Thiên Chúa” [22]. Tất cả chúng ta, có thể cộng tác như những khí cụ của Thiên Chúa để cứu giúp sáng tạo, mỗi người theo văn hóa, kinh nghiệm, dấn thân và khả năng của mình.
15. Tôi hy vọng thông điệp này được nối kết vào Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội, giúp chúng ta nhận ra sự lớn lao, khẩn thiết và tốt đẹp của việc đòi buộc đang đối mặt chúng ta. Trước tiên, tôi muốn rảo qua những phương diện xác định về cuộc khủng hoảng môi sinh hiện tại, với mục đích nhìn các thành quả tốt đẹp của việc tìm tòi khoa học, để nhìn sâu và nêu lên một nền tảng cụ thể đường hướng đạo đức và tinh thần. Từ nhãn giới này, tôi sẽ nêu lên những lý lẽ chắn chắn, dựa theo truyền thống Do thái-Kitô giáo, với ước muốn có một sự liên kết trong việc dấn thân cho môi sinh của chúng ta. Tiếp đến, tôi cố gắng đi đến các nguyên nhân hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không phải chỉ nhìn như hiện tượng, nhưng là những nguyên nhân sâu xa. Với cách thức này, chúng ta có thể đề nghị một khoa sinh thái, trong tất cả chiều kích khác nhau của nó, có một vị trí đặc biệt cho con người trong vũ trụ và những liên hệ của nó với thực tại bao quanh con người. Dựa theo ánh sáng của lập luận này, tôi muốn tiếp bước những nét chính yếu của cuộc đối thoại và hoạt động, gắn kết với mỗi người chúng ta cũng như với nền chính trị quốc tế. Và tôi tin rằng, mỗi sự thay đổi cần thiết cho sự chuyển đổi và con đường giáo dục; cuối cùng, tôi đề nghị vài nét cho việc trưởng thành nhân bản, được cảm nghiệm từ kho tàng kinh nghiệm tinh thần Kitô giáo.
16. Dù mỗi chương đều có đề tài riêng và phương pháp đặc thù, nhưng cũng đưa ra một cái nhìn mới cho các vấn đề của mình, mà những chương trước cũng đã được đề cập đến. Điều này đụng đến vài đề tài căn bản, được triển khai xuyên suốt cả thông điệp. Tỉ như : liên hệ mật thiết giữa những người nghèo và sự mỏng manh của hành tinh, xác tín rằng : trong thế giới này tất cả đều liên kết với nhau; sự phê bình các dự phóng mới và các hình thức của quyền lực do kỹ thuật đem đến; mời gọi tìm cách hiểu biết về kinh tế và phát triển; giá trị riêng biệt của từng tạo vật ; ý nghĩa nhân sinh của sinh thái ; sự cần thiết cho những đề nghị đúng đắn và đích thực, trách nhiệm nặng nề của chính trị toàn cầu và địa phương ; loại bỏ văn hóa và đề nghị một lối sống mới. Những đề tài này chưa kết thúc và cũng không thể bỏ qua được, nhưng phải luôn lấy lại một cách mới mẽ và phong phú.
***
CHƯƠNG I
TẤT CẢ NHỮNG GÌ ĐANG DIỄN RA TRONG NGÔI NHÀ CỦA CHÚNG TA
 
17. Những suy tư thần học hay triết học về tình trạng con người và vũ trụ xem ra chỉ có thể là những sứ điệp lập lại và trừu tượng, nếu như chúng không đối mặt một cách mới mẻ với liên hệ hiện hành, khi nhìn vào những gì chưa hiện diện nhưng cần thiết cho lịch sử nhân loại. Vì thế, trước khi nhìn xem niềm tin mang đến cho chúng ta những động lực và những đòi hỏi mới mẻ khi đối diện với thế giới mà chúng ta đang sống, tôi xin đề nghị dừng lại một chút để nhận ra những gì đang diễn ra trong ngôi nhà chung của chúng ta.
18. Việc gia tăng liên tục làm thay đổi nhân loại và hành tinh, ngày nay liên kết với sự căng thẳng chu kỳ sống và làm việc, trở thành một hiện tượng được gọi là “rapidación”. Khi việc thay đổi này là một phần động năng của hệ thống phức tạp, thì vận tốc đòi buộc hoạt động của con người cũng gia tăng, sẽ đi ngược với sự chậm chạp tự nhiên của sự phát triển sinh học. Thêm nữa, vấn đề, mục đích sự thay đổi thật nhanh và kiên vững không bắt buộc phải nhắm vào lợi ích chung và vào sự phát triển lâu dài và trọn vẹn toàn thể nhân loại. Sự thay đổi có thể là một điều đáng ước muốn, nhưng lại gây bất ổn, nếu như nó tạo sự suy thoái cho vũ trụ và phẩm chất sống của một phần lớn nhân loại.
19. Sau một thời gian tin tưởng thật phi lý vào sự phát triển và khả năng của con người, hiện tại một phần xã hội đã bước vào giai đoạn ý thức mạnh mẽ. Đó là một cảm nghiệm tăng dần đối với môi trường và việc chăm sóc thiên nhiên, một sự chăm sóc đích thực và khổ đau về những gì đang diễn ra cho hành tinh của chúng ta. Chúng ta nên có một cái nhìn – cho dù không đầy đủ – về những vấn nạn hiện tại làm cho chúng ta bất an và chúng ta không thể dửng dưng bỏ qua. Mục đích không phải để tổng hợp các hướng dẫn hay thỏa mãn sự hiếu kỳ của chúng ta, nhưng đón nhận một ý thức đau khổ, để dám xem những gì đang diễn ra trong thế giới thành nỗi lo âu của cá nhân và nhận thức sự đóng góp của chúng ta có thể mang đến.
I. SỰ Ô NHIỄM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Sự ô nhiễm, rác rưởi và văn hóa loại trừ
20. Có nhiều hình thức ô nhiễm gây tai hại từng ngày cho con người. Những chất gây nguy hại được tung vào không khí, minh chứng một loạt tác hại trên sức khỏe – đặc biệt cho những người nghèo nhất – đưa đến hàng triệu trường hợp chết chóc rất sớm. Những con người này bị bệnh, tỉ như vì phải thở bụi khói ở mức độ cao của những chất liệu bị đốt cháy, được sử dụng để nấu nướng hay sưởi ấm. Thêm nữa, sự ô nhiễm gây tai hại cho tất cả do các phương tiện giao thông hay do khí thải công nghiệp, do chôn cất những chất liệu gây axít hóa đất đai cũng như nguồn nước, do phân bón, tiêu diệt côn trùng, diệt nấm, diệt cỏ và nói chung là các hóa chất nông nghiệp độc hại. Một thứ kỹ thuật gắn liền với tài chính, cho rằng đây là cách giải quyết duy nhất, trong thực tế, không có khả năng nhìn thấy điều thâm sâu của các liên hệ đa dạng, giữa mọi thứ, và vì thế đôi khi một vấn đề lại tạo nên vấn đề khác.
21. Chúng ta phải nhìn vào sự ô nhiễm do rác thải gây nên, gồm cả các chất cặn bả nguy hiểm có mặt trong nhiều vùng khác nhau. Mỗi năm có hằng trăm triệu tấn rác thải được tung ra, mà phần đông không phải do rác sinh học : rác thải trong gia đình và chợ búa, rác thải do xây dựng, do bệnh viện, điện khí, kỹ nghệ, nhất là những rác thải độc hại và phóng xạ. Ngôi nhà trái đất của chúng ta, càng ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ. Trong nhiều vùng trên trái đất, những người già thường nhớ đến những cách đồng như thuở xưa, nay thì tràn đầy rác rưởi. Cũng như rác thải công nghiệp do những sản phẩm hóa chất được sử dụng trong làng mạc hay nơi đồng áng có thể gây nên hậu quả gia tăng chất hóa học trong cơ thể của người dân chung quanh, cũng như đưa đến những yếu tố độc hại cho một nơi thấp hơn. Thường người ta cũng phải đo lường mức độ hậu quả trên sức khỏe con người không còn có thể đảo ngược lại được.
22. Những vấn đề này kết chặt với thứ văn hóa đào thải (Wegwerfkultur – la culture du déchet) ảnh hưởng đến những con người bị loại thành rác rưởi. Tỉ như chúng ta ý thức một phần lớn giấy tờ được sản xuất, bị phung phí và không còn giá trị gì nữa. Thật cũng khó cho chúng ta khi phải suy nghĩ các phận vụ của hệ thống sinh thái như mô mẫu : cây cỏ tổng hợp những chất lương thực cho loài ăn cỏ ; loài này đến phiên mình cũng làm như thế cho loài ăn thịt, loài này sản xuất ra một số cặn bả hữu cơ, giúp cho cây cỏ lớn lên. Ngược lại hệ thống công nghiệp vào cuối chu kỳ sản xuất và tiêu thụ không có khả năng hòa nhập và tạo lại giá trị cho cặn bả và rác thải. Người ta cũng không thể bảo đảm trong chu kỳ sản xuất đảm bảo được tài nguyên cho mọi người và cho những thế hệ tương lai và giả thiết phải ngăn chận tối đa việc sử dụng tài nguyên, gia tăng tính hữu dụng các khám phá, tái sử dụng và quay vòng chu kỳ. Đối mặt với vấn nạn này sẽ là con đường đối mặt với thứ văn hóa đào thải, cuối cùng gây tai họa cho cả hành tinh chung. Chúng ta xác định, phát triển theo nghĩa này sẽ rất thấp.
Khí hậu là tài sản chung
23. Khí hậu là tài sản chung của mọi người và cho mọi người. Trên bình diện toàn cầu, đó là một hệ thống phức tạp, liên hệ thật cơ bản đến cuộc sống con người. Có một sự nhất trí cao dựa theo khoa học, để xác nhận rằng hệ thống khí hậu của chúng ta đang bị đun nóng gây nhiều lo lắng. Trong những thập niên cuối cùng, việc đun nóng này làm mặt nước biển liên tục dâng cao cũng liên kết việc gia tăng sự biến động khí hậu cực đoan, ngoài ra, người ta không thể gán nguyên nhân khoa học cho từng hiện tượng xác định. Nhân loại được kêu gọi phải ý thức, cần thực hiện sự thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ, để chống lại việc đun nóng hay những nguyên nhân do con người đã gây nên hay làm gia tăng. Thật vậy, còn nhiều động lực khác (như núi lửa, sự thay đổi qui trình chuyển động của trái đất và trục trái đất, chu kỳ mặt trời), nhiều tham luận khoa học cho thấy, phần lớn việc đun nóng toàn cầu trong thập niên cuối, đều dẫn đến sự tập trung các khí thải (thán khí, mê-tan, ôxít nitrogen và nhiều loại khí khác) do hoạt động của con người thải ra.. Nếu chúng cứ tập trung vào bầu khí quyển, sẽ ngăn chận sức nóng của các tia mặt trời phản chiếu trên mặt đất, không đi vào không gian được. Điều này còn do việc gia tăng cách thức phát triển dựa trên việc sử dụng tối đa các tài nguyên trong lòng đất, để gia tăng hệ thống năng lượng toàn cầu. Việc sử dụng đất đai, nhất là nạn phá rừng vì mục đích nông nghiệp, cũng tạo nên sự thay đổi này.
24. Đến lượt mình, việc đun nóng ảnh hưởng đến chu kỳ của thán khí. Do đó tạo nên một vòng ma quái, tiếp tục làm cho hoàn cảnh trầm trọng thêm, gây ảnh hưởng trên việc sử dụng tài nguyên tất yếu như nước uống, năng lượng và sản phẩm nông nghiệp trong những vùng thật nóng và làm mất đi một phần lớn sự đa dạng sinh học của hành tinh. Qua việc tan chảy các tảng băng ở các cực và ở những vùng núi cao gây việc thải khí mêtan ở mức độ cao, và tan rã các chất liệu cơ học đông lạnh có thể nâng cao việc dâng trào thán khí điôxít. Việc biến mất các rừng nguyên sinh nhiệt đới đến phiên mình cũng làm xấu đi tình trạng này, vì chúng giúp điều độ việc biến đổi khí hậu. Việc ô nhiễm do thán khí điôxít sẽ làm thêm độ axít hóa các đại dương, gây nguy hại cho chuỗi lương thực trên biển. Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục, thế kỷ này sẽ chứng kiến không những sự biến đổi khí hậu và sự tàn phá vô tiền khoáng hâu hệ thống môi sinh, đưa đến nhiều hậu quả năng nề cho chúng ta. Tỉ như việc mặt nước biển dâng cao, có thể tạo những hoàn cảnh nặng nề nhất, nếu người ta suy nghĩ đến một phần tư dân chúng sống trực tiếp hay gần biển và một số đông các thành phố lớn ven biển.
25. Việc thay đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu với phương diện môi trường trầm trọng về những chiều kích xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị ; nó đưa ra một thách đố quan trọng nhất trong hiện tại cho nhân loại. Những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra trong những thập niên tới nơi những nước phát triển. Nhiều người nghèo sống trong những vùng mà những hiện tượng này xảy đến, liên kết với việc biến đổi khí hậu và các phương tiện để bảo đảm cuộc sống của họ gắn chặt vào những tài nguyên tự nhiên và những chuyển biến sinh thái như nông nghiệp, ngư nghiệp và nguồn lợi từ rừng. Họ không có những hoạt động tài chính và những tài nguyên khác, giúp họ vượt qua ảnh hưởng của khí hậu hay tai họa, họ cũng khó tiếp cận đến chương trình xã hội và bảo vệ. Những thay đổi khí hậu cũng tạo nên, tỉ như, việc di tản thú vật và cây cối, không còn khả năng thích ứng và như thế cũng gây tác hại cho nguồn sản xuất của người nghèo nhất, là những người cũng cần đến di tản, thật bất định khi nhìn đến tương lai và con cái của họ. Việc gia tăng người di tản thật thương đau, họ phải trốn chạy trước khốn khổ, do việc tàn phá môi trường càng ngày càng tệ hại hơn, và những người chạy trốn này không được công nhận là người di tản, họ phải gánh cuộc sống trong sự bị bỏ rơi không có chút che chở nào theo pháp lý. Buồn thay, có một sự dửng dưng trước sự bi đát này đang diễn ra trên những phần xác định của thế giới. Sự thiếu sót về mặt phản ứng trước bi kịch này của anh em, chị em của chúng ta là một dấu chỉ đánh mất cảm nghiệm về trách nhiệm với tha nhân, mà xã hội phải được xây dựng dựa vào đó.
26. Rất đông người nắm nhiều tài nguyên, quyền lực tài chính và chính trị, xem ra chỉ muốn tập trung vào việc che đậy vấn đề hay giấu nhẹm các hiện tượng, họ cố tìm cách đúc kết vào vài hậu quả tiêu cực của việc biến đổi khí hậu. Nhiều hiện tượng cho thấy, các hậu quả càng ngày càng xấu hơn, nếu chúng ta cứ chạy theo cách sản xuất và thói quen tiêu thụ. Vì thế điều khẩn cấp là phải triển khai chương trình chính trị, để trong các năm tới giảm bớt việc thải chất thán khí điôxít và những khí thải độc hại, tỉ như thay thế việc đốt các chất liệu năng lượng và phát triển nguồn năng lực có thể tái chế. Trong thế giới, năng lượng sạch và có thể tái chế còn rất ít. Cần phải phát triển kỹ thuật tương xứng để cung cấp. Dù vậy, một số nước đã bắt đầu có những tiến bộ, nhưng vẫn còn xa khi muốn đạt tới trình độ đầy đủ. Cũng có vài đầu tư trong cách sản xuất và chuyên chở, sử dụng ít năng lương và chất liệu thô, như trong việc xây dựng hay tu bổ nhà cửa để tạo hiệu quả cho việc sử dụng năng lượng. Nhưng những thực hành tốt đẹp này vẫn chưa được phổ biến.
II. VẤN ĐỀ “NƯỚC”
27. Những dấu chứng khác cho hoàn cảnh hiện tại nằm trong liên hệ với việc phung phí tài nguyên tự nhiên. Chúng ta biết rõ rằng, không thể nào giữ được mức độ hiện hành của việc tiêu thụ nơi các nước đã phát triển và các tầng lớp giàu trong xã hội, nơi thói quen xài phí và thải đi, đạt tới mức chưa từng có. Sự bóc lột hành tinh đã vượt quá mức, đến độ chúng ta không thể giải quyết được vấn đề nghèo đói.
28. Nước sạch là một vấn đề mang ý nghĩa hàng đầu, vì đó là điều tất yếu cho đời sống con người và gìn giữ hệ sinh thái của trái đất và nước. Những nguồn nước ngọt cần cho lãnh vực sức khỏe, đất đai nông nghiệp và kỹ nghệ, Trong một thời gian dài, việc dự trữ nước tương đối ổn định, hiện tại rất nhiều nơi phải đặt vấn đề vì vượt quá sự dự trữ, đưa đến những hậu quả nặng nề trong thời gian ngắn cũng như dài hạn. Nhiều thành phố lớn, cần đến những khối nước lớn để sử dụng, cũng phải đau khổ vì sự cạn kiệt nguồn nước, không đủ xài trong thời gian khủng hoảng. Việc thiếu nước diễn ra đặc biệt tại Phi Châu, nơi phần đông dân số không thể tiếp cận với nước uống hay phải chịu đựng những thời gian hạn hán, gây khó khăn cho việc sản xuất lương thực. Trong nhiều quốc gia, có nước dư thừa nhưng đồng thời lại có những quốc gia thiếu nước trầm trọng.
29. Một vấn đề đặc biệt trầm trọng, đó là hằng ngày có quá nhiều người chết, chính là do phẩm chất nước mà dân nghèo sử dụng. Các bệnh tật từ nước là do các vi khuẩn và những chất hóa học gây nên. Tiêu chảy và bệnh dịch tả liên kết với công tác vệ sinh không đầy đủ và tiêu thụ nước không được sạch, đó là động cơ rõ ràng đưa đến đau khổ của các em bé, phải bị chết sớm. Các mạch nước ngầm ở nhiều nơi bị ô nhiễm do các hoạt động tạo cặn bả do nông nghiệp và công nghiệp, nhất là trong những vùng đất không có luật lệ và kiểm soát đủ. Chúng ta không chỉ nghĩ đến rác thài của các xí nghiệp. Các thứ thuốc giặt và sản phẩm hóa chất mà dân chúng sử dụng nhiều nơi trên thế giới, trút đổ vào các dòng sông, ao hồ và biển cả.
30. Trong khi phẩm chất nước được sử dụng ngày càng thêm dơ bẩn, nhiều nơi có xu hướng tư hữu hóa nguồn nước có hạn này; đến độ nước trở thành nguồn hàng hóa và phải chịu luật thị trường. Trong thực tế, tiếp cận nước uống được bảo đảm là quyền nền tảng và phổ quát của con người, vì nó giúp cho con người được tồn tại và đó là điều tất yếu cho việc thực hiện quyền con người. Thế giới này mang một tội lớn lao đối với người nghèo vì không cho họ tiếp cận nguồn nước uống, điều này có nghĩa là họ bị cướp đi quyền sống, đó là quyền nền tảng cho phẩm giá bất biến của họ. Lỗi lầm này phần lớn là do việc sử dụng tài chính quá ít để chăm sóc đám dân nghèo khổ nhất đủ nước uống và vệ sinh. Thêm nữa, việc phung phí nước không những trong các nước công nghiệp, nhưng ngay trong các quốc gia đang phát triển, có được nguồn dự trữ. Điều này cho thấy, vấn đề nước uống một phần cũng là do vấn đề giáo dục và vấn đề văn hóa, vì thiếu ý thức sự trầm trọng trong thái độ liên hệ bất bình đẳng.
31. Việc thiếu nước trầm trọng gây nên việc gia tăng giá các lương thực và của các sản phẩm phải gắn liền với việc sử dụng nước. Một vài tham luận đã cảnh cáo khả năng thiếu nước trầm trọng trong vài thập niên tới, nếu như không cấp bách hành động. Gánh nặng môi trường có thể gây thiệt hại cho hàng tỉ người, chúng ta có thể thấy trước việc kiểm soát nước của những công xưởng lớn sẽ trở thành nguồn xung khắc chính yếu trong thế kỷ này [23].
III. VIỆC MẤT DẦN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC
32. Những nguồn tài nguyên của trái đất là đối tượng khai thác dựa theo quan niệm của công nghệ và hoạt động thương mại và sản xuất, đưa đến kết quả ngay trước mắt. Việc mất mát rừng rậm và thảo mộc đồng thời đưa đến việc đánh mất các giống loài, trong tương lai có thể là những nguồn quan trọng nhất, không những để nuôi dưỡng, nhưng còn để chữa lành bệnh tật và còn cho nhiều phục vụ đa dạng khác. Nhiều giống loài chứa các gen, là những nguồn tài nguyên cho các phận vụ chủ yếu, có thể giải quyết nhu cầu của nhân loại trong tương lai hay giúp giải quyết một vần đế môi trường nào đó.
33. Người ta không suy nghĩ đủ về nhiều giống loại được xem như “tài nguyên” hữu ích và quên rằng chúng chứa đựng những giá trị đặc thù. Mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cái của chúng ta cũng chưa thấy được, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn. Phần đông chúng chết là do hoạt động một cách nào đó của con người. Vì lỗi lầm của chúng ta, mà hàng ngàn giống loài không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp của chúng. Chúng ta không có quyền làm như thế.
34. Có lẽ, chúng ta bất an khi cảm nghiệm về cái chết của loài động vật có vú hay của một loài chim, chỉ vì chúng thường xuất hiện trước mắt chúng ta. Nhưng, các cây nấm, tảo, các con sâu, côn trùng, rắn rít và biết bao nhiêu loại vi sinh lại rất cần thiết cho hoạt động tốt của hệ thống sinh thái. Nhiều giống loài nhỏ bé, thường không được con người chú ý, lại giữ một phận vụ cơ bản để tạo sự cân bằng một vị trí. Thật sự, con người phải can thiệp khi hệ thống địa lý bước vào một tình trạng nguy cấp, nhưng ngày hôm nay, mức độ can thiệp của con người, trong một thực tại đa dạng như thiên nhiên có một mức độ, việc can thiệp của con người lại đem đến nhiều tai họa, đến độ hoạt động của con người ở mọi nơi luôn kèm theo những nguy hiểm. Thường xuất hiện những vòng xấu lẫn quẫn khi có sự can thiệp của con người để giải quyết một khó khăn nào đó, nhưng rồi hoàn cảnh tiếp tục tệ hại hơn. Tỉ như nhiều loại chim và côn trùng đã chết đi do các phân bón nông nghiệp được công nghệ sản xuất và sử dụng trên đồng ruộng, thật thì chúng hữu ích cho đồng ruộng và việc biến mất của chúng lại bị thay thế bằng một sự can thiệp khác của kỹ thuật, có thể lại đưa đến các hậu quả tai hại khác. Cũng thật đáng ca tụng và kinh ngạc trước cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật, cố tìm cách giải quyết các vấn đề do con người làm ra. Nhưng nếu nhìn vào thế giới, chúng ta phải xác nhận, mức độ can thiệp của con người thường là để phục vụ cho tài chính và tiêu thụ, đã làm cho thế giới chúng ta đang sống bớt phong phú và mất đi vẻ đẹp, luôn bị hạn hẹp lại và xáo trộn, trong khi sự phát triển kỹ thuật và mức tiêu thụ tiếp tục vượt qua bất cứ một ranh giới nào. Xem ra, khi chúng ta cố gắng tạo một vẻ đẹp không thể thay thế được, thì lại tạo một thế giới khác hẳn do chính tay của con người.
35. Khi phân tích một bản khảo cứu về ảnh hưởng của môi trường, người ta thường chú ý đến hiệu quả của đất đai, nước và không khí, nhưng lại không có một nghiên cứu cẩn thận nào về hiệu quả của sự đa dạng sinh học, tỉ như việc biến mất vài loại hay nhóm thú vật hay cây cối, gần như việc biến mất này không quan trọng. Xa lộ, các văn hóa mới, những hàng rào sắt, rào chắn và những việc xây dựng khác dần dần chiếm hữu không gian sống và đôi khi cũng ngăn cản, làm cho bầy thú không còn nơi để di chuyển hay di trú, như thế sẽ đưa đến nguy cơ: các thú vật này sẽ bị tiêu diệt. Cũng có sự tương đối – như việc tạo hành lang sinh học – có thể giảm hậu quả việc xây cất này, cũng chú ý đến và lo lắng trong một số quốc gia. Khi gia tăng một số loại vì nhu cầu thị trường, người ta đã không chú ý đến hình thức tăng trưởng của chúng, để giảm bớt sự dư thừa quá mức và bỏ qua việc mất thăng bằng trong hệ thống sinh học.
36. Việc chăm sóc hệ thống sinh học phải có một cái nhìn vượt trên điều thấy ngay trước mắt, nếu người ta chỉ tìm năng xuất kinh tế nhanh và dễ dàng, thì không ai thực sự chú tâm đến việc bảo vệ. Giá phải trả cho những tai hại do dửng dưng ích kỷ gây nên, còn cao hơn lợi ích kinh tế có thể đạt được Trong trường hợp biến mất hay những tai họa nặng nề cho vài loại, chúng ta sẽ nói về giá trị vượt trên cả sự tính toán của chúng ta. Như thế chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân thinh lặng cho sự bất công nặng nề, khi một số người cho rằng họ sẽ được lợi lộc quan trọng khi phải trả cho phần còn lại của nhân loại, hiện tại cũng như tương lai, những phí tổn quá cao cho việc tàn phá môi trường.
37. Nhiều quốc gia đã có những bước tiến trong việc bảo vệ có hiệu quả ở nhiều nơi và nhiều vùng – trên đất và cả nơi đại dương – nơi cấm mọi sự can thiệp của con người, thay đổi diện mạo của chúng hay làm sai lệch hình dạng nguyên thủy của chúng. Trong việc bảo vệ đa dạng sinh học, các nhà chuyên môn nhấn mạnh đến sự cần thiết, phải chú tâm đến những vùng có nhiều giống loài qúi hiếm để bảo vệ. Nhiều nơi cần phải chăm sóc đặc biệt vì ý nghĩa to lớn cho hệ thống sinh thái toàn cầu hay vì có những dự trữ nước quan trọng và bảo đảm cho những hình thức khác của sự sống.
38. Chúng ta nêu một tỉ dụ về sự đa dạng của buồng phổi hành tinh, được trình bày bằng vùng sông Amazon và vịnh Kongo, hay những vùng có đầy nước và các băng hà. Chúng ta biết ý nghĩa của những địa điểm này cho toàn thể hành tinh và cho tương lai nhân loại. Hệ thống sinh thái của các rừng nguyên sinh ở nhiệt đới có sự đa dạng sinh thái lớn lao, mà gần như con người không thể biết hết được, dù vậy khi các rừng rậm này bị cháy rụi hay bị tàn phá đế phát triển nông nghiệp, thì trong vài năm không biết bao nhiều loài sẽ bị biến mất, khi các vùng này biến thành những sa mạc khô cằn. Thêm nữa, người ta cũng biết, khi nói về những vùng này, bắt buộc phải đưa đến một hành động quân bình thật tế nhị, vì không quên rằng những lợi lộc tài chính khổng lồ cho toàn cầu, với luận điệu lo lắng cho các nơi này, có thể đi ngược lại chủ quyền của các quốc gia đó. Thực sự cũng đã có ý tưởng “toàn cầu hóa vùng Amazone : những ý tưởng như thế duy chỉ có lợi về mặt kinh tế cho những các cơ quan siêu quốc gia” [24]. Phải đánh giá cao trách nhiệm của các cơ quan quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự, cảm thông với dân chúng và hoạt động có tính chất phê phán – khi sử dụng cả áp lực hợp phán – để mỗi chính quyền mang trách nhiệm không thể chuyển nhượng để bảo vệ môi trường cũng như các tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình, mà không bán cho những cơ quan chỉ tìm lợi lộc bất chính địa phương hay quốc tế.
39. Việc thay thế những cánh rừng nguyên sinh bằng những vùng trồng cây khác, thường chỉ là độc canh, sẽ không trở thành đối tượng cho việc phân tích thích đáng. Thực vậy, việc thay thế này có thể gây ảnh hưởng trầm trọng cho sự đa dạng sinh học, thường không đón nhận loại cây mới được trồng. Ngay cả những vùng ẩm ướt, bị biến thành vùng đất canh tác, cũng mất đi sự đa dạng sinh học mà chúng đã chứa chất. Trong vài vùng ven biển, việc đánh mất hệ thống sinh thái do các vùng đầm sú gây nhiều lo lắng.
40. Các đại dương không những chứa đựng một phần lớn lượng nước của hành tinh, nhưng có cả một phần lớn sinh vật thật đa dạng, trong số đó chúng ta chưa biết được nhiều và chúng đang bị hăm dọa vì nhiều lý do. Mặt khác, cuộc sống trên sông, ao hồ, biển cả và đại dương, chu cấp lương thực cho phần lớn dân số trên trái đất, sẽ bị tai họa do việc đánh bắt cá không bị kiểm soát, tạo nên việc sa sút nhiều giống loài. Thêm nữa người ta đang phát triển nhiều cách đánh bắt cá có chọn lọc, tàn phá một phần lớn giống loài bị bắt. Đặc biệt, các sinh vật biển gặp nguy hiểm mà chúng ta không suy nghĩ đến, như một số sinh vật nổi được biết đến, tạo nên những thành phần quan trọng cho chuỗi lương thực biển khơi và thuộc về những loài phục vụ cho lương thực cho chúng ta.
41. Khi chúng ta khảo sát các đại dương thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chúng ta sẽ gặp các tảng san hô, được xem như các rừng nguyên sinh trên trái đất, vì chúng là nơi có hằng triệu loài trú ngụ, trong đó có cá, cua, hào, sứa, tảo và nhiều loại khác. Nhiều rừng san hô ngày hôn nay bị khô cằn hay đang nằm trong tình trạng bị tiêu diệt dần : “Ai đã biến thế giới dưới lòng đại đương trở thành nghĩa địa dưới nước không có sự sống, không còn màu sắc gì cả ?” [25] Hiện tượng này phần lớn là do việc làm ô nhiễm nơi đại dương như hiện tượng phá rừng, độc canh trong nông nghiệp, rác thải do công nghiệp và những phương pháp hủy hoại của việc đánh bắt cá khi sử dụng cyanure và thuốc nổ. Hiện tượng này càng bị làm gia tăng do nhiệt độ trong đại dương càng tăng cao. Những điều này giúp chúng ta nhận thức, tất cả việc tấn công vào thiên nhiên cũng sẽ đưa đến hậu quả, ngay lúc đầu chúng ta không thấy được, nhưng những hình thức sử dụng tài nguyên sẽ đưa đến cái giá phải trả là sự tàn phá, cuối cùng sẽ đi đến đáy của đại dương.
42. Cần phải đầu tư nhiều để có thể hiểu việc gìn giữ hệ thống sinh thái tốt đẹp hơn và phân tích hiệu quả những thay đổi quan trọng của môi trường. Vì tất cả tạo vật đều liên kết với nhau, cần phải đánh giá chúng với tình yêu và thán phục, và tất cả như những hữu thể mà chúng ta đều cần đến. Mỗi mảnh đất đều có một tránh nhiệm phải chăm sóc cho gia đình này. Vậy cần phải lo lắng để gìn giữ các giống loài mà chúng đang cho trú ngụ, phải triển khai một chương trình và chiến thuật để chăm sóc đặc biệt các giống loài, đang trong tình trạng bị hủy hoại.
IV. SUY GIẢM PHẨM CHẤT CUỘC SỐNG VÀ SUY THOÁI CỦA XÃ HỘI
43. Nếu chúng ta nhận thức con người là một thụ tạo trên trái đất này, họ có quyền sống và hạnh phúc, ngoài ra còn có một phẩm giá rất đặc biệt; chúng ta không thể bỏ qua các hậu quả của việc tàn phá môi trường, của mẫu phát triển hiện hành và văn hóa đào thải đối với sự sống của con người.
44. Ngày nay, tỉ dụ, chúng ta quan sát sự phát triển vô giới hạn, vô trật tự của các tỉnh thành, đến độ không còn có thể sống lành mạnh tại đây, không những vì việc ô nhiễm do khí thải độc hại, nhưng còn vì sự lộn xộn trong thành phố, vì vấn đề giao thông và khổ ải vì tiếng động và mầu sắc. Nhiều thành phố đã trở thành những cơ cấu không chút kinh tế, sử dụng năng lượng và nước quá tải. Có những khu phố, dù mới được xây dựng, bị tắt nghẽn và vô trật tự, không có đủ các mảng xanh. Điều này không thích ứng cho dân cư của hành tinh, bị chết nghẹt vì xi-măng, dầu đường, các tấm kiếng, kim loại và cướp đi sự liên hệ thể lý với thiên nhiên.
45. Nhiều vùng trong thành thị cũng như thôn quê bị tư nhân hóa đất đai, gây khó khăn cho dân cư khó tiếp xúc với các vùng này và không thể chiêm ngắm vẻ đẹp các nơi đây. Nhiều nơi khác, người ta tạo những vùng “sinh thái” để chỉ phục vụ một ít người, nhưng cấm kẻ khác bước vào để đừng phá sự yên tĩnh nhân tạo. Người ta cũng tìm thấy một thành phố có những không gian xanh được chăm sóc tốt đẹp thường ở những nơi “được bảo đảm”, nhưng lại không có trong những vùng của những người bị xã hội loại trừ.
46. Nơi những thành phần xã hội của việc thay đổi toàn cầu cũng có những hiệu quả của việc thay đổi về mặt kỹ thuật trên lao động, sự loại trừ về mặt xã hội, bất bình đẳng trong việc phân phối và sử dụng năng lượng và những việc phục vụ khác, sự phân rẽ xã hội, gia tăng bạo lực và xuất hiện những hình thức tấn công xã hội, việc buôn bán ma túy và gia tăng lượng xì ke nơi giới trẻ, việc mất đi căn tính. Đó là những dấu chứng giữa những thứ khác, cho thấy việc phát triển trong hai thế kỷ sau cùng, dưới nhiều phương diện không mang ý nghĩa phát triển và làm tốt phẩm chất cuộc sống. Vài dấu chỉ cho thấy hiện tượng sa sút về mặt xã hội, một sự đổ vỡ âm thầm của những liên hệ hội nhập và cộng đồng xã hội.
47. Ngoài ra còn có sự năng động của các phương tiện truyền thông xã hội và thế giới kỹ thuật số, một khi đã hiện diện ở khắp nơi, không thích hợp để triển khai khả năng sống khôn ngoan, suy tư sâu xa và tình yêu quảng đại. Những người khôn ngoan trong quá khứ, trong môi trường này, sẽ nhìn thấy sự khôn ngoan của mình tắt dần giữa sự ồn ào của các quảng cáo. Điều này đòi buộc chúng ta phải cố gắng để những phương tiện liên hệ đưa ra một sự phát triển về mặt văn hóa của nhân loại và không đánh mất sự phong phú sâu xa nhất. Sự khôn ngoan đích thực, do suy tư, đối thoại và gặp gỡ khoan dung giữa con người, không thể đạt được do việc chất đầy những dữ kiện, chỉ đưa đến một thứ thỏa mãn làm ô nhiễm môi trường tinh thần. Đồng thời cũng có xu hướng trong liên hệ đích thực với người khác với đòi hỏi phải thay thế qua mạng. Điều này cho phép chọn lựa hay loại bỏ những liên hệ theo sở thích của chúng ta, từ đó nảy sinh một mẫu tình cảm nhân tạo, chỉ qua máy móc hay màn ảnh hơn là với con người và vạn vật. Những phương tiện hiện hành đưa đến việc chúng ta trao đổi kiến thức và tình cảm với nhau. Dù vậy, đôi khi chúng ngăn cản chúng ta bước vào liên hệ trực tiếp với âu lo, bất an, niềm vui với kẻ khác và với cảm nghiệm cá nhân của mình. Vì thế chúng ta cũng không lấy làm lạ, dù có quá nhiều sản phẩm, nhưng vẫn có một sự không thỏa mãn chua xót nào đó trong liên hệ giữa con người hay một sự cô đơn buồn thảm.
V. SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU VỀ MẶT XÃ HỘI
48. Môi trường nhân loại và môi trường tự nhiên cùng xấu đi và chúng ta không thể đối mặt với sự hủy hoại môi trường, nếu không chú tâm đến các nguyên nhân liên kết với việc sa sút trên bình diện con người lẫn xã hội. Thật vậy, sự hủy hoại môi trường và xã hội gây tác hại cách đặc biệt cho những gì yếu đuối nhất của hành tinh : “Như kinh nghiệm chung của đời sống hằng ngày cũng như việc nghiên cứu theo khoa học cho thấy những người nghèo nhất phải chịu hậu quả nặng nề nhất của mọi thứ tấn công vào môi trường” [26]. Tỉ dụ như việc làm cạn nguồn các loài cá, gây nguy hại đặc biệt cho những người sống về nghề cá và không còn gì để thay thế được ; việc làm ô nhiễm nguồn nước đụng chạm đặc biệt đến những người nghèo khổ nhất, họ không có khả năng để mua nước trong chai lọ, và việc mặt nước biển dâng cao ảnh hưởng trên những cư dân ven bờ, không có khả năng tìm nơi cư trú khác. Hậu quả của các hình thức hiện hành về việc sái trật tự được thấy rõ nơi những cái chết sớm ở người nghèo, trong sự xung khắc vì thiếu tài nguyên và nhiều vấn đề khác, không còn đủ không gian cho trật tự hiện hành này của thế giới [27].
49. Tôi muốn nhấn mạnh, người ta không có những trình bày rõ ràng về các vấn đề ảnh hưởng đặc biệt trên những người bị xã hội loại trừ. Họ là thành phần đông đảo nhất của hành tinh, hàng tỉ người. Ngày nay, họ chỉ được trình bày trong các thảo luận chính trị và kinh tế toàn cầu, nhưng hình như vấn đề của họ chỉ được xem như một thứ phụ lục, được thêm vào vì bị bó buộc hay phải nằm bên lề, khi người ta không xem họ như một vấn đề tệ hại phụ thuộc. Trong thực tế, khi đi vào hoạt động cụ thể, họ thường chỉ được nhìn ở vị trí cuối. Điều này chỉ vì, các nhà chuyên môn, lãnh đạo ý kiến, trung tâm liên lạc và quyền lực đã ở quá xa họ, trong những vùng thành phố bên lề, không có liên hệ gì đến vấn đề của những người bị loại. Những vị này sống và suy nghĩ từ một sự thoải mái theo cái nhìn của trình độ phát triển và một phẩm chất cuộc sống mà phần đông dân chúng toàn cầu không có được. Sự thiếu sót trong việc đụng chạm thể lý và gặp gỡ, đôi khi vì sự phân rẽ trong thành phố của chúng ta, giúp họ trấn an lương tâm và không biết đến một phần thực tế qua những phân tích lộn xộn của họ. Điều này cũng liên kết với những bài diễn văn “xanh”. Nhưng ngày nay chúng ta phải nhận rằng, một tiếp cận đích thực về mặt môi sinh phải biến thành một tiếp cận xã hội, phải có nhận định về mặt công bình trong các bàn thảo về môi trường, để lắng nghe tiếng than của trái đất, cũng như của người nghèo.
50. Thay vì giải quyết vấn đề của người nghèo và suy nghĩ về một thế giới khác, một số người chỉ đề nghị việc hạn chế sinh sản. Không thiếu những áp lực quốc tế trên các nước phát triển, trong khi những việc giúp đỡ kinh tế cho một số quyết định chính trị gắn liền với việc “sức khỏe sinh sản”. Những “việc chia sẻ dân chúng không đều và tài nguyên trong việc sử dụng lại ngăn cản việc phát triển và việc sử dụng lâu dài môi trường, người ta phải công nhận rằng, việc gia tăng dân số phải phối hợp với việc phát triển trọn vẹn và liên đới” [28]. Kết án việc gia tăng dân số và không đếm xỉa gì đến việc tiêu thụ quá đáng của một số người ưu tuyển, thì không thể là cách thế giải quyết vấn đề. Một cố gắng, hợp pháp hóa mẫu hiện tại của việc phân chia, trong đó số ít tin rằng mình có quyền tiêu thụ, điều không thể nào phổ quát cho tất cả mọi người được, chỉ vì hành tinh không thể có khả năng chịu đựng được rác thải của một thứ tiêu thụ như vậy được. Ngoài ra chúng ta cũng biết rằng, một phần ba lương thực cho cuộc sống bị phung phí và “lương thực bị bỏ đi, cũng là cướp đi từ bàn ăn của người nghèo”. Dù vậy, phải chú tâm đến sự mất cân bằng trong việc phân chia dân số trên đất đai, về phương diện quốc gia cũng như trên phương diện toàn cầu, chỉ vì sự gia tăng sức tiêu thụ sẽ đưa đến sự lộn xộn trong hoàn cảnh của nhiều vùng vì liên hệ đến các vấn đề như ô nhiễm môi trường, giao thông, xử sự với rác thải, tài nguyên bị thất thoát và phẩm chất cuộc sống.
51. Sự bất bình đẳng không chỉ ảnh hưởng đến từng cá nhân, nhưng trọn cả đất nước, buộc phải suy nghĩ đến đạo đức trong liên hệ quốc tế. Thật vậy, có một “món nợ về mặt môi sinh” – đặc biệt giữa miền bắc và miền nam – liên kết với sự bất bình đẳng trong thương mại và những hậu quả của chúng trên bình diện môi trường cũng như với việc sử dụng bất bình đẳng các tài nguyên thiên nhiên. Việc xuất khẩu vài thứ nguyên liệu thô, thỏa mãn thương trường của miền bắc với công nghệ của họ, đã tạo nhiều tai hại cho địa phương như việc gây ô nhiễm với chất thủy ngân trong các mỏ vàng hay gây độc hại với chất dioxid lưu huỳnh trong các mỏ đồng. Người ta phải chịu trách nhiệm trước sự kiện sử dụng không gian môi sinh của cả hành tinh để chất chứa các khí thải, gom góp lại trong vòng hai thế kỷ và đã tạo ra hoàn cảnh đưa tất cả quốc gia trên trái đất cùng chịu khổ. Sự đun nóng do việc tiêu thụ kinh khủng của các nước giàu, đưa đến hậu quả trong các vùng nghèo khổ trên trái đất, đặc biệt là Phi Châu, mà việc gia tăng nhiệt độ đưa đến khô hạn, tàn phá các vùng canh tác. Còn những tai hại khác, việc xuất khẩu các rác thải cứng và lỏng độc hại vào các nước đang phát triển và qua tác động gây hại cho môi trường do các các nước giàu, vì cho rằng họ mang tài chính đến các nước nghèo này : “Chúng tôi xác nhận các nhà kinh doanh quốc tế, đã làm như thế tại đây điều mà họ không được phép làm trong các nước phát triển, thường được gọi là thế giới thứ nhất. Nói cách chung, họ phải ngưng ngay hoạt động của họ và rút khỏi nơi đây, họ đã để lại nhiều tai hại cho con người và môi trường như thất nghiệp, làng mạc không sức sống, cạn kiệt dự trữ tự nhiên, rừng bị tàn phá, làm nghèo cả nông nghiệp địa phương và nuôi súc vật, cỏ dại, đồi trọc, sông bị nhiễm khuẩn và vài công tác xã hội không còn khả năng tiếp tục” [30].
52. Món nợ bên ngoài của các nước nghèo trở thành một công cụ quản lý, nhưng nó không giống với món nợ môi trường. Theo nhiều cách, một ít dân tộc phát triển chú tâm đến việc dự trữ môi sinh, tiếp đến là việc phát triển các nước giàu nhất, dựa trên giá trị của hiện tại và tương lai. Đất đai của người nghèo ở miền nam thật phì nhiêu và ít bị hủy hoại môi trường, nhưng để chiếm hữu những tài sản và tài nguyên này để thỏa mãn cho cuộc sống, họ bị một hệ thống thương mãi và sở hữu quái ác ngăn cấm. Các nước phát triển cần phải giải quyết món nợ này, bằng cách giới hạn việc sử dụng năng lượng không thể tái hồi và phải cứu trợ cho những nước cần nhất, để nâng đỡ hệ thống chính trị và những chương trình giúp cho việc phát triển lâu dài. Những vùng và các quốc gia nghèo nhất có rất ít khả năng để áp dụng các mẫu mới để thu hẹp các tai họa của hoạt động con người trên môi trường, vì họ không được đào tạo để triển khai các tiến trình cần thiết và họ cũng không có khả năng để trả phí tổn. Vì thế, người ta phải ý thức, trong việc thay đổi khí hậu, phải có những ý thức cần thay đổi (diversifizierte Verantwortlichkeiten – responsabilités diversifíées) và – như các Giám Mục nước Mỹ nói – “phải tập trung vào nhu cầu đặc biệt của người nghèo, người yếu đuối và những người bị thương tật, trong một tham luận thường chỉ chú tâm vào lợi ích của những người giàu” [31]. Chúng ta cần ý thức mạnh mẽ hơn, chúng ta là một gia đình nhân loại duy nhất. Không có ranh giới hay rào cảng chính trị ngăn cách chúng ta lẻ loi, vì lý do đó, không có chỗ cho việc toàn cầu hóa sự dửng dưng.
VI. SỰ YẾU KÉM CỦA CÁC PHẢN ỨNG
53. Những hoàn cảnh này gợi lên tiếng rên siết của chị trái đất, liên kết với các tiếng rên siết của những kẻ bị bỏ rơi trên trái đất, trong tiếng khóc than yêu cầu chúng ta chuyển đi một hướng khác. Không bao giờ chúng ta lại đối xử tàn tệ và làm thương tổn ngôi nhà chung của chúng ta như trong hai thế kỷ qua. Nhưng chúng ta đã được kêu gọi để thành khí cụ của Thiên Chúa, Cha của chúng ta, để hành tinh của chúng ta được trở nên như ước muốn của Người khi Người sáng tạo nên nó, và đáp ứng được dự kiến hòa bình, đẹp đẻ và tràn đầy. Vấn đề là chúng ta chưa có thứ văn hóa cần thiết để đối mặt với cơn khủng hoảng này ; cần phải tạo nên một nhóm lãnh đạo leaderships, để vạch con đường trong lúc tìm cách đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại gồm trọn tất cả mọi người, mà không gây nguy hại cho các thế hệ đang đến. Cần phải tạo một hệ thống pháp lý, cho thấy các ranh giới không vượt lên và bảo đảm việc bảo vệ hệ thống môi sinh, trước khi có những hình thức quyền lực, dựa vào mô mẫu kinh tế-kỹ thuật, cuối cùng phá tan không những chính trị, nhưng cả sự tự do và công bằng.
54. Người ta thấy rõ sự yếu kém về mặt phản ứng chính trị toàn cầu. Chính trị phải tùng phục kỹ thuật và vần đề tài chính, điều này cho thấy trong sự thất bại của cả thế giới về vấn đề môi trường. Có quá nhiều lợi lộc kinh tế riêng tư, và cũng dễ dàng nhằm vào lợi lộc kinh tế, đưa đến người nắm quyền đánh giá cao ích lợi chung và khuynh đảo những thông số để không ảnh hưởng gì đến những chương trình riêng của họ.Theo nghĩa này, Tài Liệu Aparecida, đòi buộc “khi khai thác các tài nguyên tự nhiên, không được phép chỉ nhắm đến lợi ích các nhóm kinh tế, họ chỉ tàn phá một cách bất hợp lý các nguồn sống” [32]. Sự liên kết giữa kinh tế và kỹ thuật sẽ bỏ qua tất cả những gì không dính dáng đến lợi ích trực tiếp của họ. Như thế, người ta chỉ nghe những tuyên bố hời hợt, vài hành động đơn độc giả hình và cả những cố gắng cho thấy họ cũng chú tâm đến môi trường, nhưng trong thực tế, cố gắng tổ chức xã hội như thay đổi sự vật, chỉ gây khó chịu do các ảo tưởng lãng mạn hay như một sự ngăn cản phải đối mặt.
55. Dần dần một số quốc gia cũng có thể minh chứng những bước tiến có ý nghĩa, phát triển các kiểm soát có hiệu quả và một sự chiến đấu đích thực chống lại sự hủy hoại. Có nhiều cảm nghiệm về mặt môi sinh trong quần chúng, nhưng cũng không đủ để thay đổi các thói quen tiêu thụ có hại, không phải loại bỏ, nhưng phổ biến và triển khai. Để đưa ra một tỉ dụ đơn sơ, việc sử dụng các máy lạnh ngày càng tăng và nhiều hiệu năng hơn. Các thị trường hưởng lợi trực tiếp, càng kích thích những yêu cầu này. Nếu có ai đứng bên ngoài chú ý đến dân chúng trên trái đất này, sẽ rất kinh ngạc vì thái độ này, vì cho đến bây giờ thái độ này bị xem như một thứ tự tử.
56. Trong thời gian qua, các quyền lực kinh tế tiếp tục hợp pháp hóa hệ thống toàn cầu hiện tại, bằng cách nêu lên một định hướng và một cố gắng theo lợi nhuận tài chính để làm quên đi hiện trạng cũng như hậu quả trên phẩm giá con người và môi trường. Như thế rõ ràng, việc làm ô nhiễm các điều kiện môi trường và ô nhiễm trên bình diện nhân phẩm và đạo đức, liên kết mật thiết với nhau. Nhiều người nói rằng, họ không ý thức việc làm của họ vô đạo đức, vì việc phủ nhận giúp chúng ta can đảm nhìn thực tại trong một thế giới bị hạn hẹp chóng qua. Vì thế mà ngày nay “tất cả những gì yếu đuối cũng như môi trường không có gì tự vệ để chống lại lợi ích của thị trường, được thần thánh hóa, trở thành lề luật tuyệt đối” [33].
57. Có thể thấy trước rằng, đối diện với việc làm cạn kiệt một số tài nguyên, sẽ đưa đến một hoàn cảnh, dễ dàng tạo ra chiến tranh, giấu mặt dưới sự yêu sách cao thượng. Chiến tranh sẽ gây biết bao tai họa nặng nề cho môi trường cũng như cho sự phong phú về mặt văn hóa của dân chúng, và nguy cơ sẽ gia tăng khủng khiếp, khi người ta nghĩ đến các khí giới hạt nhân và sinh học. Vì “dù các thỏa thuận toàn cầu đã có việc nghiêm cấm các loại chiến tranh hoá học, vi khuẩn và sinh học, nhưng thực sự, trong các phòng thí nghiệm người ta vẫn tiếp tục tìm kiếm chế tạo các vũ khí tấn công mới, có thể thay đổi sự quân bình tự nhiên.” [34]. Về mặt chính trị, cần phải có một sự chú ý đặc biệt trong mọi hoàn cảnh để thấy trước và giải quyết các xung khắc mới. Thế nhưng, quyền lực liên kết với hệ thống kinh tế, thì những cố gắng đáng được mơ ước, sẽ làm cho các chương trình chính trị không thể nào đi xa được. Tại sao ngày nay người ta lại muốn giữ một quyền lực, mà người ta đã thấy sự bất lực của nó trong quá khứ, để can thiệp khi tình trạng khẩn cấp và cần thiết ?
58. Trong một số nước, có nhiều tấm gương tích cực trong việc làm tốt môi trường. Như việc làm sạch một số sông bị ô nhiễm trong nhiều thập kỷ, hay trồng lại các cánh rừng địa phương hay làm đẹp các cánh đồng nhờ các công tác làm sạch môi trường hay những dự án xây dựng nhà cửa với nhiều giá trị thẩm mỹ hay phát triển trong việc sản xuất năng lượng không gây ô nhiễm, làm tốt các phương tiện giao thông và các việc khác nữa. Các hoạt động này chưa giải quyết được vấn đề toàn cầu, nhưng dù sao cũng cho thấy, con người có khả năng can thiệp cách tích cực. Con người được tạo dựng để yêu, giữa các hạn hẹp của mình, cũng có thể đưa đến các cử chỉ quảng đại, liên đới và chăm sóc.
59. Nhưng đồng thời, một khoa sinh thái bề ngoài và hời hợt, chỉ giúp cho sự vô trách nhiệm và dửng dưng. Trong những giai đoạn khủng hoảng lớn lao, đòi hỏi phải có những quyết định can đảm, chúng ta lại nghĩ rằng những gì đang xảy ra thì không rõ lắm. Nếu như chúng ta chỉ nhìn các sự vật theo bề ngoài, qua những dấu chỉ khả giác về ô nhiễm và suy thoái, thì có cảm giác là các dấu chỉ này không trầm trọng mấy và hành tinh có thể tồn tại lâu dài dưới những điều kiện hiện nay. Thái độ thoái thác này cho phép chúng ta tiếp tục vẫn giữ được lối sống cũng như thói quen sản xuất và tiêu thụ. Đó là cách con người cho tất cả đều tốt đẹp, nhưng lại gây thêm những gánh nặng tự hũy hoại chính mình : con người cố không nhìn thấy tình trạng đó, không công nhận, không đưa ra những quyết định quan trọng, cứ xem như không có gì quan trọng đang diễn ra.
VII. NHỮNG Ý KIẾN KHÁC BIỆT
60. Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng có nhiều cách nhìn và đường hướng suy tư triển khai để đi đến những cách giải quyết khả thể. Một mặt, nhiều người đại diện kiên định với huyền thoại phát triển và cho rằng, vấn đề môi sinh có thể giải quyết một cách đơn sơ với những chương trình kỹ thuật mới, không màng đến đạo đức và những thay đổi căn bản. Mặt khác, người ta cho rằng, con người chỉ gây thêm tổn hại với sự can thiệp của mình và ảnh hưởng đến hệ thống môi sinh toàn cầu. Vì thế, phải thu hẹp sự hiện diện của con người trên hành tinh này và ngăn cấm mọi thứ can thiệp. Giữa hai thái cực này, phải suy nghĩ đến những kịch bản khả thể trong tương lai, vì không phải chỉ có một cách giải quyết duy nhất. Điều này mở ngõ cho nhiều tranh luận khác nhau, có thể đi đến đối thoại hướng vào những câu trả lời trọn vẹn.
61. Về những vấn nạn cụ thể, trên nguyên tắc, Giáo Hội không có lý do để đề nghị một giải đáp dứt khoát và Giáo Hội hiểu, phải biết lắng nghe, sau đó đề nghị một cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học, nhưng phải luôn tôn trọng các ý kiến khác biệt. Chỉ cần nhìn thực tại cách thành thật để thấy ngôi nhà chung của chúng ta đang bị hủy hoại. Hy vọng mời gọi chúng ta nhận ra, vẫn còn có lối thoát, vẫn luôn có khả năng xác nhận hướng đi cách mới mẽ, vẫn có khả năng làm một điều gì đó để giải quyết vấn đề. Dù vậy, nhiều hiện tượng của một sự gãy đổ do vận tốc thay đổi và hư hoại thật lớn lao đã được nhận ra trong các tai họa thiên nhiên theo từng vùng cũng như khủng hoảng xã hội hay cả về mặt tài chánh, vì vấn đề thế giới không thể nào phân tích hay tách rời cách đơn độc. Nhiều vùng đang gặp nguy hiểm đặc biệt, và không cần nhìn đến những dự đoán các tai họa, cho thấy hệ thống toàn cầu hiện hành dưới nhiều phương diện không còn có thể chấp nhận được nữa, vì chúng ta đã không suy nghĩ đến mục đích hoạt động của con người : “Khi chúng ta nhìn vào nhiều vùng khác nhau trên hành tinh, thật đau buồn để nhận ra rằng, nhân loại đã làm hỏng các sự chờ đợi của Thiên Chúa.” [35]
***
CHƯƠNG II
TIN MỪNG VỀ SỰ SÁNG TẠO
 
62. Tại sao, trong bản văn được gởi đến cho tất cả mọi người có thiện chí, lại có một chương nói về xác tín của niềm tin ? Tôi biết rõ rằng, trong lãnh vực chính trị và suy tư, một số người mạnh mẽ phủ nhận ý tưởng về Đấng Sáng Tạo hay xem đó là không quan trọng, hay chỉ được xem là phong phú cho các tôn giáo khi nói về môi sinh cách trọn vẹn và một sự phát triển nhân loại mà thôi. Trong những trường hợp khác, người ta xem các tôn giáo chỉ là một thứ văn hóa thấp kém (subkultur – sous-culture), tạm chấp nhận. Thêm nữa, khoa học và tôn giáo đưa ra những tiếp cận rất khác biệt về thực tại, có thể bước vào một cuộc đối thoại năng động và hữu ích cho cả hai phía.
I. ÁNH SÁNG DO NIỀM TIN MANG ĐẾN
63. Khi chú tâm vào sự đa dạng của cơn khủng hoảng môi trường và các nguyên nhân muôn mặt của nó, chúng ta phải công nhận, các giải pháp không thể đến từ một con đường duy nhất do việc giải thích thực tại và thay đổi chúng. Cần phải có sự hỗ trợ của nhiều văn hóa phong phú, nghệ thuật và thi ca của các dân tộc về cuộc sống nội tại và cả tinh thần, Nếu chúng ta thật sự muốn gầy dựng một môi trường sinh thái, tái lập lại những gì chúng ta đã hủy hoại, thì không được phép bỏ qua những ngành khoa học và các hình thức khôn ngoan, ngay cả tôn giáo cũng như ngôn ngữ tôn giáo. Về mặt này, Giáo Hội Công Giáo đã mở ra những cuộc đối thoại với các tư tưởng triết học, nhờ đó đã đưa đến các tổng hợp khác nhau giữa lý trí và niềm tin. Những gì đụng chạm đến vấn đề xã hội, cũng có thể tìm thấy trong quá trình phát triển Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội; giáo huấn này luôn mời gọi phải luôn được làm phong phú dựa vào những đòi hỏi mới mẻ.
64. Mặt khác, dù thông điệp này khai mở một cuộc đối thoại với tất cả mọi người để cùng nhau tìm con đường giải thoát chung – ngay từ đầu, tôi xin đưa ra những xác tín của niềm tin cho các Kitô hữu và phần đông những người tin thuộc các tôn giáo khác, những động lực quan trọng để chăm sóc thiên nhiên và các anh chị em yếu đuối nhất. Duy chỉ sự kiện làm người, cũng thúc đẩy con người phải chăm sóc thiên nhiên mà chúng ta là thành phần của chúng, “đặc biệt, các Kitô hữu […] biết rõ rằng bổn phận của họ ở giữa thiên nhiên và trách nhiệm của họ đối với thiên nhiên và với Đấng Sáng Tạo là thành phần căn bản cho niềm tin của họ”[36]. Vì thế, một điều tốt lành cho nhân loại và cho thế giới là chúng ta, những kẻ tin, biết rõ những việc dấn thân cho môi sinh phải xuất phát từ xác tín của chúng ta.
II. SỰ KHÔN NGOAN CỦA CÁC TRÌNH THUẬT TRONG THÁNH KINH
65. Không cần phải lập lại toàn bộ thần học Sáng Tạo, chúng ta tự hỏi các trình thuật lớn của Thánh Kinh nói gì về liên hệ của con người với thế giới. Trong trình thuật đầu tiên về công trình sáng tạo trong sách Sáng Thế, chương trình của Thiên Chúa được gói trọn trong việc sáng tạo con người. Sau việc sáng tạo con người, Sách Thánh nói : “Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những gì Người sáng tạo : Người thấy thế là tốt “ (St 1,31). Thánh Kinh dạy, mỗi con người đều được sáng tạo từ tình yêu, như hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (x. St 1,26). Lời công bố này cho chúng ta thấy phẩm giá lớn lao của từng con người : “Con người không phải là sự vật, nhưng là một người nào đó. Con người có khả năng nhận thức về mình, làm chủ mình, tự do để ban phát và bước vào liên hệ với những người khác” [37]. Vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nhắc nhớ rằng, tình yêu hoàn toàn đặc biệt mà Đấng Sáng Tạo dành cho từng con người, đã trao cho họ phẩm giá cao sang vô cùng [38]. Những ai muốn bảo vệ phẩm giá con người, có thể tìm được trong niềm tin Kitô giáo những lý luận sâu xa nhất cho trách nhiệm này. Một sự chắc chắn tuyệt vời khi không đánh mất đời sống một con người bị rơi vào sự lộn xộn vô vọng, trong một thế giới phải bước đi trong sự tình cơ thuần túy hay những chu kỳ, cứ đáo đi đáo lại thật vô nghĩa. Đấng Sáng Tạo có thể nói với từng người trong chúng ta : “Trước khi tạo hình dáng cho ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Chúng ta đã được nhận ra trong tình yêu của Thiên Chúa, và vì thế : “Mỗi người là hoa trái một suy tư của Thiên Chúa. Mỗi người được Thiên Chúa muốn như thế, mỗi người được yêu và mỗi người thật cần thiết.” [39].
66. Trình thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế, trong ngôn ngữ biểu trưng và trình thuật, chứa đựng những lời giảng dạy sâu xa về hiện sinh con người và thực tại lịch sử của họ. Trình thuật này muốn nói, hiện sinh con người dựa trên ba sự liên hệ căn bản, liên kết với nhau thật mật thiết : liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với trái đất. Theo như lời Thánh Kinh, ba liên hệ sống động này đã bị phá vỡ, không những bên ngoài, nhưng cả nội tại bên trong. Sự đổ vỡ này là tội lỗi. Sự hòa hợp giữa Đấng Sáng Tạo, nhân loại và toàn thể sáng tạo đã bị phá vỡ qua hành động muốn thay thế vị trí của Thiên Chúa, khi từ chối công nhận chúng ta là những thụ tạo hữu hạn. Hành động này đã làm sai lệch mệnh lệnh “cai quản” trái đất (x, St 1, 28) “xây dựng” và “che chở” trái đất (x. St 2,15). Như hậu quả là liên hệ thật hòa hợp thuở ban đầu giữa con người và thiên nhiên bước vào xung khắc (x. St 3, 17-19). Vì lý do đó, thật ý nghĩa khi sự hòa hợp mà thánh Phaxicô chia sẻ với vạn vật, được xem như cách cứu chữa sự đổ vỡ này. Thánh Bonaventura nói, thánh Phaxicô “khi Người sống hòa bình với tất cả thụ tạo” đã đạt được “tình trạng trước nguyên tội” [40]. Bước ra khỏi mẫu gương này, ngày hôm nay, tội lỗi đã xuất hiện với tất cả sự tàn phá trong chiến tranh, trong nhiều hình thức khác nhau của quyền lực và ngược đãi, trong việc bỏ rơi kẻ yếu và tấn công vào thiên nhiên.
67. Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có trước chúng ta và được ban cho chúng ta. Điều này cho phép trả lời một kết án đối với suy nghĩ theo Do Thái giáo và Kitô giáo : Người ta nói rằng, trình thuật sáng thế mời gọi con người “thống trị” trái đất (so St 1,28), việc bóc lột khủng khiếp thiên nhiên qua cách trình bày con người như chủ và tàn phá. Đấy không phải là cách giải thích Thánh Kinh đúng đắn, như Giáo Hội hiểu. Thật sự, đôi khi, những người Kitô hữu chúng tôi giải thích sai Thánh Kinh, nhưng ngày hôm nay chúng tôi phải xác nhận rõ ràng, từ sự kiện được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và với mệnh lệnh cai quản trái đất, từ đó đưa đến quyền thống trị các tạo vật khác. Điều quan trọng, phải đọc Thánh Kinh trong mạch văn của nó, với sự chú giải thích hợp, và phải nhớ rắng, các bản văn này mời chúng ta “canh tác” và “gìn giữ” ngôi vườn của Thiên Chúa (x. St 2,15). Thuật ngữ “canh tác” có nghĩa là trồng trọt, khai hoang hay làm việc, và thuật ngữ “gìn giữ” có nghĩa là bảo vệ, cứu giúp, giữ gìn, chăm sóc, canh chừng. Điều này đưa đến sự liên kết hỗ tương giữa con người và thiên nhiên. Mỗi cộng đoàn được quyền thu nhặt từ trái đất những gì cần thiết để sống, nhưng có trách nhiệm bảo vệ và làm cho sự phì nhiêu được tiếp tục dành cho thế hệ tương lai. Dứt khoát “trái đất thuộc về Thiên Chúa” (Tv 245,1), “trái đất và tất cả những gì sống trên trái đất” (Đnl 10,14) đều thuộc về Người. Vì lý do đó, Thiên Chúa phủ nhận tất cả ý đồ chiếm hữu tuyệt đối : “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23).
68. Trách nhiệm đối với trái đất, một trái đất thuộc về Thiên Chúa, cho thấy con người có lý trí, biết tôn trọng các lề luật của thiên nhiên và sự quân bình tế nhị giữa các hữu thể trong thế giới này, chỉ vì “Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành. Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148, 5b-6). Vì thế, Thánh Kinh trưng ra cho con người nhiều luật lệ khác nhau, không những trong liên hệ với đồng loại, nhưng cả trong liên hệ với các sinh thể khác : “Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy…Nếu trên đường, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con” (Đnl 22,4.6). Trong nhãn quan này, sự nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy không phải chỉ dành cho con người, nhưng cho cả “bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 23, 12). Với cách thức này, chúng ta nhận thấy Thánh Kinh không đưa ra duyên cớ tập trung vào chỉ con người, mà không lo lắng cho các tạo vật khác.
69. Trong khi được phép sử dụng các sự vật một cách có trách nhiệm, chúng ta cũng đồng thời được mời gọi để nhận biết, các sinh vật khác cũng có những giá trị trước mặt Thiên Chúa và “qua sự hiện hữu đơn sơ của mình đã ca tụng và tôn vinh” Người [41], “Chúa vui sướng vì các công trình của Người” (so Tv 104, 31). Chính nhờ vào phẩm giá độc nhất của mình và vì có được lý trí, con người được kêu gọi tôn trọng sáng tạo từ những luật lệ nội tại của chúng, vì “Thiên Chúa đã kiến tạo trái đất với sự khôn ngoan” (Kn 3,19). Ngày nay Giáo Hội không chỉ nói cách đơn sơ, các tạo vật khác hoàn toàn tùy thuộc vào hạnh phúc của con người, gần như chúng không có giá trị gì tự tại và chúng ta có thể sử dụng chúng theo sở thích của chúng ta. Vì thế các vị Giám Mục nước Đức đã dạy về các thụ tạo khác “người ta có thể nói về sự ưu tiên của hữu thể trước khi nói về sự hữu ích của chúng” [42]. Quyển Giáo Lý nói rất rõ một cách trực tiếp và nhấn mạnh về chủ nghĩa qui nhân (Anthropozentrismus – anthropocentrisme) : “Mỗi tạo vật đều có sự thiện và toàn vẹn riêng của mình […] Các thụ tạo khác nhau phản ánh ngay trong sự hiện hữu riêng mình như Thiên Chúa muốn, mỗi thứ một cách, ánh quang của sự khôn ngoan vô tận và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Chính vì thế, con người phải tôn trọng bản chất tự nhiên đặc thù của chúng để tránh sử dụng chúng một cách vô trật tự” [43].
70. Trong trình thuật về Cain và Abel, chúng ta thấy sự ganh tị của Cain dẫn đến việc đối xử quá bất công với chính em mình. Điều này đưa đến một sự đổ vỡ liên hệ giữa Cain và Thiên Chúa, giữa Cain và mãnh đất anh ta bị xua đuổi ra bên ngoài.. Đoạn văn này được tóm kết trong cuộc đối thoại của Cain và Thiên Chúa. Thiên Chúa hỏi : “Em ngươi đâu ?” Cain trả lời, “tôi không biết”, Thiên Chúa nhấn mạnh : “Ngươi đã làm gì vậy ? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa và bị đuổi ra khỏi đất màu mỡ” (St 4, 9-11). Sự chểnh mãng trong trách nhiệm canh tác và gìn giữ một liên hệ tương ứng với người chung quanh, tôi phải lo lắng cho người đó và phải che chở cho họ; sự chểnh mãng đó sẽ phá vỡ liên hệ nội tại với chính tôi, với kẻ khác, với Thiên Chúa và với đất đai. Khi các liên hệ này bị bỏ quên, khi không còn công bằng tồn tại trên đất nước, thì – như Thánh Kinh nói với chúng ta – toàn bộ cuộc sống sẽ gặp nguy hiểm. Đó là điều mà trình thuật về Noe muốn dạy chúng ta, khi Thiên Chúa hăm dọa, sẽ tiêu diệt nhân loại vì luôn bất lực trong việc thực thi những đòi buộc về công bằng và hòa bình : “Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực” (St 6, 13). Trong biểu trưng xa xưa nhưng sâu sắc của trình thuật chứa đựng một xác tín cho ngày nay : tất cả đều liên kết với nhau và việc che chở đích thực cho cuộc sống riêng tư của chúng ta cũng như mọi liên hệ của chúng ta với thiên nhiên không thể bị tách ra khỏi tình huynh đệ, sự công bằng cũng như sự trung tín với kẻ khác.
71. Cho dù “sự gian ác của con người quả là nhiều” (St 6,5) và “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 6,6), Người đã quyết định mở một con đường cứu độ nhờ Noe, người vẫn kiên vững trong sự công chính và hoàn hảo. Như thế, Người ban cho nhân loại khả năng đón nhận một khởi đầu mới : chỉ cần một người công chính là đủ, để hy vọng không bị chôn vùi. Trình thuật Thánh Kinh ghi lại rõ ràng, việc tái thiết gắn liền với việc tái khám phá và chú trọng đến các chu kỳ được chính bàn tay Thiên Chúa ghi khắc. Tỉ như luật ngày Sabbat. Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa ngưng tất cả mọi công trình của Người. Thiên Chúa ra lệnh cho Israel mỗi ngày thứ bảy phải là ngày nghỉ, là ngày Sabbat (x.St 2, 2-3 ; Xh 16, 23 ; 20, 10). Ngoài ra mỗi bảy năm phải là năm Sabbat cho Israel và cho cả đất đai (x. Lv 25, 1-4), trong năm đó người ta phải để cho đất đai hoàn toàn ngưng nghỉ; không đươc phép gieo cấy, chỉ thu hoạch những gì cần thiết để sống và dành cho việc tiếp khách (x. Lv 25, 4-6). Và cuối cùng, sau bảy tuần năm, nghĩa là sau bốn mươi chín năm, sẽ cử hành Năm Thánh, năm tha thứ tất cả và là năm “tự do cho toàn thể dân trong đất nước” (Lv 25,10). Việc triển khai lề luật này tìm cách bảo đảm cho sự bình đẳng và công bằng trong mọi liên lạc giữa người đồng loại và với đất đai, nơi họ sống và lao động. Đồng thời công nhận: quà tặng của đất đai, cũng như hoa trái của nó, thuộc về toàn dân. Ai canh tác và gìn giữ đất đai phải chia sẻ hoa màu, đặc biệt là cho người nghèo, các bà góa, trẻ mồ côi và khách lạ : “Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt tới sát bờ ruộng ; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19, 9-10).
72. Các Thánh Vịnh thường mời gọi con người ta tụng Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo., “Đấng trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,6). Các Thánh vịnh cũng mời gọi mọi tạo vật khác ca tụng Thiên Chúa : “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng Thánh Danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148, 3-5). Chúng ta hiện hữu không chỉ nhờ quyền năng Thiên Chúa, nhưng trước mặt Người và gần gủi Người. Vì thế chúng ta thờ lạy Người.
73. Tác phẩm của các ngôn sứ cũng mời gọi chúng ta, tìm được sức mạnh trong những giây phút gặp khó khăn, khi người ta chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành vũ trụ. Quyền lực vô biên của Thiên Chúa không đưa chúng ta trốn chạy trước tình phụ tử nhân ái của Người, vì trong Người việc chăm sóc từ ái và sức mạnh hòa quyện với nhau. Thật vậy, mỗi linh đạo thánh thiện cho thấy rõ cùng lúc đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và tin tưởng thờ lạy Thiên Chúa vì quyền năng vô biên của Người. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa, Đấng giải thoát và cứu độ, cũng là Đấng sáng tạo vũ trụ, và hai cách hoạt động của Thiên Chúa liên kết với nhau thật chặt chẽ : “Lạy Đức Chúa, Chúa Thượng của con ! này Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức mạnh vĩ đại và cách tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được ! […], Ngài dã dùng dấu lạ điềm thiêng, đã giương bàn tay mạnh mẽ và cánh tay uy quyền… mà đưa dân Ngài là Israel ra khỏi Ai Cập” (Gr 32, 17.21). “Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người không dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng.” (Is 40, 28b-29).
74. Kinh nghiệm cuộc lưu đày ở Babylon đưa đến cuộc khủng hoảng tinh thần mà chỉ có việc đào sâu niềm tin vào Thiên Chúa mới có thể giải quyết được, khi làm rõ nét quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa để động viên dân chúng tìm lại hy vọng trong hoàn cảnh bi đát của họ. Nhiều thế kỷ sau, trong một thời đoạn thử thách và bị bách hại, khi đế quốc La Mã tìm cách thiết đặt sự thống trị tuyệt đối của họ, các tín hữu tìm lại được sự an ủi và hy vọng lớn dần trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, và họ đã ca hát : “Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, sự nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu ! Lạy Đức Vua trị vì muôn nước, đường lối Ngài quả chân thật công minh” (Kh 15,3). Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ từ hư không, thì Người cũng có thể can thiệp vào thế giới này và chiến thắng sự dữ dưới mọi hình thức. Vì thế, sự bất công không thể nào là không thắng được.
75. Chúng ta không thể có một thứ linh đạo lại quên Thiên Chúa toàn năng và là Đấng sáng tạo. Nếu không, cuối cùng chúng ta cũng sẽ tôn thờ các quyền lực khác trong thế giới, hay chính chúng ta tự đặt mình vào vị trí của Chúa và cho rằng, chúng ta có thể đặt tất cả thực tại do Người sáng tạo dưới chân mình. Cách thức tốt đẹp để đưa con người vào vị trí của mình và chấm dứt việc đòi hỏi quyền làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, chỉ bằng cách đưa ra hình ảnh của một người Cha, Đấng sáng tạo và chủ duy nhất của thế giới này. Nếu theo cách khác thì con người luôn có xu hướng đặt tất cả thực tại nằm dưới luật lệ và lợi ích của mình.
III. MẦU NHIỆM CỦA VŨ TRỤ
76. Đối với truyền thống Do Thái-Kitô giáo, nói về sáng tạo còn mang nhiều ý nghĩa hơn là nói về thiên nhiên, vì nó còn có một liên hệ với dự định tình yêu của Thiên Chúa, trong đó mỗi tạo vật đều có giá trị và ý nghĩa riêng của mình. Thiên nhiên thường được hiểu như một hệ thống, mà người ta có thể phân tách, tìm hiểu và can thiệp vào, thế nhưng sáng tạo phải được hiểu như một quà tặng đến từ bàn tay rộng mở của Người Cha mọi người, như thực tại được tình yêu chiếu sáng, mời gọi chúng ta bước vào một sự hiệp thông bao trùm tất cả.
77. “Các tầng trời được tạo dựng từ một lời của Thiên Chúa” (Tv 33,6). Câu này cho chúng ta thấy, thế giới xuất hiện do một quyết định chứ không từ sự lộn xộn hay hậu quả tình cờ, và điều này mang đến cho thế giới nhiều phẩm chất. Có một quyết định tự do, nằm trong lời sáng tạo. Vũ trụ không xuất phát từ hiệu quả của một quyền lực độc đoán, một sự tỏ lộ quyền lực hay ý muốn tự xác định mình. Sáng tạo nằm trong trật tự tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là lý do nền tảng của toàn thể sáng tạo : “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11, 24). Mỗi tạo vật đều là đối tượng lòng ưu ái của Cha, Đấng ban cho nó một vị trí trong thế giới. Ngay cả đời sống chóng qua của hữu thể không ý nghĩa gì cũng là đối tượng của tình yêu, và trong một ít thời gian hiện hữu nó cũng nhận được lòng ưu ái của Người. Thánh Basilius Cả nói, “Đấng Sáng Tạo là Tình Yêu vô bờ bến”[44], và Dante Alighieri nói về “tình yêu chuyển động mặt trời và các ngôi sao”. Vì thế từ những công trình đã được tạo dựng, người ta hướng đến “lòng thương xót của Người tràn đầy tình yêu”[46].
78. Đồng thời, suy tư Do Thái-Kitô giáo cũng loại thiên nhiên ra khỏi huyền thoại. Dù không ngừng chiêm ngắm thiên nhiên vì sự huy hoàng và miên man của nó, nhưng tư tưởng trên đã không gán cho thiên nhiên một đặc tính thần thánh nào. Từ cách thức này, việc dấn thân của chúng ta với thiên nhiên lại còn được nhấn mạnh. Việc quay về với thiên nhiên không được diễn ra với cái giá phải trả là sự tự do và trách nhiệm của con người, vì con người cũng là một thành phần của thế giới với trách nhiệm canh tác theo khả năng của mình để che chở và phát triển những khả thể của nó. Nếu chúng ta biết được giá trị và sự mỏng manh của thiên nhiên và đồng thời những khả năng mà Đấng Tạo Hóa đã trao ban cho chúng, điều này cho phép chúng ta ngày nay chấm dứt với huyền thoại tân tiến về phát triển vật chất không giới hạn. Một thế giới dễ đổ vỡ với một con người mà Thiên Chúa đã trao cho việc chăm sóc, đòi hỏi lý trí của chúng ta nhận ra việc định hướng, canh tác và giới hạn quyền lực của chúng ta.
79. Trong vũ trụ này, được tạo lập do các hệ thống mở rộng để liên kết với nhau, chúng ta có thể khám phá ra không biết bao nhiêu hình thức liên hệ và chia sẻ. Điều này đưa chúng ta đến tư tưởng, toàn thể khai mở vì sự siêu vượt của Thiên Chúa, trong đó vũ trụ sẽ được triển khai. Niềm tin giúp chúng ta giải thích ý nghĩa và vẻ đẹp mầu nhiệm của những gì đang xuất hiện. Sự tự do của con người có thể đem đến một sự nâng đỡ khôn ngoan cho một sự phát triển tích cực, nhưng cũng có thể gây nên một điều xấu mới, những nguyên nhân của khổ đau và suy thoái đích thực. Điều này đã xuất hiện trong lịch sử căng thẳng và bi đát của loài người, có thể diễn ra trong việc phát triển sự tự do, trưởng thành, cứu độ và tình yêu hay trên một con đường suy thoái và hủy hoại lẫn nhau. Vì thế, trách nhiệm của Giáo Hội, không những nhắc nhớ đến trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên, nhưng “nhất là bảo vệ con người tránh việc tự hủy hoại”[47].
80. Dù vậy, Thiên Chúa, Đấng luôn cộng tác với chúng ta và tin tưởng vào sự cộng tác của chúng ta, Người có thể rút vài điều tốt lành từ điều xấu chúng ta đã phạm, vì “Chúa Thánh Thần luôn có một sự tưởng tượng vô ngần, đặc thù cho tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng biết giải quyết những khó khăn của số phận con người, ngay cả lúc khó khăn và không thể thâm nhập được” [48]. Người phải tự hạn hẹp chính mình khi sáng tạo ra một thế giới cần có sự phát triển, nơi nhiều sự vật mà chúng ta coi là xấu, nguy hiểm hay là nguồn khổ đau, trong thực tế chỉ là một phần của “sự chuyển dạ” thúc giục chúng ta cộng tác với Đấng Tạo Hóa. [49]. Người hiện diện trong thâm sâu vạn vật, không tạo khó khăn cho sự độc lập của thụ tạo mà còn đem đến cho sự độc lập hợp lý của thụ tạo [50]. Sự hiện diện này của Thiên Chúa đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển mọi hữu thể, “đó chính là sự tiếp tục hành động sáng tạo của Người” [51]. Thần Khí Thiên Chúa bao trùm vũ trụ với quyền năng tác động, cho phép điều gì mới mẽ có thể xuất hiện.”Thiên nhiên không gì khác hơn lý trí của một nghệ thuật rõ ràng, cụ thể; nghệ thuật đó của Thiên Chúa ghi nét trong từng thụ tạo và nhờ đó mọi vật sẽ chuyển động đến cùng đích đã được xác định : cũng như người làm tàu sử dụng gỗ theo ý muốn của mình để định hình chiếc tàu.”[52].
81. Cho dù con người giả thiết tiến trình phát triển, sẽ đưa ra một cái gì mới mà trong quá trình phát triển của các hệ thống khác không thể giải thích được. Mỗi người chúng ta đều có một căn cước cá nhân, có thể đối thoại với kẻ khác và với Thiên Chúa. Khả năng suy tư, lý luận, sáng tạo, chú giải và sáng tác nghệ thuật cũng như các khả năng khác, những khả năng hoàn toàn mới cho thấy tính đặc biệt, vượt trên lãnh vực thể lý và sinh học. Tính chất mới mẽ trong phẩm chất, cho thấy một hữu thể trong vũ trụ vật chất vượt trổi thành một nhân vị, cho thấy một hành động trực tiếp của Thiên Chúa đi trước, một tiếng gọi đặc biệt đưa vào cuộc sống và vào một liên hệ với một Đấng đối diện như một người đối diện (in die Beziehung eines Du zu einem anderen Du – à la relation d’un Tu avec un autre tu). Từ các trình thuật của Thánh Kinh, chúng ta nhận thấy con người là một chủ thể, không bao giờ bị đặt vào phạm trù đối tượng được.
82. Những suy nghĩ sẽ sai lầm, khi cho các hữu sinh khác như các đổi tượng, phải tùng phục quyền hành tùy tiện của con người. Khi con người nhìn thiên nhiên như là đối tượng lợi dụng, sẽ đưa đến những hệ lụy quan trọng cho xã hội. Cái nhìn tùy tiện của kẻ mạnh, sẽ tạo nên không biết bao nhiêu sự bất bình đẳng, không công bằng và bạo quyền trên phần đông loài người, vì những tài nguyên sẽ dần rơi vào tay những người nắm quyền hành : kẻ chiến thắng sẽ nắm lấy tất cả : lý tưởng về hòa hợp, công bằng, tình huynh đệ và hòa bình như Đức Giêsu đòi hỏi, sẽ nghịch lại với mẫu này; người nắm quyền sẽ bốc lột con người trong thời đại của mình : “Anh em biết : thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy : Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20, 25-26).
83. Mục đích của chuyển động vũ trụ nằm trong sự phong phú của Thiên Chúa, đạt được qua Đấng Kitô phục sinh – điểm mấu chốt tiến trình trưởng thành của vũ trụ [53]. Chúng ta cũng đưa thêm một lý luận để phủ nhận quyền chuyên chế và vô trách của con người trên các thụ tạo khác. Mục đích cuối cùng của những tạo vật khác không phải là chúng ta. Nhưng chúng cùng đồng hành với chúng ta và qua chúng ta cùng tiến về một mục đích chung là chính Thiên Chúa, trong một sự tràn đầy siêu vượt, nơi Đấng Kitô phục sinh ôm lấy và chiếu sáng cho tất cả. Vì con người, dù được ban cho lý trí và tình yêu, cũng được lôi kéo vào sự phong phú của Đức Kitô, được kêu gọi để tất cả thụ tạo trở về với Đấng Sáng Tạo của mình.
IV. TIN MỪNG CỦA TỪNG THỤ TẠO TRONG SỰ HÒA HỢP VỚI TOÀN THỂ SÁNG TẠO
84. Khi nhấn mạnh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta không được quên rằng mỗi thụ tạo đều có một phận vụ và không có điều gì dư thừa. Toàn bộ vũ trụ vật chất là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa, sự âu yếm vô tận của Người đối với chúng ta. Đất đai, nguồn nước, núi non – tất cả đều là sự âu yếm của Thiên Chúa. Lịch sử tình thân với Thiên Chúa đều diễn ra trong một khoảng không gian địa lý, trở thành một dấu chứng hoàn toàn cá nhân và mỗi người trong chúng ta sẽ gìn giữ trong ký ức của mình các vị trí, mà khi nhớ lại sẽ đem đến những gì tốt đẹp. Ai đã lớn lên trong vùng núi, hay khi còn bé đã cố uống nước trong dòng suối, hay ai đã chơi trong một khu giữa thành phố, khi trở về chốn cũ, sẽ tìm lại được căn tính của mình.
85. Thiên Chúa đã viết quyển sách quí giá, mà “những dòng chữ được trình bày bằng những tạo vật trong vũ trụ” [54]. Các Giám Mục Canada đã phát biểu thật đúng đắn, không có thụ tạo nào lại không có những phát biểu tự nơi mình về Thiên Chúa : “Từ cái nhìn toàn cảnh rộng lớn cho đến một hình thức sống nhỏ bé nhất, thiên nhiên vẫn luôn là nguồn để con người kinh ngạc và thán phục. Thiên nhiên vẫn là mạc khải tiếp nối về thiên tính” [55]. Các giám mục nước Nhật cũng phát biểu những tư tưởng rất gợi cảm : “Thật vậy, mỗi thụ tạo sẽ hát lên bài thánh ca về sự hiện hữu của chúng, sẽ giúp chúng ta vui sống trong tình yêu Thiên Chúa và hy vọng” [56]. Việc chiêm ngắm thiên nhiên sẽ giúp chúng ta khám phá qua mỗi vật một lời giảng dạy mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, vì “việc chiêm ngắm sáng tạo đối với các tín hữu cũng có nghĩa là lắng nghe một Tin vui, một tiếng nói nghịch lý và thinh lặng” [57]. Vì thế chúng ta có thể nói : “Cận kề các mạc khải đích thực chứa đựng trong Thánh Kinh, vẫn có một biểu lộ thần linh trong mặt trời chiếu sáng cũng như lúc chiều rơi” [58]. Khi con người chú tâm đến biểu lộ này, sẽ học được cách nhận ra chính mình trong liên hệ với các thụ tạo khác : “Ta diễn tả chính Ta khi đem thế giới đến như dấu ấn ; Ta sẽ biểu dương thiên tính của Ta khi khai mở thiên tính của vũ trụ”. [59]
86. Toàn thể vũ trụ với những liên hệ đa dạng của nó, cho thấy sự phong phú của Thiên Chúa một cách tốt đẹp nhất. Thánh Tôma thành Aquinô với sự khôn ngoan của mình, cho thấy rằng sự phong phú và đa dạng đều “xuất phát từ ý định của Tác Nhân tiên khởi, Đấng muốn rắng “điều gì thiếu sót nơi thụ tạo để trình bày sự nhân từ thần linh, sẽ được bổ túc bằng thụ tạo khác”[60]. Chỉ vì sự tốt lành của Người “không thể do một thụ tạo có thể trình bày cách đầy đủ được” [61]. Vì thế, chúng ta phải nắm vững sự khác biệt của các thụ tạo trong liên hệ đa dạng của chúng” [62]. Người ta có thể hiểu sự quan trọng và ý nghĩa của từng thụ tạo tốt hơn, khi nhìn vào toàn thể trong chương trình của Thiên Chúa. Sách Giáo lý dạy : “Sự liên hệ lẫn nhau của các thụ tạo là do ý muốn của Thiên Chúa. Mặt trời và mặt trăng, cây sến và bông hoa ngoài đồng, phượng hoàng và chim se sẻ – cảnh thiên hình vạn trạng và không đồng đều nói lên rằng không thụ tạo nào được đầy đủ nơi bản thân mình, chúng chỉ hiện hữu trong sự lệ thuộc lẫn nhau, để bổ túc cho nhau trong việc phục vụ lẫn nhau” [63].
87. Nếu chúng ta ý thức, tất cả những gì hiện hữu đều phản ánh Thiên Chúa, chúng ta sẽ thay cho tất cả thụ tạo và cùng với chúng tôn thờ Thiên Chúa, điều này được nổi bật trong bài thánh ca tuyệt vời của thánh Phanxicô thành Assisi :
3 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo,
đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,
4 Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
5 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao
Chúa dựng trên nền trời:
lung linh, cao quí và diễm lệ.
6 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.
7 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước,
thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.
8 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa,
nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi,
oai hùng và mạnh mẽ. [64 – trích trong ofmvn.org]
88. Các giám mục Brasil nhấn mạnh: toàn thể vạn vật không những tuyên xưng Thiên Chúa, nhưng cũng là nơi nói lên sự hiện diện của Người. Trong mỗi thụ tạo chứa chất Thần Khí sống động của Người, Đấng giúp chúng ta liên kết với Người [65]. Việc khám phá sự hiện diện này động viên chúng ta phát triển “những nhân đức thuộc môi sinh” (õkologischen tugenden – vertus écologiques” [66]. Khi nói lên điều này, chúng ta đừng quên có một khoảng cách vô hạn giữa thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa, và vạn vật không thể nào chứa đựng hết sự sung mãn của Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta không làm gì tốt đẹp cho thụ tạo, vì chúng ta không nhận ra vị trí đặc thù và đích thực của chúng và cuối cùng cũng là bất công khi mong chờ những gì mà trong sự nhỏ nhoi của chúng có thể đem lại cho chúng ta.
V. MỘT CỘNG ĐỒNG TOÀN CẦU
89. Các thụ tạo trong thế giới này không thể nào được xem như một điều thiện hảo mà không có chủ : “Lạy Chúa, tất cả đều là gia tài của Ngài, Ngài là niềm vui của cuộc đời” (so Kn 11,26). Từ đó, đưa đến xác tín tất cả thụ tạo trong vũ trụ đều do một Cha sáng tạo, nên đã liên kết với nhau bằng một liên hệ vô hình và chúng ta, một cách nào đó. cùng với các thụ tạo thành một gia đình, một cộng đoàn cao thượng thúc đẳy chúng ta đi đến một sự tôn trọng mang sắc thái linh thiêng, yêu thương và khiêm tốn. Tôi muốn nhắc rằng : “Thiên Chúa nối kết chúng ta thật mật thiết với thế giới quanh ta, đến độ việc hoang hóa mặt đất thì cũng như một bênh tật đối với từng người, và chúng ta […] phải khóc than trước việc thất thoát một loài, như thể một việc chia cắt thân thể.” [67]
90. Điều này không có nghĩa là, mọi thứ hữu sinh đều như nhau và có một giá trị đặc biệt đối với con người, đòi buộc con người phải chịu trách nhiệm lớn lao. Điều này cũng giảm bớt việc thần hóa trái đất, giảm bớt mệnh lệnh cùng lao động với chúng và bảo vệ sự mong manh của chúng. Những quan niệm này cuối cùng tạo ra những liên hệ lệch lạc mới để thoát khỏi thực tế đang mời gọi chúng ta. [68]. Đôi khi người ta nhận ra một định kiến phủ nhận quyền ưu tiên của con người, và đưa đến một cuộc tranh chấp với các loài khác mà chúng ta không dấn thân để bảo vệ phẩm giá ngang tầm giữa con người. Thật vậy, chúng ta phải lo lắng để các hữu sinh khác không bị đối xử một cách vô trách nhiệm. Nhưng những sự bất bình đẳng lớn lao hiện diện giữa chúng ta làm chúng ta phẩn nộ, nếu như chúng ta cứ để cho một số người cho mình có phẩm giá cao hơn các kẻ khác. Chúng ta sẽ không còn nhìn thấy, một số người chết gí trong sự nghèo khổ, không có khả năng để thoát ra, trong khi những kẻ khác không biết làm gì với của cải của mình, kiêu hãnh vì vị trí trên trước của mình, để lại đàng sau lưng một lượng phung phí không đếm xuể, có thể tàn phá cả hành tinh này. Chúng ta tiếp tục chấp nhận thực hành, như một số cảm thấy mình nhiều nhân bản hơn những kẻ khác, làm như họ được sinh ra với những quyền lợi lớn lao.
91. Cảm nghiệm về một sự liên kết mật thiết với những hữu thể khác trong thiên nhiên sẽ không đích thực, nếu như đồng thời trong thâm tâm của chúng ta không có sự trìu mến, cảm thông và một sự lo lắng cho con người. Sự rời rạc của người chiến đấu chống lại sự tiêu diệt các con thú bị hăm dọa, nhưng vẫn dửng dưng trước hành động của con người, không chú ý đến kẻ nghèo hay tìm cách triệt hạ một người mà họ không thích, sự rời rạc này sẽ bộc lộ rõ ràng. Điều này sẽ làm ý nghĩa của sự chiến đấu cho môi trường gặp nguy hiểm. Không phải tình cờ mà thánh Phanxicô đã ca tụng Thiên Chúa trong bài thánh ca của mình vì các tạo vật; ngài đã thêm vào : “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của con, vì những ai tha thứ vì tình yêu của Ngài”. Tất cả đều liên kết với nhau. Vì thế một sự chăm sóc môi trường đòi buộc một tình yêu chân thành đối với con người và một sự dấn thân kiên vững đối với những vấn đề xã hội.
92. Mặt khác, khi trái tim đích thực mở ra cho cả cộng đoàn toàn cầu, sẽ không có gì và cũng không có ai bị loại ra khỏi tình huynh đệ. Vì thế, sự dửng dưng hay độc ác đối với các tạo vật khác trong thế giới, cuối cùng rồi cũng theo cách đó chúng ta sẽ đối xử với những người khác. Trái tim chỉ có một, và cùng sự đau xót khi chúng ta hành hạ một con vật, thì cũng sẽ bộc lộ trong cách đối xử của chúng ta với những người khác. Mọi thứ độc ác đối với bất cứ thụ tạo nào “đều nghịch lại với phẩm giá con người” [69]. Chúng ta đừng cho chúng ta yêu nhiều, nếu chúng ta vì lợi ích của chúng ta đã loại một phần nào thực tại. “Bình an, công bằng và bảo quản sáng tạo là ba đề tài tuyệt đối liên kết với nhau, không thể tách biệt và nếu chỉ trình bày từng phần có thể lại rơi vào chủ thuyết đúc kết mới (Reduktionismus) [70]. Tất cả đều liên kết với nhau, và tất cả mọi người đều là anh em, chị em với nhau trong một cuộc hành trình tuyệt diệu, được tình yêu của Thiên Chúa nối kết vào nhau, tình yêu mà Thiên Chúa đem đến cho từng thụ tạo và nối kết chúng ta trong một tình yêu dịu dàng với “anh mặt trời”, “chị mặt trăng”, chị sông suối và bà mẹ trái đất.
VI. VIỆC XÁC ĐỊNH CHUNG CÁC CỦA CẢI
93. Ngày hôm nay, người tin cũng như kẻ không tin đều nhất trí cho rằng trái đất tất yếu là gia sản chung, hoa lợi của trái đất phải dành cho mọi người. Đối với người tín hữu điều này trở thành câu hỏi về sự trung tín đối với Đấng Sáng Tạo, chỉ vì Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới này cho tất cả mọi người. Vì thế, tất cả mọi sự tiếp cận về môi trường phải được hội nhập vào viễn cảnh xã hội, viễn cảnh này phải chú ý đến quyền lợi căn bản của những người thật bất lợi. Nguyên tắc lệ thuộc của tài sản cá nhân dựa vào xác định chung về tài sản và từ đó luật lệ toàn cầu về việc sử dụng là “luật vàng” cho sự liên hệ xã hội và là “nguyên tắc đầu tiên cho trật tự toàn xã hội”[71]. Truyền thống Kitô giáo không bao giờ công nhận quyền tài sản cá nhân là tuyệt đối và không thể đụng chạm tới và phận vụ xã hội nhấn mạnh đến mọi hình thức của tài sản cá nhân. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nhắc nhớ một cách mạnh mẽ giáo lý này khi xác định rằng : “Thiên Chúa đã tặng cho toàn thể nhân loại trái đất này để trái đất có thể nuôi sống tất cả, không loại trừ ai và cũng không ưu tiên cho ai”[72]. Đó là những lời có nội dung thật cô đọng và mạnh mẽ. Ngài nhấn mạnh “một mẫu phát triển mà không tôn trọng và động viên quyền con người, cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm các quyền của các quốc gia và dân tộc, sẽ không xứng đáng với con người” [73]. Một cách rõ ràng hơn, Ngài giải thích rằng : “Chắc chắn, Giáo hội bảo vệ quyền tư hữu, nhưng cũng dạy rõ ràng rằng, mỗi tài sản cá nhân phải dựa vào “một giả thuyết xã hội”, để có thể phục vụ cho xác định chung mà Thiên Chúa muốn ban cho họ” [74]. Và Ngài nhấn mạnh : “Đây không phải là ý muốn của Thiên Chúa để quản lý quà tặng này theo cách chỉ làm lợi cho một số người” [75]. Điều này sẽ đặt ra câu hỏi về những thói quen bất công của một số người trên thế giới. [76].
94. Người giàu cũng như người nghèo đều có cùng một phẩm giá,vì “Chúa đã dựng nên tất cả” (Cn 22,2), “Người đã dựng nên lớn cũng như nhỏ” (Kn 6,7) và “đã để mặt trời chiếu soi trên người lành cũng như kẻ dữ” (Mt 5,45). Hệ quả thực tiển theo như lời của các vị Giám Mục Paraguay trình bày : “Mọi người nông dân đều có quyền tự nhiên một mảnh đất hợp lý, nơi anh ta có thể dựng nơi trú ngụ, làm việc để nuôi sống gia đình và có thể bảo đảm được cuộc sống của mình. Quyền lợi này phải được bảo đảm, để không thể trở thành ảo tưởng, nhưng được áp dụng cụ thể. Điều này có nghĩa là, người nông dân ngoài chứng chỉ sở hữu, còn phải có được các phương tiện như học kỹ thuật, tín dụng, bảo hiểm và thương phẩm” [77].
95. Môi trường là điều thiện hảo chung, gia tài của toàn thể nhân loại và một trách nhiệm chung cho mọi người. Nếu một người chiếm hữu một điều gì đó, thì phải quản lý vì ích lợi cho mọi người. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ làm khổ lương tâm của chúng ta vì phủ nhận sự hiện sinh của những người khác. Vì thế, các vị Giám Mục của Tân Tây Lan tự hỏi giới luật “chớ giết người” có nghĩa gì, khi “ hai mươi phần trăm dân số địa cầu sử dụng các tài nguyên với một mức độ phải cướp đi từ những nước nghèo và cả những thế hệ tương lai, những gì cần thiết để tồn tại.” [78]
VII. CÁI NHÌN CỦA ĐỨC GIÊSU
96. Đức Giêsu lấy lại niềm tin Thánh Kinh về Thiên Chúa Sáng Tạo và nhấn mạnh điều căn bản : Thiên Chúa là Cha (so Mt 11, 25). Khi đối thoại với các môn đệ, Đức Giêsu mời gọi họ nhận thực liên hệ phụ tử mà Người đã ban cho tất cả thụ tạo, và nhắc nhớ họ với một sự âu yếm thật cảm động, mỗi thụ tạo rất quan trọng trong mắt Người : “ Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 6). “Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không tích thu vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6, 26).
97. Chúa cũng có thể kêu mời những kẻ khác chăm sóc vẻ đẹp trong thế giới, chỉ vì Người luôn liên hệ với thiên nhiên và luôn chú tâm với một tình yêu và sự kinh ngạc. Khi Người đi qua một mảnh đất, Người dừng lại để chiêm ngắm vẻ đẹp mà Cha Người ra tung rải khắp nơi, và mời các môn đệ nhận ra sứ điệp của Thiên Chúa trong vạn vật : “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái” (Ga 4,35). “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loài nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành một cây.” (Mt 13, 31-32).
98. Đức Giêsu sống hòa hợp trọn vẹn với sáng tạo, và mọi kẻ khác đều ngạc nhiên : “Ông này là người thế nào mà cả gió và biển cũng tuân lệnh ?” (Mt 8,27). Người không xuất hiện như một ẩn tu xa lìa thế giới hay thù ghét những gì thích hợp cho cuộc sống. Người nói về chính mình : “Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : “Đây là tay ăn nhậu” (Mt 11, 19). Người tách khỏi các triết thuyết khinh rẻ thân xác, vật chất và mọi thứ ở trần gian. Dù vậy, các thuyết Nhị Nguyên vô bổ trong dòng lịch sử đã ảnh hưởng nhiều trên một số nhà tư tưởng Kitô giáo và làm lệch lạc Tin Mừng. Đức Giêsu đã lao động với đôi bàn tay, va chạm trực tiếp hằng ngày với vật chất được Thiên Chúa tạo thành, để với tay nghề của mình tạo dáng cho chúng. Thật đáng kinh ngạc, phần lớn cuộc đời Người đã dành cho nghề nghiệp này trong một cuộc sống đơn sơ, không có chi gây kinh ngạc : “Đây không phải là anh thợ mộc, con bà Maria sao ?”(Mc 6,3). Và như thế, Người đã thánh hiến lao động và trao cho chúng một giá trị đặc biệt cho việc trưởng thành của chúng ta. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II dạy : “Ngay khi con người mang lấy gánh nặng của lao động trong sự hiệp nhất với Chúa bị đóng đinh, thì một cách nào đó con người, theo cách của mình, cộng tác với Con Thiên Chúa vào việc cứu độ nhân loại” [79].
99. Theo cách hiểu về thực tại của suy tư Kitô giáo, sự xác định toàn thể sáng tạo đã được hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, ngay từ thuở ban đầu : “Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Tiền đề của Phúc Âm thánh Gioan (1,1-18) cho thấy hành động sáng tạo của Đức Kitô như Lời của Thiên Chúa (Logos). Thế nhưng tiền đề này gây kinh ngạc khi xác nhận rằng Lời “đã hóa thành xác thể” (Ga 1,14). Một Ngôi Vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tự hội nhập vào vũ trụ được tạo thành và đã liên kết với tạo thành cho đến thập giá. Từ khởi đầu thế giới, nhưng với một cách thức đặc biệt từ mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Chúa Kitô thực hiện một cách bí mật trong toàn thể thực tại, mà không ảnh hưởng gì đến sự độc lập của chúng.
100.Tân Ước không những nói với chúng ta về Đức Giêsu lịch sử với sự liên lạc cụ thể và ưu ái với thế giới; nhưng còn cho thấy Người như Đấng Phục sinh đầy vinh quang hiện diện với vương quyền tròn đầy trên toàn thể sáng tạo: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”(x. Cl 1,19-20). Điều này đưa chúng ta vào cuối thời gian, khi Chúa Con trao trả lại mọi sự cho Chúa Cha và “như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (x. Cr 15, 28). Theo cách thức này, mọi tạo vật trên trần gian xuất hiện trước mặt chúng ta không phải như những thực tại tự nhiên, nhưng Đấng Phục Sinh ôm lấy chúng và hướng chúng đến một định mệnh tròn đầy. Cũng như cánh hoa ngoài đồng và các chim chóc, được nhìn với con mắt đầy kinh ngạc, thì bây giờ lại được tràn đầy sự hiện diện sáng chói của Người.
***
CHƯƠNG III
NGUỒN GỐC NHÂN BẢN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG SINH THÁI
 
101. Thực sự không ích lợi gì nếu chỉ diễn tả các hiện tượng của cơn khủng hoảng sinh thái mà không nhận thức được nguyên do nhân bản của nó. Đời sống và hoạt động con người có thể đi vào sai lạc và nghịch lại với thực tại đến độ gây tai hại cho chúng. Tại sao chúng ta không dừng lại để suy nghĩ điều này ? Trong suy nghĩ này, Tôi xin đề nghị chúng ta nên tập trung vào sự thực dụng kỹ thuật hiện tại và vào vị trí con người và hoạt động của họ trong thế giới.
I. CÔNG NGHỆ: NĂNG LỰC SÁNG TẠO VÀ QUYỀN LỰC
102. Nhân loại đã bước vào một thời kỳ mới, trong đó sức mạnh kỹ thuật đặt chúng ta trước mỗi giao lộ. Chúng ta là những người thừa kế làn sóng thay đổi của hai thế kỷ : máy chạy hơi nước, xe lửa, điện tín, điện khí, xe hơi, máy bay, kỹ nghệ hóa chất, y khoa tân tiến, thông tin học, và mới hơn, cách mạng tin học, rô-bốt, kỹ nghệ sinh học và kỹ thuật siêu nhỏ. Thực sự phải vui mừng vì những phát triển đó và trước những khả năng mở ra những điều mới lạ, vì “khoa học và kỹ thuật là một sản phẩm kỳ diệu hoạt động sáng tạo của con người, một quà tặng của Thiên Chúa”[81]. Việc biến đổi thiên nhiên cho mục đích sử dụng là một đặc thù của nhân loại ngay từ thuở ban đầu, và như thế, kỹ thuật “diễn tả xu hướng của tâm trí con người từng bước lướt thắng những điều kiện vật chất” [82]. Kỹ thuật đã đem những phương dược chữa trị cho không biết bao nhiêu đau khổ làm hại con người và ngăn cản họ. Chúng ta chỉ có thể đánh giá và cám ơn những tiến triển kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực y khoa, xây dựng và giao thông. Chúng ta phải công nhận những cố gắng của biết bao nhà khoa học và kỹ sư, mang đến sự đa dạng cho một sự phát triển lâu dài.
103. Khoa học kỹ thuật được định hướng tốt đẹp, không những sản xuất nhiều vật có giá trị để giúp làm tốt đẹp cho phẩm chất sống của con người, từ các đối tượng được sử dụng trong gia đình cho đến những phương tiện giao thông, những cây cầu, nhà cửa, những nơi công cộng, nhưng còn có khả năng sản sinh những gì tốt đẹp và còn đưa ra những “dự phóng” trong lãnh vực làm đẹp cho con người đang nằm trong thế giới vật chất. Người ta có thể phủ nhận vẻ đẹp của một chiếc máy bay hay những tòa nhà chọc trời hay không ? Có nhiều tác phẩm tuyệt vời trong mỹ thuật và âm nhạc, nhờ áp dụng các phương tiện kỹ thuật mới. Cũng như trong việc tìm tòi vẻ đẹp về phần người sản sinh kỹ thuật và người chiêm ngắm vẻ đẹp này như một bước nhảy vào sự tròn đầy nhân bản.
104. Chúng ta cũng không thể nào không chú ý đến năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, thông tin học, nhận thức về ADN của chúng ta và những khả năng khác mà chúng ta thu nhận được, đã trao cho chúng ta một quyền lực khủng khiếp. Nói rõ hơn, chúng ban cho những ai có kiến thức và nhất là quyền lực kinh tế, sử dụng chúng như một quyền lực thật ấn tượng trên cả nhân loại lẫn cả thế giới. Chưa bao giờ nhân loại có được quyền lực như thế trên chính mình, và không có gì bảo đảm rằng chúng được sử dụng đúng đắn, nhất là khi người ta nghĩ đến cách chúng được sử dụng ngay trong lúc này. Chỉ cần nhớ đến những quả bom nguyên tử được thả ngay trong thế kỷ XX, cũng như việc sử dụng kỹ thuật của nhóm chủ nghĩa Phát xít, những chế độ độc tài sử dụng để tiêu diệt hằng triệu người, và cũng không nên quên rằng, ngày nay chiến tranh sẽ sử dụng những phương tiện giết người còn cao độ hơn. Quyền lực này sẽ nằm trong tay ai ? Thật là nguy hiểm khi quyền lực nằm trong tay một nhóm nhỏ !
105. Người ta thường tin rằng “mỗi việc gia tăng quyền lực là môt bước “tiến triển”, nâng cao sự bảo vệ, hữu ích, phúc lợi, sức sống, giá trị cao” [83], tựa như điều tốt đẹp và chân thật nhờ quyền lực kỹ thuật và kinh tế được vươn cao. Thực tế “con người thời nay đã không được giáo dục để sử dụng quyền lực thật đúng đắn” [84], chỉ vì sự phát triển kinh khiếp về mặt kỹ thuật không đi cùng với việc phát triển con người trong trách nhiệm, giá trị và lương tâm. Mỗi thời đại chỉ hướng đến phát triển sự tự nhận thức về các ranh giới thật sự của mình. Vì lý do này có thể ngày nay nhân loại không ý thức về sự trầm trọng của những thách đố trước mắt ; “khả năng con người sử dụng sai quyền lực của mình, cứ lớn dần, khi “không phải là những qui luật tự do, nhưng là sự cần thiết của việc sử dụng và đảm bảo “[85]. Con người không hoàn toàn độc lập. Sự tự do của họ sẽ bị ảnh hưởng xấu, khi đẩy mình vào những sức lực mù quáng của vô thức, những nhu cầu trực tiếp, chủ thuyết ích kỷ và bạo lực. Theo nghĩa này, con người tự để cho quyền lực ngày càng lớn dậy mà không có một phương tiện gì để kiểm soát. Họ có thể sử dụng các máy móc theo cách bên ngoài, nhưng chúng ta có thể khẳng định, ngày nay họ không có một thứ đạo đức, không có văn hóa và một linh đạo chắc chắn, có thể đặt chúng đúng ranh giới và gìn giữ chúng trong sự hy sinh sáng suốt.
I. TOÀN CẦU HÓA SỰ THỰC DỤNG KỸ THUẬT
106. Vấn đề cơ bản là một điều khác, sâu xa hơn, đó là cách con người thực sự đón nhận kỹ thuật và sự phát triển của nó liên hệ với thực dụng đồng nhất và một chiều hướng duy nhất. Theo sự thực dụng này, quan niệm về chủ thể phải được làm nổi bật, trong tiến trình hợp lý, chiếm lấy đối tượng nằm bên ngoài. Chủ thể này sẽ được phát triển nhờ việc tạo nên một phương pháp khoa học dựa vào kinh nghiệm rõ ràng, là một kỹ thuật chiếm hữu, thống trị và chuyển hóa. Gần như chủ thể này đối diện với một điều gì không có hình thức, hoàn toàn sẵn sàng để sử dụng. Sự can thiệp của con người trên thiên nhiên được minh chứng, nhưng về lâu về dài, gần như có một dấu chứng đi kèm theo, có thể sử dụng các khả năng do các vật đưa đến, như là đón nhận thực tại tự nhiên từ bản chất đưa đến. Ngược lại, bấy giờ, điều con người chú tâm là lợi dụng tất cả vật chất đến trong tay mình mà không biết hay quên đi thực tế đang ở trước mắt họ. Vì thế, tại sao con người và các vật thể không còn giang tay đón nhận nhau, nhưng đối diện nhau cách đối kháng. Từ đó đưa đến ý nghĩ về một sự phát triển vô hạn, không còn ranh giới gì nữa, do say mê với lợi lộc kinh tế, tài chính và kỹ thuật. Việc phát triển này giả thiết có một sự dối trá về việc sử dụng vô giới hạn các tài nguyên của hành tinh, đưa đến việc “o ép” đến tận cùng hay có khi vượt quá ranh giới. Đó là một giả thiết sai lầm, khi cho rằng “con người có thể sử dụng năng lượng và tài nguyên vô giới hạn, và tin vào việc tái tạo tức khắc, cũng như các hậu quả tiêu cực do việc sử dụng, không thành vấn đề gì cho trật tự thiên nhiên”[86].
107. Vì thế, chúng ta có thể nói, khởi đầu biết bao nhiêu khó khăn của thế giới hiện tại đã có một xu hướng – không phải lúc nào cũng ý thức – muốn nắm vững phương pháp và đặt mục đích cho khoa học kỹ thuật một mẫu kiến thức lệ thuộc vào đời sống con người và hoạt động của xã hội. Hiệu quả việc sử dụng mô mẫu này vào thực tại con người và xã hội có thể được xác định qua việc gây hại cho môi trường, đương nhiên chỉ là một dấu hiệu cho việc đúc kết hay ảnh hưởng xấu cho cuộc sống con người và xã hội trong mọi chiều kích. Người ta phải công nhận rằng các sản phẩm do kỹ thuật không hoàn toàn vô hại, chỉ vì chúng tạo một mạng lưới, cuối cùng tạo cách sống cho con người, định hướng cho mọi khả năng xã hội vào lợi ích của một nhóm quyền lực được xác định. Những quyết định chắc chắn xem ra chỉ dựa vào xu hướng vật chất, trong thực tế chỉ là những quyết định hướng vào sự tiếp tục phát triển của đời sống xã hội.
108. Không còn khả năng để suy nghĩ bảo vệ cho một thực dụng văn hóa khác và sử dụng một kỹ thuật như chỉ là công cụ. Sự thực dụng về mặt kỹ thuật đã trở thành chủ lực, thực khó bỏ qua phương tiện của nó và càng khó hơn nữa để sử dụng nó mà không làm chủ được hệ luận của nó. Điều này trở thành “chống văn hóa – kulturwidrig – une contre-culture” khi chọn một lối sống với mục đích ít là không lệ thuộc vào kỹ thuật, vào giá trị và quyền lực toàn cầu hóa và toàn khối hóa. Trong thực tế, kỹ thuật có xu hướng tìm cách đưa tất cả vào lô-gíc của mình và con người nắm lấy kỹ thuật, biết rằng “ trong kỹ thuật cuối cùng không nhắm đến sự hữu dụng và sự tốt đẹp, nhưng là thống trị, một thứ thống trị với ý nghĩa tuyệt đối của nó.”[87] Vì thế, “nó tìm cách nắm bắt các yếu tố thiên nhiên, cũng như các yếu tố của hiện sinh con người” [88]. Khả năng quyết định, sự tự do đích thực và không gian sáng tạo của từng người bị thu hẹp lại.
109. Sự thực dụng công nghệ kỹ thuật hướng đến việc thống trị kinh tế và chính trị. Kinh tế nắm lấy từng phát triển kỹ thuật để phục vụ cho lợi nhuận, không chú tâm đến hệ quả tiêu cực có thể xảy ra cho con người. Tài chính bóp chết kinh tế thật sự. Người ta chưa học được những bài học từ những cuộc khủng hoảng tài chính trên khắp thế giới, và cũng học rất chậm các bài học về ô nhiễm môi trường. Vài người cho rằng, kinh tế và kỹ thuật hiện tại có thể giải quyết được vấn đề môi trường, cũng như người ta quả quyết với ngôn ngữ bình dân, vấn đề nghèo đói, khổ ải trong thế giới có thể dễ dàng giải quyết cách đơn sơ với việc phát triển thị trường. Đây không phải là vấn đề vế lý thuyết kinh tế, mà không ai bảo vệ được, nhưng thực sự nó có liên hệ đến sự phát triển kinh tế. Nhiều người không dám phát biểu điều này, họ bảo vệ hành động của họ, khi một số lượng thỏa đáng của sản phẩm, nhưng lại không chú tâm đến việc phân chia sự giàu sang cách tốt đẹp, môt liên hệ có trách nhiệm với môi trường hay quyền lợi của những thế hệ tương lai. Thái độ của họ cho thấy mục đích thật sự của họ là tuyệt đối hóa thu nhập. Nhưng thị trường tự nó không bảo đảm cho việc phát triển nhân bản trọn vẹn, cũng như cho xã hội. [89]. Chúng tôi cho rằng “cách thức phát triển siêu đẳng và nhằm vào lợi nhuận, không thể chấp nhận được trong những hoàn cảnh đau khổ mất nhân phẩm trường kỳ”[90] và những cơ quan kinh tế cũng như những chương trình xã hội cho phép người nghèo khổ nhất có thể tiếp cận đến các tài nguyên căn bản, cũng khó mà thực hiện cách nhanh chóng. Người ta sẽ không bao giờ suy nghĩ đủ về những nguyên nhân đưa đến việc bất bình đẳng hiện tại, có liên hệ đến mục đích, ý nghĩa và hiện trạng xã hội của việc phát triển kỹ thuật và kinh tế.
110. Sự đặc thù của kỹ thuật sẽ đem đến cho mình một sự khó khăn lớn để có thể nhìn toàn vẹn. Việc phân mảnh khả năng hiểu biết chu toàn phận vụ của mình, nếu chỉ nhắm vào những áp dụng cụ thể, nhưng thường làm mất đi ý nghĩa của tổng thể, những liên hệ giữa các vật, và cho cả tầm nhìn rộng rãi không còn ý nghĩa gì nữa. Điều này cũng ngăn cản việc tìm kiếm những lối đi thích hợp để giải quyết các vấn đề phức tạp của thế giới hiện tại – nhất là những vấn đề đụng chạm đến môi trường và người nghèo – , là những vấn đề không thể chỉ tiếp cận bằng một cái nhìn duy nhất hay dựa theo một thứ lợi ích. Một loại khoa học muốn đưa ra những giải đáp cho những đòi hỏi lớn lao, cần phải nhận thức tất cả sự hiểu biết về những bình diện kiến thức, bao gồm cả triết học và đạo đức xã hội. Đây là hướng đi rất khó đón nhận trong ngày hôm nay. Vì thế, người ta không dễ nhận ra tầm nhìn đạo đức mà người ta phải hướng vào. Cuộc sống cứ để mặc cho hoàn cảnh mang dấu ấn kỹ thuật, được xem như phương tiện duy nhất để giải thích cho hiện sinh của mình. Trong thực tế cụ thế mà chúng ta đối mặt, có nhiều hiện tượng xuất hiện rõ ràng cho thấy sai lầm – tỉ dụ như ô nhiễm môi trường, lo sợ và đánh mất ý nghĩa của cuộc sống và cộng đoàn. Người ta cũng thấy rõ ràng : “Thực tại đứng trên ý tưởng” [91].
111. Văn hóa sinh thái không thể bị đúc kết vào một chuỗi giải đáp khẩn cấp và manh múng cho các vấn đề nổi cộm như hũy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm. Phải tạo một cái nhìn khác thôi, một suy tư, một chính trị, một chương trình giáo dục, một cách sống và một tinh thần chống lại sự tiến triển của thực dụng kỹ thuật. Nói một cách khác, ngay cả những ý tưởng tốt đẹp về môi sinh cũng có thể chấm dứt qua việc đóng kín mình trong lý luận toàn cầu. Chỉ tìm phương cách kỹ thuật cho mỗi vấn đề môi trường mới xuất hiện, thì chỉ là tách biệt các sự vật, trong thực tế các sự vật này phải nối kết với tất cả thực tại, và che đậy những vấn đề sâu xa của hệ thống toàn cầu.
112. Có thể khai triển tầm nhìn. Sự tự do của con người có khả năng đặt ranh giới cho kỹ thuật, định hướng nó để phục vụ cho một mô mẫu phát triển, mạnh khỏe hơn, nhân bản hơn, mang tính xã hội nhiều hơn và trọn vẹn hơn. Sự giải thoát khỏi thống trị thực dụng của kỹ thuật diễn ra thật sự trong nhiều hoàn cảnh, tỉ như khi những cộng đoàn sản xuất nhỏ quyết định áp dụng những hệ thống sản xuất ít ô nhiễm hơn, nâng đỡ cho một cách sống hạnh phúc và liên kết với nhau không định hướng vào lợi nhuận; hay kỹ thuật định hướng cách giải quyết các vấn đề cụ thể của kẻ khác, với ý muốn giúp đỡ những kẻ khác sống xứng đáng và ít đau khổ hơn ; hay khi với một ý thức, tạo sự tốt đẹp và việc chiêm ngắm điều đẹp đẻ sẽ giúp người ta vượt qua quyền lực chỉ nhìn sự vật như đối tượng, như vậy sẽ đưa đến một cách giải thoát được thực hiện trong vẻ đẹp và trong con người đang chiêm ngắm vẻ đẹp. Nhân bản đích thực mời gọi chúng ta đi đến một tổng đề mới, xem như ở giữa văn minh kỹ thuật gần như bụi bậm thấm thấu qua cánh cửa đóng kín. Dù gì đi nữa, có thể có một sự phản kháng với điều được cho là đích thực hay không ?
113. Mặt khác, xem ra con người không còn tin vào một tương lai hạnh phúc nữa, họ không mù quáng tin vào một bình minh tốt hơn từ tình trạng hiện tại của thế giới và những khả năng kỹ thuật. Họ ý thức thực tại rằng sự phát triển khoa học và kỹ thuật không hứa hẹn cho tương lai và lịch sử hạnh phúc, và nhận thức rằng, những con đường cơ bản cho tương lai hạnh phúc phải rất khác. Người ta không còn nghĩ nhiều đến những khả năng kỹ thuật đem đến. Nhân loại đã thay đổi một cách sâu xa, việc gia tăng các điều luôn luôn mới chỉ đưa đến sự chóng qua dẫn chúng ta theo hướng nhìn sự vật chỉ hời hợt bên ngoài. Thực khó cho chúng ta để biết dừng lại, tìm sự sâu thẳm của cuộc sống. Khi các kỹ sư xây dựng phản ánh lại tinh thần của một thời đại, sẽ đưa các nhà cao tầng và một chuỗi cao ốc để làm nổi bật tinh thần kỹ thuật toàn cầu, trong đó điều mới mẽ thường trực của các sản phẩm sẽ kết hợp với sự chán ngán nặng trĩu. Chúng ta phản đối việc này và cũng không bỏ qua suy nghĩ để tìm hiểu mục đích và ý nghĩa của tất cả. Một cách khác, chúng ta phải chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và cần đến những thế phẩm để chịu đựng sự trống rổng.
114. Điều đang xảy đến ngay lúc này đặt chúng ta vào tình trạng khẩn cấp đưa đến một cuộc giải phóng văn hóa thật can đảm. Khoa học và kỹ thuật không phải là vô thưởng vô phạt, nhưng từ đầu cho đến lúc cuối tiến trình, cũng chứa đựng nhiều ý đồ và khả năng để tạo dựng cách khác. Không ai đòi hỏi phải trở về thời đồ đá, khi người ta còn sống trong hang hóc, nhưng điều tất yếu là phải làm chậm lại bước tiến để nhìn vào thực tế một cách khác, đón nhận những bước tích cực và lâu dài, đồng thời đánh giá lại các giá trị và những mục đích lớn lao nhưng bị phá vỡ bởi một sự cuồng nhiệt hoang tưởng.
II. KHỦNG HOẢNG VÀ HẬU QUẢ CỦA THUYẾT DUY NHÂN TÂN THỜI
115. Thuyết nhân bản tân tiến cuối cùng đi đến nghịch lý vì đã đặt lý luận kỹ thuật lên trên thực tế, chỉ vì “con người không còn cảm nhận thiên nhiên như một định lệ có giá trị, cũng không đem lại cho mình một nơi trú ẩn sống động. Con người không còn nhìn thiên nhiên dưới một định kiến thích hợp như không gian và chất liệu cho một công trình mà người ta có thể quăng đi, không cần biết kết quả như thế nào” [92]. Với cách thức này, giá trị mà thế giới mang trong mình, sẽ yếu đi. Nhưng nếu con người không tái khám phá vị trí địch thực của mình, họ sẽ không hiểu rõ về mình và cuối cùng phản lại thực tại của mình.. “Không chỉ có trái đất được Thiên Chúa ban cho con người, nhưng khi con người sử dụng, phải chú ý đến chủ đích đầu tiên khi nó được ban cho con người; nhưng con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính mình và phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà trái đất được tạo thành” [93].
116. Trong thời tân tiến, có một thứ chủ thuyết nhân bản tập trung vào con người một cách vô độ, dưới nhiều hình thức khác, vẫn tiếp tục trong ngày hôm nay hủy hoại các liên hệ chung và tìm cách củng cố các liên hệ xã hội. Vì thế đã đến lúc phải chú tâm đến thực tế với các ranh giới mà chúng thiết đặt và các khả năng đưa đến một sự phát triển lành mạnh, có hiệu quả trong lãnh vực con người và xã hội. Một cách trình bày không đầy đủ về nhân học Kitô giáo có thể đưa đến một quan niệm sai lầm về liên hệ giữa con người với thiên nhiên. Thường là một giấc mơ ảo tưởng Prométhé về chủ quyền trên thế giới, gợi lên ý tưởng như là sự lo lắng cho thiên nhiên là chuyện của những người yếu kém. Cách nghĩ đúng đắn quan niệm con người như “chủ” của vũ trụ, nằm ở chỗ, con người phải là quản lý có trách nhiệm.
117. Sự thiếu sót về việc chăm sóc để đo lường những tai hại cho thiên nhiên và hậu quả môi sinh của các quyết định, đó chỉ là phản ánh rõ ràng nhất của việc không thích thú gì để nhận thực sứ điệp mà thiên nhiên được ghi khắc trong cơ cấu của mình. Khi người ta không nhận ra trong một thực tế, giá trị của người nghèo, của một bào thai, một cá nhân phải sống trong tình trạng thương tật – để chỉ nêu ra vài tỉ dụ – người ta cũng sẽ rất khó để lắng nghe tiếng gào thét của thiên nhiên. Tất cả đều liên kết với nhau. Nếu con người cho mình hoàn toàn độc lập với thực tại và mình là chủ tuyệt đối, thì nền tảng hiện sinh của mình sẽ tự nó bị đổ vỡ, “thay vì trách nhiệm như là người cùng hoạt động với Thiên Chúa để thực hiện công trình sáng tạo, con người lại tự đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa và cuối cùng gợi lên sự chống đối của thiên nhiên” [95].
118. Hoàn cảnh này đưa chúng ta vào một thứ thần kinh phân lập triền miên, chỉ biết tôn vinh kỹ thuật mà không nhận ra giá trị của những sinh vật khác, đến độ phủ nhận giá trị đặc biệt của con người. Nhưng người ta không thể bỏ qua nhân loại được. Sẽ không có một liên hệ mới nào với thiên nhiên mà không có con người mới. Sẽ không có môi sinh học mà không có nhân học thích ứng. Khi con người bị xem như một hữu thể giữa các hữu thể khác, xuất xứ từ một trò chơi của tình cờ hay một thứ tiền định vật lý, bấy giờ “ý thức trách nhiệm bị xóa đi trong lương tâm”[96]. Một chủ thuyết nhân bản sai lệch không thể dành chỗ cho thuyết “tập trung vào sinh học” vượt lên trên được, như thế có nghĩa là đưa đến một liên hệ mất thăng bằng, không những không giải quyết được các vấn đề, nhưng lại càng gây thêm nhiều vấn đề khác. Người ta không thể đòi hỏi từ con người một sự dấn thân tôn trọng đối với thế giới, nếu không công nhận kiến thức, ý chí, tự do và tinh thần trách nhiệm đặc biệt của con người và đánh giá cao các khả năng đó.
119. Việc phê phán chủ thuyết nhân bản lệch lạc đã đưa ý nghĩa các liên hệ giữa con người vào hậu cảnh. Khi cơn khủng hoảng môi sinh mang ý nghĩa một sự phá vở hay là làm nổi bật một cơn khủng hoảng về mặt luân lý, văn hóa và tinh thần của thời hiện đại, chúng ta không thể đòi hỏi việc chữa trị cho liên hệ của chúng ta với thiên nhiên và môi trường, mà không chữa trị liên hệ nền tảng giữa con người. Khi suy tư Kitô giáo đòi buộc một giá trị đặc biệt cho con người đối với các thụ tạo khác, sẽ có cơ hội để đánh giá từng cá nhân và đòi phải công nhận những kẻ khác. Một khai mở cho “một người đối diện” với khả năng nhận biết, yêu thương và đối thoại, thì đó là một giá trị quí giá của con người, Vì thế, để có một liên hệ thích hợp với thế giới thụ tạo, thì không cần phải đánh giá thấp chiều kích xã hội của con người, cũng như chiều kích siêu vượt, sự cởi mở cho Thiên Chúa. Thật vậy, người ta không thể nhìn liên hệ với môi trường bị tách biệt khỏi liên hệ với những người khác và với Thiên Chúa. Đó có lẽ chỉ là một nét đẹp của môi trường, ẩn giấu dưới một chủ thuyết cá nhân lãng mạn và một sự đóng kín nghẹt thở trước siêu vượt.
120. Vì tất cả nằm trong liên hệ, nên việc bảo vệ thiên nhiên không được làm cớ để hợp thức hóa việc phá thai. Một con đường giáo dục, đón nhận người yếu đuối chung quanh chúng ta, đôi khi cũng làm cho chúng ta khó chịu hay không cần thiết, xem ra không thể thực hành được, khi người ta không bảo vệ một bào thai, ngay như việc sinh nở làm cớ cho những khó khăn và bất lợi : “Khi ý nghĩa cá nhân và xã hội đối với việc chấp nhận một cuộc sống mới bị mất đi, thì những hình thức đón nhận hữu ích cho đời sống xã hội cũng bị khô cằn”[97].
121. Đang có một triển khai cho một tổng đề mới có thể lướt thắng những biện chứng sai lệnh của thế kỷ cuối cùng, Kitô giáo, trung thành với căn tính của mình và bảo vệ gia sản chân lý được đón nhận từ Đức Giêsu Kitô, sẽ luôn suy nghĩ lại và diễn tả trong một cuộc đối thoại với những dữ kiện lịch sử mới, qua đó làm nổi bật điều mới mẽ vĩnh cửu [98].
Thuyết tương đối thực hành
122. Một chủ thuyết qui nhân bản sai lệch sẽ làm cớ cho một cách sống cũng lệch lạc. Trong Tông Huấn Evangelii gaudium –Niềm vui Tin Mừng – Tôi đã nói đến thuyết tương đối thực hành đánh dấu cho thời đại của chúng ta và “còn nguy hiểm hơn lý thuyết tương đối”[99]. Khi tự đặt mình vào vị trí trung tâm, con người sẽ đi đến việc khẳng định quyền ưu tiên cho lợi ích và tất cả những gì còn lại đều tương đối. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên, sự hiện diện khắp mọi nơi của việc thực dụng kỹ thuật và việc tôn vinh quyền vô hạn của con người sẽ đưa đến việc triển khai thuyết tương đối giữa con người, với thuyết này tất cả đều tương đối, nếu như không trực tiếp phục vụ cho lợi ích cá nhân. Trong đó có một lô-gíc giúp chúng ta hiểu rằng có nhiều thái độ khác nhau gây sự hủy hoại môi trường và gây tai họa cho xã hội.
123. Văn hóa của thuyết tương đối cũng là bệnh hoạn, đẩy con người đến việc lợi dụng kẻ khác và xử sự người đó như chỉ là đối tượng, buộc họ phải thực hiện các lao động khổ sai hay vì mang nợ mà trở thành một người nô lệ. Đó cũng là lối suy nghĩ đưa đến việc hiếp dâm trẻ em hay bỏ rơi người già lão, nếu không phục vụ được lợi ích của mình. Đó cũng là thứ lô-gíc nội tâm của những người muốn nói : Hãy để cho các sức mạnh vô hình của thị trường điều chỉnh kinh tế, chỉ vì các hậu quả của nó trên xã hội và thiên nhiên là không thể tránh được.Nếu như không có những chân lý khách quan cũng như những nền tảng vững chắc, ngoài việc thỏa mãn những chương trình của riêng mình và những nhu cầu trực tiếp – thì hoạt động của con người còn gì ranh giới trong các tổ chức tội phạm, buôn bán ma túy, buôn bán kim cương vấy máu và da thú vật, là những con thú đang trên đường tuyệt chủng ? Đấy không phải là cách suy nghĩ tương đối hợp thức hóa việc buôn bán hay sử dụng các bộ phận của người nghèo hay là việc “quăng” các em bé, chỉ vì không đáp ứng được các ý muốn của cha mẹ chúng ? Đấy cũng là cách suy nghĩ “sử dụng và quăng đi”, vì tạo ra quá nhiều rác thải, gây nên do khao khát vô độ, nhiều hơn tiêu thụ như con người cần thiết. Vì thế, chúng ta đừng nghĩ rằng các chương trình chính trị hay là quyền lực luật lệ đủ để tránh những thái độ kéo theo môi trường vào việc cùng đau khổ. Chỉ vì khi văn hóa sa đọa và người ta không còn công nhận một chân lý khách quan hay những nguyên tắc chung được chấp nhận; như thế luật lệ chỉ là những bó buộc và như rào cản vây quanh con người.
CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ LAO ĐỘNG
124. Trong bất cứ tiếp cận một môi sinh học trọn vẹn, không thể loại con người ra được, tất yếu phải hội nhập giá trị của lao động, đó là điều Vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã trình bày cách sáng suốt trong Thông Điệp Laborem exercens. Chúng ta nhớ lại rằng, theo trình thuật Thánh Kinh về sáng tạo, Thiên Chúa đã đặt con người vào vườn địa đàng vừa mới tạo dựng (so St 2,15), không những để gìn giữ (bảo vệ) , nhưng còn để lao động cho thửa vườn sinh hoa kết quả. Với cách này những người lao động và thợ thủ công “bảo đảm cho sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa” (so Hc 38, 34 LXX). Trong thực tế, sự can thiệp của con người nhằm vào việc phát triển sáng tạo cách hợp lý, là hình thức tương xứng nhất để chăm sóc. Điều này cũng được xem như công cụ của Thiên Chúa giúp đặt vạn vật đúng chỗ, và giúp phát triển các khả năng mà Thiên Chúa đã đặt vào trong vạn vật : “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu ; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường’ (Hc 38, 4).
125. Nếu chúng ta cố suy nghĩ về những gì liên kết con người với thế giới chung quanh, cần thiết phải có một quan niệm đúng đắn về lao động. Vì nếu chúng ta nói về liên hệ của con người với vạn vật, sẽ xuất hiện câu hỏi về ý nghĩa và mục đích của hoạt động con người trên thực tại. Chúng ta không chỉ nói về lao động chân tay hay lao động trên mặt đất, nhưng tất cả hoạt động có thể làm thay đổi điều gì đang hiện hữu, từ việc đưa ra một quan sát xã hội cho đến dự án phát triển về mặt kỹ thuật. Mỗi hình thức lao động đều nêu lên một quan niệm về liên hệ mà con người có thể hay phải đón nhận kẻ khác. Linh đạo Kitô giáo, với việc thán phục khi chiêm ngắm vạn vật, như chúng ta đã gặp nơi thánh Phanxicô Assisi, còn khai triển ý nghĩa sâu xa của lao động, như chúng ta thấy nơi gương của chân phước Charles de Foucauld và các môn đệ của ngài.
126. Chúng ta đón nhận vài điều từ truyền thống tu sĩ. Lúc khởi đầu, một cách nào đó truyền thống này tạo nên sự trốn lánh thế gian với ý muốn lánh xa sự sa đọa nơi thành phố. Vì thế các nhà ẩn tu đã tìm đến sa mạc, vì họ tin rằng, đây là vị trí thích hợp để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau đó, thánh Bênêđictô thành Nurcia ra lệnh cho các tu sĩ của mình sống thành những cộng đoàn và liên kết lời cầu nguyện và việc học cùng với lao động chân tay (“ora et labora” – “cầu nguyện và lao động”). Việc đưa lao động chân tay thấm nhuần ý nghĩa cầu nguyện, mang tính cách mạng. Người ta học hỏi việc trưởng thành trong việc hội nhập chiêm niệm và lao động. Đó là cách thức sống lao động giúp chúng ta chú tâm và tôn trọng môi trường và giúp cho liên hệ của chúng ta với thế giới trong một sự điều độ thánh thiện.
127. Chúng ta nói rằng “con người là tác giả, trung tâm và mục đích tất cả đời sống kinh tế-xã hội” [100]. Dù vậy, khi khả năng chiêm ngắm và tôn trọng bị lệch lạc nơi con người, sẽ xuất hiện các điều làm ý nghĩa lao động bị sai lệch [101]. Phải luôn nhớ rằng, con người có “khả năng” nắm lấy “trách nhiệm tạo hạnh phúc về mặt vật chất, bước tiến luân lý, sự triển nở tinh thần” [102] Lao động phải là nơi phát triển nhiều mặt của con người, nơi nhiều chiều kích cuộc sống đang triển nở : sự sáng tạo, dự phóng cho tương lai, phát triển mọi khả năng, thực hành các giá trị, liên hệ với kẻ khác, thái độ thờ phượng. Vì thế, thực tế xã hội toàn cầu trong hiện tại, vượt qua các lợi ích được hạn định của các nhà kinh doanh và một suy luận kinh tế có thể bàn thảo được, cần thiết “xem điều ưu tiên cần phải theo đuổi là tạo cho mọi người được tiếp cận với lao động” [103].
128. Chúng ta được mời gọi phải lao động từ khi được sáng tạo. Người ta đừng tìm cách cho sự tiến triển kỹ thuật sẽ thay thế cho lao động con người, nếu như thế, con người sẽ sa sút. Lao động là một điều cần thiết, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, con đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và hiện thực cá nhân mình. Theo nghĩa này, dùng tiền để giúp người nghèo chỉ là một cách giải quyết dự trù để đối mặt với những vụ việc khẩn cấp. Mục đích chính phải tạo khả năng cho họ có một đời sống xứng đáng với lao động của họ. Thế nhưng định hướng kinh tế tạo nên cách phát triển kỹ thuật để hạ giá thành sản phẩm, bằng cách giảm bớt các chỗ làm được thay bằng máy móc. Thật là ảo tưởng theo cách cho hoạt động con người như chống lại chính họ. Việc giảm bớt công ăn việc làm “sẽ tạo nên một tác động tiêu cực trên bình diện kinh tế ngang qua việc xói mòn tiệm tiến của “tư bản xã hội” đặc biệt qua việc chôn vùi tất cả mọi liên lạc, dựa vào sự tin tưởng, sự vững vàng và tuân giữ luật lệ và đó là những điều không thể thiếu trong đời sống chung của xã hội” [104]. Cuối cùng : “Giá trị con người cũng luôn là giá trị kinh tế”, và những sự lệch lạc kinh tế cũng kéo theo giá trị con người”. Ngưng đầu tư vào con người để đạt được những lợi lộc trực tiếp là môt thứ trao đổi xấu cho xã hội.
129. Để có thể tạo công ăn việc làm, cần thiết phải đòi buộc nền kinh tế có thể dễ dàng tạo nhiều sản phẩm thật đa dạng và sự sáng tạo của các nhà thầu. Tỉ dụ như có một sự khác biệt lớn trong hệ thống lương thực đồng áng của những chiều kích nhỏ tiếp tục tạo lương thực cho phần lớn dân sự toàn cầu, khi sử dụng một lượng nhỏ đất đai cũng như nước, và ít thải ra rác rưởi, có thể là những mảnh đất nông nghiệp nhỏ hay là vườn tược, hay nhờ săn bắn, thu nhặt những sản phẩm của rừng hay đánh cá bằng các lưới nhỏ. Những thứ kinh tế lớn, đặc biệt là trong môi trường nông nghiệp, sẽ đưa đến việc những nhà nông nghèo phải bán đất hay phải bỏ cách trồng trọt cổ điển. Những cố gắng của một số người triển khai một hình thức sản xuất khác, cũng phải chấm dứt vì lý do các khó khăn để bước vào thị trường của vùng hay toàn cầu, hay chỉ vì hạ tầng cơ sở buôn bán và chuyên chở chỉ để phục vụ cho các doanh nghiệp lớn. Những người mang trách nhiệm có quyền và có trách nhiệm để nâng đỡ rõ ràng và vững chắc cho các nhà sản xuất nhỏ và sự đa dạng của các sản phẩm. Để có thể có một sự tự do về mặt kinh tế mà tất cả mọi người có thể hưởng lợi, đôi khi cần xác định ranh giới cho những người có nhiều phương tiện và quyền hành tài chính. Một sự tự do về mặt kinh tế thuần túy theo lý thuyết, nhưng lại ngăn chận các điều kiện thực tế, mà nhiều người không thể tiếp cận được, gây khó khăn cho việc tiếp cận lao động, thì đó là một bài diễn văn nghịch lý, bôi nhọ chính trị. Hoạt động kinh doanh là một ơn gọi cao quí và nhắm vào việc xây dựng hạnh phúc và làm cho thế giới dành cho mọi người được tốt đẹp hơn, có thể là một cách thức mang lại nhiều hoa trái khi tác động vào vùng miền mà họ xây dựng các dự phóng, nhất là khi họ hiểu rằng, việc tạo công ăn việc làm là một phần tất yếu cho việc phục vụ cho lợi ích cộng đoàn.
CANH TÂN SINH HỌC TỪ VIỆC TÌM HIỂU
130. Trong nhản quan triết và thần học về sự sáng tạo, mà tôi cố gắng trình bày, rõ ràng là con người nhân bản đặc biệt với lý trí và khoa học, không phải là một tác nhân bên ngoài, có thể hoàn toàn bị loại. Dù con người có thể can thiệp vào thế giới thảo mộc và thú vật và sử dụng chúng cho bản thân mình, khi cần thiết cho sự sống; sách Giáo Lý toàn cầu dạy rằng, các thí nghiệm trên thú vật đều được phép chỉ khi nào “chúng nằm trong ranh giới hợp lý và được tìm hiểu đế chăm sóc và cứu chữa cuộc sống con người” [106]. Sách giáo lý nhắc lại rõ ràng, quyền lực con người có giới hạn : “Hành động làm đau đớn và giết thú vật một cách vô ích, sẽ xúc phạm đến phẩm giá con người” [107]. Mỗi việc sử dụng và thí nghiệm “đòi buộc phải có một sự tôn trọng về mặt tôn giáo đối với tính trọn vẹn của sáng tạo” [108].
131. Về điểm này, tôi muốn lấy lại thái độ quân bình của vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, khi cho thành công của các tiến bộ khoa học và kỹ thuật, “là những biểu lộ ơn gọi cao quí của con người, chia sẻ một cách có trách nhiệm vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa trong thế giới… nhưng đồng thời cũng nhớ rằng, bất cứ sự can thiệp vào môi sinh cũng không thể bỏ qua những hậu quả của nó trên những bình diện khác” [109], Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội đánh giá cao việc học hỏi và áp dụng môi sinh phân tử, được bổ túc bằng các môn khác như di truyền học và việc áp dụng kỹ thuật vào nông nghiệp và công nghiệp” [110], Ngài cũng nói, “điều này không thể đưa đến một thao tác theo di truyền mà không có chủ đích” [111], không biết đến các hậu quả tiêu cực từ những can thiệp này. Không thể nào ngăn chận sức sáng tạo của con người. Nếu người ta không thể ngăn cản một nghệ nhân muốn phát triển khả năng sáng tác của mình, thì người ta cũng không thể ngăn cản những người có năng khiếu khoa học và kỹ thuật cũng như các khả năng Thiên Chúa ban để phục vụ kẻ khác. Đồng thời người ta cũng không thể ngưng xác định các mục đích, các hậu quả, các liên hệ và ranh giới luân lý của những hoạt động nhân bản này, là một hình thức của quyền lực với những thử thách cao độ.
132. Chính trong vấn đề này, cũng cần phải xác định mọi suy tư về sự can thiệp của con người trên thảo mộc và thú vật – điều này có liên hệ đến những thay đổi mang tính di truyền do kỹ thuật sinh thái – để có thể khai thác các khả năng hiện diện trong vật chất. Việc tôn trọng niềm tin đối với lý trí đòi hỏi phải chú tâm điều mà khoa sinh thái, được triển khai bằng nhiều cách độc lập nhờ qua các lợi ích kinh tế, có thể chỉ dạy trên các cơ cấu sinh học cũng như những khả năng và các chuyển đổi của chúng. Dù sao đi nữa, sự can thiệp hợp lý tác động trên tự nhiên, “để giúp nó phát triển theo đường hướng của mình, đường hướng của sáng tạo, đường hướng do Thiên Chúa muốn” [112]
133. Thật khó để đưa ra một phán quyết chung về những việc chuyển đổi gen (GMO) của cây trồng và vật nuôi, trên bình diện y học hay chăn nuôi và nông nghiệp, vì chúng rất khác nhau, nên cần phải có những phán quyết cũng khác nhau. Mặt khác, những bất trắc không hoàn toàn do kỹ thuật, nhưng do việc áp dụng không thích hợp hay quá đáng. Trong thực tế, việc chuyển đổi gen thường là do tự nhiên. Ngay cả những việc can thiệp của con người cũng không phải là hiện tượng gì mới lạ. Việc thuần thục các thú vật, việc giao nhau giữa giống loài và những thực hành xa xưa và phổ biến được công nhận có thể nằm trong những nhận định này. Người ta nhớ rằng, khởi đầu cho việc phát triển khoa học về hạt giống chuyển đổi gen xuất phát từ việc quan sát một vi khuẩn, theo cách thức tự nhiên đã đem đến một sự chuyển đổi trong bộ gen của một thảo mộc. Trong thiên nhiên, những tiến trình này đi theo một nhịp điệu chậm chạp, không thể so sánh với vận tốc phát triển kỹ thuật hiện hành, ngay cả khi dựa vào sự phát triển khoa học của nhiều thế kỷ.
134. Dù chúng ta không nắm được các chứng cứ về những tổn thất cho con người do các giống được chuyển gen – trong một vài vùng đã sử dụng, đưa đến sự phát triển về mặt kinh tế, giúp giải quyết những vấn đề – cũng có nhiều khó khăn lớn lao, không thể được xem là tương đối được. Nhiều nơi đã áp dụng cách canh tác này, người ta nhận thấy một sự tập trung đất đai canh tác vào tay một số ít người, đưa đến việc “những người sản xuất nhỏ dần dần biến đi, hậu quả là mất đất canh tác, phải gia nhập vào sản xuất hiện hành” [113] Những người yếu đuối nhất sẽ trở thành lao công tạm thời, và nhiều nông dân phải trốn trú vào những khu nghèo khổ trong thành phố. Việc gia tăng diện tích kiểu canh tác này phá hủy mạng lưới đa dạng của hệ thống môi sinh, làm giảm đi sự đa dạng trong sản xuất và ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai kinh tế trong vùng. Trong nhiều nước khác, người ta thấy xu hướng phát triển các vựa nhỏ trong việc sản xuất lúa giống và các sản phẩm khác cho việc canh tác, và việc lệ thuộc sẽ còn nặng nề hơn với việc sản xuất các hạt giống cằn cỗi, để rồi cuối cùng các người nông dân phải mua hạt giống nơi các hộ kinh doanh.
135. Đương nhiên, cần phải có một sự chú tâm liên lĩ đến những phương diện luân lý ẩn chứa trong vấn đề. Vì lý do này cần phải bảo đảm một cuộc thảo luận khoa học và xã hội có tránh nhiệm và rộng rãi, có khả năng đón nhận các thông tin đang có trong tay và gọi sự vật theo đúng tên của chúng. Đôi khi, người ta đã không chú tâm đến tất cả thông tin đã được chọn lọc, như chỉ chú tâm đến các thông tin có lợi đặc biệt, có thể về mặt chính trị, kinh tế hay ý thức hệ. Điều này sẽ làm cho việc đánh giá hóa ra khó khăn về những vấn đề khác nhau vì không có một phán đoán quân bình và cẩn thận. Cần phải có không gian trao đổi về tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp đụng chạm đến vấn đề (nông nghiệp, người tiêu thụ, những người có trách nhiệm, các nhà khoa học, những người sản xuất hạt giống, những người sống gần vùng những cách đồng đã được xử lý và nhiều vấn đề khác) phải nêu lên những khó khăn hay tiếp cận và những thông tin trọn vẹn và vững chắc, để có thể đưa ra những quyết định cho công ích trong hiện tại và cho tương lai. Đây là một vấn đề về môi trường đa dạng đòi buộc phải xử lý với cái nhìn toàn vẹn các phương diện của nó, điều này đòi buộc ít ra là một cố gắng tài chính để tìm hiểu bằng nhiều con đường độc lập và liên khoa hầu đem lại một ánh sáng mới.
136. Mặt khác, cũng phải chú ý đến những phong trào môi sinh muốn bảo vệ sự trọn vẹn của môi trường và đòi hỏi phải có luật lệ cho những ranh giới được xác định đối với việc tìm hiểu khoa học, cho đến bây giờ các nguyên tắc này chưa được áp dụng vào cuộc sống con người. Nói cách chung, người ta tin rằng được phép vượt qua tất cả ranh giới khi người ta thí nghiệm trên các bào thai con người. Người ta quên rằng, giá trị bất biến của một con người nằm bên ngoài các giai đoạn phát triển. Cũng theo cách thức đó, kỹ thuật, một khi phủ nhận các giá trị lớn của luân lý, không thể nhìn bất cứ thực hành nào là hợp pháp. Như chúng ta đã nhìn trong chương này, kỹ thuật một khi tách rời khỏi luân lý rất khó ngăn chận quyền lực của mình được.
CHƯƠNG IV
MỘT MÔI TRƯỜNG HỌC TRỌN VẸN
 
137. Đối mặt với thực tại : tất cả đều liên kết với nhau chặt chẽ và các vấn đề hiện tại đòi buộc phải có tầm nhìn về cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tôi đề nghị, chúng ta phải dừng lại để nắm các yếu tố của một môi trường học trọn vẹn, trong đó có cả chiều kích nhân bản và xã hội.
I. SINH THÁI HỌC MÔI TRƯỜNG, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
138. Sinh thái học tìm hiểu những liên hệ giữa các sinh vật sống động và môi trường nơi chúng sống. Điều này đòi hỏi phải suy nghĩ và bàn thảo một cách thẳng thắn các điều kiện của sự sống hay sự tồn tại của một xã hội để đưa ra những câu hỏi, các mẫu phát triển, sản xuất và tiêu thụ. Cần phải nhấn mạnh là tất cả đều liên kết với nhau, thời gian và không gian không thể độc lập với nhau cũng như các nguyên tử và các phần nhỏ nhất có thể tách biệt nhau được. Tất cả các yếu tố khác biệt của hành tinh – vật lý, hóa học và sinh học liên kết với nhau, tạo thành những giống loài sống động trong một mạng lưới mà chúng ta không bao giờ có thể biết và hiểu hết được. Chúng ta chỉ có chung một phần lớn các thông tin về di truyền học với nhiều loài sinh vật. Vì lý do này, chúng ta chỉ có những kiến thức manh mún và đơn độc, có thể trở thành một hình thức dốt nát, nếu như chúng không được hội nhập vào cái nhìn tổng quát của thực tại.
139. Khi nói đến “môi trường”, người ta muốn nói về sự liên hệ đã có giữa thiên nhiên và xã hội đang hiện diện nơi đó. Điều này ngăn cản chúng ta hiểu biết thiên nhiên là một cái gì đó khác biệt với chúng ta hay chỉ là một khung cảnh đơn thuần của cuộc sống. Chúng ta bị nhốt trong đó, là một phần của nó và cùng sống với nó qua việc thông hiệp hỗ tương với nhau. Để tìm những nguyên nhân hủy hoại của một vị trí, đòi buộc phải có sự phân tích phận vụ xã hội, kinh tế, các mẫu liên hệ và cách hiểu thực tại. Đối diện với quá nhiều thay đổi không còn khả năng để tìm cách giải quyết đặc biệt và độc lập cho mỗi phần vấn đề. Điều quyết định chính là phải tìm những cách giải quyết trọn vẹn, phải chú ý đến hậu quả thay đổi giữa nhau của hệ thống tự nhiên và cả hệ thống xã hội. Không phải có hai cơn khủng hoảng cận kề nhau, một của mội trường và một của xã hội, nhưng thực ra chỉ có một cơn khủng hoảng duy nhất mang tính xã hội-môi trường. Những cách giải quyết đòi hỏi một lối đi trọn vẹn để chiến đấu với nghèo đói, trả lại phẩm giá cho những người bị loại ra khỏi xã hội và đồng thời phải chú tâm đến thiên nhiên.
140. Dựa vào số lượng lớn và đa dạng các yếu tố phải quan sát, ngay khi nhìn tác động của một dự phóng cụ thể về môi trường, cần phải trao cho những người tìm hiểu một vai trò tương xứng và tạo điều kiện dễ dàng cho việc cộng tác với một sự tự do thuộc cấp đại học. Việc tìm hiểu lâu dài này cần đưa đến những kiến thức, để hiểu những sự khác biệt của sinh vật liên kết với nhau và tạo sự thống nhất lớn lao mà ngày nay chúng ta gọi là “hệ thống môi sinh”. Chúng ta đón nhận chúng, không phải để xác định ích lợi của chúng, cách hợp lý, nhưng vì chúng có những giá trị độc lập khỏi việc sử dụng. Mỗi sinh vật đều tốt đẹp và đáng kinh ngạc, vì đó là một sáng tạo của Thiên Chúa, cũng thế, toàn thể sự hòa hợp các sinh vật trong một không gian xác định sẽ hoạt động như một hệ thống. Cho dù chúng ta không ý thức, chúng ta cũng lệ thuộc vào tổng thể này cho sự sống của chúng ta. Chúng ta phải nhớ rằng, hệ thống sinh thái sẽ tác động trên việc chuyển đổi thán khí điôxít, vào việc tẩy sạch nước, trên việc kiểm soát bệnh tật và dịch bệnh, cho việc tạo đất đai, phân hóa các rác thải và tác động trên nhiều bình diện khác mà chúng ta quên hay chưa suy nghĩ tới. Nhiều người, một khi hiểu biết được điều này, ý thức rằng chúng ta sống và hoạt động dựa trên nền tảng một thực tại đã được ban cho chúng ta trước, trước cả khả năng và hiện sinh của chúng ta. Vì thế khi người ta nói về “việc sử dụng lâu dài”, phải luôn ý thức đến khả năng tái tạo mỗi một hệ thống môi sinh trong nhiều lãnh vực và phương diện khác nhau.
141. Mặt khác, việc phát triển kinh tế hướng về việc tạo những máy móc tự động và “đồng nhất hóa – homogenisieren” với mục đích, giảm bớt chuyển động và giảm bớt giá thành. Vì thế cần đến một sinh thái học kinh tế, có khả năng nhìn một cách tổng quát thực tại. Vì “việc bảo vệ môi trường cũng phải được hội nhập vào tiến trình phát triền và không được nhìn một cách đơn độc” [114]. Nhưng đồng thời, hiện tại cần phải có một thuyết nhân bản, bao gồm nhiều lãnh vực kiến thức khác nhau – trong đó có cả kinh tế – để có được một cái nhìn trọn vẹn và bao quát. Ngày nay, việc phân tích vấn đề môi trường không thể tách rời một sự khảo sát môi trường sống của con người, liên hệ gia đình, các điều kiện lao động và liên hệ trong thành phố cũng như liên hệ con người với chính mình, qua đó xác định người đó liên hệ với kẻ khác và với môi trường. Có một liên hệ hỗ tương giữa hệ thống môi sinh và những thế giới khác trong xã hội và theo cách này cho thấy một lần nữa “toàn thể đứng trên từng phần” [115]
142. Nếu tất cả vạn vật đều liên kết với nhau, tình trạng các cơ chế của một xã hội cũng đều có những hệ luận về môi trường và về phẩm chất đời sống con người : “Mọi việc làm thương tổn sự liên đới và tình thân xã hội đều gây những tổn thất cho môi trường” [116]. Theo nghĩa này, khoa môi sinh xã hội cần phải có cơ chế và dần dần đến những chiều kích khác nhau bắt đầu từ những yếu tố xã hội cơ bản của gia đình, tiến đến cộng đồng địa phương và đất nước, cho đến đời sống quốc tế. Ngay chính trên mỗi bình diện xã hội và giữa nhau, hình thành các cơ chế, qui định các liên hệ giữa con người. Tất cả những gì làm tổn hại các cơ chế này, đều đưa đến những hậu quả tai hại : tỉ như đánh mất sự tự do hay xảy ra những điều bất công và bạo lực. Nhiều quốc gia đều dựa vào nền tảng các cơ chế được thiết lập, từ giá trị của quần chúng khổ đau và do lợi ích của những người lợi dụng tình trạng của vật chất. Dù ngay trong quản lý nhà nước, cũng như trên nhiều bình diện khác nhau của cộng đoàn xã hội hay giữa những !iên lạc của dân chúng, người ta cũng thu thập được nhiều thái độ khác xa lề luật. Những lề luật này được viết rất đúng, nhưng thường là những chữ chết. Người ta có thể hy vọng rằng những qui định và các luật lệ tương đối cho môi trường thực sự có hiệu quả hay không ? Tỉ như chúng ta biết nhiều quốc gia, có những lề luật rõ ràng để bảo vệ các cánh rừng, nhưng rồi cũng có những nhân chứng câm lặng cho việc thường xuyên vi phạm các lề luật đó. Ngoài ra, điều diễn ra trong miền khác, trực tiếp hay gián tiếp, tạo ảnh hưởng đến các vùng khác. Tỉ như, việc tiêu thụ ma túy trong các xã hội giàu sang, sẽ đưa đến câu hỏi rõ ràng và cấp thiết về vấn đề sản xuất đến từ các vùng nghèo đói, nơi các cách liên hệ đã sa đọa, tàn phá đời sống con người và cuối cùng hủy hoại cả môi trường chung quanh.
II. MÔI SINH HỌC VĂN HÓA
143. Cận kề gia sản tự nhiên, còn có gia sản lịch sử, nghệ thuật và văn hóa, tất cả đều bị hăm dọa. Đó là một phần căn tính chung của một vị trí và là nền tảng cho việc xây dựng một thành phố có thể trú ngụ được. Không kể đến việc tàn phá một điều gì đó hay xây dựng những thành phố mới có nhiều sinh thái hơn, nhưng để ở thì không thích thú mấy. Lịch sử, văn hóa và kỹ thuật xây dựng của một vị trí cũng phải được tính toán, để có thể bảo đảm được căn tính nguyên thủy của nó. Vì thế môi sinh học cũng phải chú tâm đến việc chăm sóc sự phong phú văn hóa của nhân loại theo nghĩa rộng nhất. Cách trực tiếp nhất, khi phân tích các vấn đề liên hệ đến môi sinh học, cũng phải chú tâm đến văn hóa địa phương, trong đó, người ta phải kết hợp ngôn ngữ của khoa học –kỹ thuật đối thoại với ngôn ngữ của dân chúng. Khi chú tâm đến liên hệ của con người với môi sinh, thì không thể loại bỏ văn hóa được, và không những chú tâm đến các đài kỷ niệm của quá khứ, nhưng còn đặc biệt chú tâm đến ý nghĩa sống động, năng nổ và chia sẻ.
144. Cái nhìn tiêu thụ của con người bị thúc đẩy bởi nguồn máy kinh tế toàn cầu hiện hành, có xu hướng tạo những thứ văn hóa đồng nhất với nhau, làm yếu đi sự đa dạng lớn lao về văn hóa như gia sản của nhân loại. Vì thế, người ta cố gắng giải quyết mọi khó khăn bằng việc điều chỉnh dựa theo luật lệ đồng nhất hay với sự tham gia của kỹ thuật năng động, từ đó đưa đền việc chểnh mãng bỏ qua sự đa dạng các vấn đề địa phương, những vấn đề đòi hỏi sự tham gia tích cực của dân chúng. Những tiến trình mới trong phát triển không được hội nhập vào các lược đồ từ bên ngoài xác định, nhưng phải tự phát từ nền văn hóa địa phương. Cuộc sống và thế giới rất năng động, vì thế cách thức chăm sóc mọi thứ cũng phải uyển chuyển và năng động. Những cách giải quyết thuần túy kỹ thuật sẽ gặp nguy hiểm, chỉ chú tâm đến hiện tượng, không đáp ứng đúng với các vấn đề. Cần phải có những đường hướng của luật lệ dân chúng và của các văn hóa; nếu hiểu theo cách thức như thế, thì việc muốn phát triển một nhóm xã hội cần phải nhìn trước tiến trình lịch sử trong đó có một sự cộng tác vững bền về mặt văn hóa, đòi buộc các tác nhân địa phương xuất phát từ văn hóa của chính mình luôn nắm vững vị trí hàng đầu. Ngay cả phẩm chất cuộc sống cũng không thể được thiết đặt, nhưng phải từ giữa thế giới biểu trưng và thói quen, là những thứ xác định cách đặc thù cho môt nhóm người.
145. Biết bao hình thức tập trung để bóc lột và tàn phá môi trường, không những làm cạn kiệt tài nguyên để sống tại địa phương, nhưng còn làm kiệt quệ những khả năng xã hội để giúp có được một cách sống, mà trong một thời gian dài, đã đem lại một căn tính văn hóa cũng như một ý nghĩa cho hiện sinh và sự sống chung. Việc làm biến đi một thứ văn hóa cũng nặng nề như làm biến đi một loài thú hay một loài cây cối. Việc thiết đặt một kiểu sống đơn nhất liên kết với một cách sản xuất có thể còn hại hơn là ảnh hưởng trên hệ thống môi sinh.
146. Theo nghĩa này, cần phải chú ý đến cộng đồng của dân nguyên thủy với văn hóa truyền thống của họ. Họ không phải là số ít giữa nhóm người khác, nhưng họ phải là những người đối thoại căn bản, nhất là khi người ta đưa ra những dự phóng lớn lao đụng chạm đến không gian của họ. Vì đối với họ, mảnh đất không phải là tài sản cho kinh tế, nhưng là hồng ân của Thiên Chúa và của tổ tiên họ đang an nghỉ tại đây ; một không gian thánh, với không gian này họ cùng hoạt động để gìn giữ căn tính và giá trị của họ. Khi họ sống trên mảnh đất của họ, thì chính họ là người gìn giữ nó tốt nhất. Trong nhiều phần trên trái đất, họ là đối tượng bị áp bức để lìa bỏ quê hương để cho mảnh đất này trống trải cho các dự án nông nghiệp và đánh cá, không chú tâm đến những tai hại trên thiên nhiên và văn hóa.
III. MÔI SINH HỌC CỦA ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY
147. Để nói về một sự phát triển đích thực, phải bảo đảm cho có một sự làm tốt trọn vẹn phẩm chất sống của con người, và điều này có nghĩa, người ta phải phân tích không gian, nơi con người đang sống. Khung trời bao quanh ảnh hưởng trên chúng ta trong cách nhìn cuộc sống, cảm nghiệm và hoạt động. Đồng thời, trong căn phòng của chúng ta, trong nhà, ngay nơi làm việc và trong khu phố, chúng ta sử dụng môi trường để diễn tả căn tính của mình. Chúng ta cố gắng thích ứng với môi trường chung quanh và khi môi trường này mất trật tự, xáo trộn hay bị lệnh lạc trong cái nhìn, trong tiếng ồn ào, đòi buộc chúng ta phải tìm ra nguyên nhân sự quá độ này để xây dựng lại căn tính trọn vẹn và hạnh phúc.
148. Thật đáng kinh ngạc cho sức sáng tạo và lòng quảng đại của một số người và một số nhóm, có khả năng nâng các ranh giới của môi trường, bằng cách thay đổi các hậu quả không thích hợp của các điều kiện và học hỏi để định hướng cuộc sống giữa những sự sái trật tự và không bảo đảm. Tỉ như có nhiều nơi, mặt tiền các ngôi nhà bị sa sút, có những người với nhiều phẩm chất, đã chăm sóc nội thất của họ, hay họ cảm thấy hạnh phúc vì sự thân mật và tình thân hữu của dân chúng chung quanh. Cuộc sống tích cực và hạnh phúc của dân chúng sẽ lan tỏa ánh sáng ra chung quanh chưa được thỏa đáng. Đôi khi môi sinh học nhân bản cũng đáng khen khi những người nghèo có thể phát triển giữa biết bao hạn hẹp. Cảm nghiệm nghẹt thở, do việc chất đống mọi thứ trong các căn phòng và các nơi đông nghẹt dân chúng tạo ra, có thể giải tỏa được, khi liên hệ giữa con người được phát triển nhờ sự gần gũi và nhiệt tâm thân thiện, khi các cộng đoàn được tạo nên, khi các ranh giới hạn hẹp môi trường trong thâm tâm mỗi người được giải tỏa vì cảm thấy mình được đón nhận vào trong mạng lưới một cộng đoàn và thuộc về nhau. Với cách thức này, không còn nơi nào là hỏa ngục cả và sẽ trở thành khung cho một cuộc sống xứng đáng.
149. Thật sự cũng rõ ràng, sự hủy hoại cực độ được cảm nghiệm trong nhiều hoàn cảnh, nơi không có sự hòa hợp, không gian và khả năng hội nhập, gây nên sự xuất hiện những thái độ bất nhân và thao tác trên con người qua các tổ chức tội phạm. Đối với dân chúng trong các phường khóm có vấn đề như thế, mỗi ngày bị ép vào một sự vô danh trong xã hội, mà người ta cảm nghiệm trong các thành phố lớn, một mặc cảm mất gốc đưa đến những thái độ chống đối xã hội và bạo lực. Nhưng tôi xin nhấn mạnh, tình yêu mạnh hơn. Trong các điều kiện này, nhiều người liên kết với những nhóm và chung sống với nhau, có thể thay đổi những đè nén trong cảm nghiệm của cộng đoàn, nơi giải tỏa được vách ngăn của cái tôi và chiến thắng được sự ích kỷ. Cảm nghiệm cứu độ dựa vào cộng đoàn là điều gây nên sự sáng tạo để làm tốt một ngôi nhà hay một khu phố.
150. Khi người ta xuất phát từ hiệu quả hỗ tương giữa không gian và thái độ của con người, những người vạch chương trình để xây dựng các cao ốc, những khu đô thị, các không gian rộng mở và thành phố, phải liên hệ với nhiều điều khác nhau, giúp hiểu được các tiến trình, biểu trưng và những thái độ của con người. Nếu chỉ lo làm đẹp không thôi thì chưa đủ, nhưng còn có giá trị nhiều hơn để phục vụ cho nhiều cách làm đẹp hơn nữa : phẩm chất đời sống con người, cách thích nghi của họ với môi trường, việc gặp gỡ và phụ giúp giữa nhau. Từ lý do đó, điều quan trọng, các viễn cảnh của dân chúng phải được luôn bổ túc cho sự phân tích qui hoạch thành phố.
151. Cần phải chăm sóc các nơi công cộng, các viễn cảnh và những điểm thông báo trong thành phố. Vì chúng ghi trong tâm hồn chúng ta ý nghĩa thuộc về, cảm giác căn cơ và ấn tượng “như trong nhà mình” ngay giữa thành phố đang ôm trọn và kết hợp chúng ta. Điều quan trọng là những phần khác trong thành phố được hội nhập trọn vẹn và dân chúng có được một toàn cảnh, thay vì tự đóng kín mình trong khu phố như một không gian thực sự chia sẻ với người khác. Tất cả sự can thiệp vào mảnh đất thuộc thành phố hay miền quê phải chú ý đến thực tế, những yếu tố khác nhau của địa phương, tạo nên một tổng thể mà dân chúng xem như một hình ảnh phong phú đầy ý nghĩa. Với cách này, những người khác sẽ không còn là kẻ xa lạ và cảm nghiệm là một thành phần của một thứ “chúng tôi” do chính chúng ta cùng nhau xây dựng. Cũng vì lý do đó, trong môi trường thành phố cũng như môi trường đồng quê, phải gìn giữ một vài nơi, tránh cho con người can thiệp vào, làm thay đổi.
152. Việc thiếu nơi cư trú là một vấn đề trầm trọng trong nhiều nơi trên thế giới, trong vùng đồng ruộng cũng như ngay giữa các thành phố lớn, chỉ vì quỹ nhà đất cho đô thành chỉ đáp ứng một phần nhỏ cho những người cần thiết. Không những kẻ nghèo mà ngay cả phần đông trong xã hội cũng gặp khó khăn trong vấn đề tìm một chổ trú ngụ riêng cho mình. Việc làm chủ một căn hộ cũng liên hệ rất nhiều đến phẩm giá của con người, cũng như sự phát triển của các gia đình. Đó cũng là một vấn nạn căn bản cho môn sinh thái nhân bản. Nếu như trong một nơi xác định đã có những ngôi nhà được xây thật lộn xộn, việc đầu tiên là thành phố hóa nơi này, nhưng không làm cho dân chúng mất gốc và giải tỏa họ. Nếu như những người nghèo sống trong những vùng ngoại ô dơ bẩn hay trong những xóm nhà nguy hiểm, nếu như người ta muốn giải tòa, thì “đừng gia tăng đau khổ thêm đau khổ […] nhưng cần phải cung cấp một dự án tương đối và sớm sủa, đưa ra những nơi trú ngụ xứng đáng và tham khảo cho những người có nhu cầu” [118]. Đồng thời sự sáng tạo phải hướng đến việc đưa các phường có vấn đề vào trong thành phố có thể đón nhận được. “Các thành phố tốt đẹp dường nào, có thể giúp vượt qua sự bất mãn bệnh hoạn bằng cách đưa những người khác biệt nhau vào trong một tác nhân phát triển. Thành phố đẹp chừng nào, ngay trong những kiến trúc, có nhiều chổ ở, tạo liên hệ và việc chấp nhận những người khác” [119].
153. Phẩm chất cuộc sống trong thành phố liên kết với việc chuyên chở, gây nhức nhối cho thị dân. Trong thành phố, nhiều chiếc ô-tô chỉ dành cho một hay hai người. Điều này làm cho việc giao thông ra nặng nề, mức độ ô nhiễm lại cao, một lượng lớn năng lượng không thể tái chế được sử dụng, và như thế cần có những xa lộ và chỗ đậu xe, ảnh hưởng đến cấu tạo của thành phố. Nhiều nhà chuyên môn đồng ý rằng, phải ưu tiên chú tâm đến phương tiện giao thông công cộng. Nhưng một số người chấp nhận cách khó khăn, nếu không cải thiện các phương tiện giao thông này, vì trong nhiều thành phố do quá đông người, bất tiện hay không được thuận lợi khi phải đi gần hay không được bảo đảm, cũng như hành khách không thân thiện.
154. Việc nhận thức phẩm giá đặc biệt của con người thường nghịch lại với cuộc sống xáo trộn mà con người phải chịu đựng trong thành phố. Nhưng điều này không được làm quên lãng và không chú trọng đến tình trạng bị bỏ rơi mà nhiều người đang sống trong vùng đồng ruộng phải chịu, nơi việc phục vụ cần thiết không đi đến được và cũng là nơi các người lao động bị rơi vào tình trạng nô lệ không có luật lệ và cũng không có một viễn ảnh cho một cuộc sống xứng đáng.
155. Môi sinh học nhân bản đòi buộc một điều căn bản hơn : liên hệ cần thiết của đời sống con người với lề luật luân lý được khắc ghi trong bản chất riêng của mình. Liên hệ này tất yếu để có thể tạo được một môi trường xứng đáng hơn. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI xác quyết : có một môi sinh học nhân bản (Õkologie des Menschen –écologie de l’homme) chỉ vì “con người có một bản chất mà họ phải tôn trọng và họ không thể nào muốn làm gì thì làm theo ý mình” [120] Theo nghĩa này, người ta phải công nhận rằng, thân xác chúng ta đặt chúng ta vào một liên hệ trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Việc chấp nhận thân xác của mình như là hồng ân của Thiên Chúa, cần thiết phải đón nhận và chấp nhận trọn cả thế giới cũng là hồng ân của Cha và là ngôi nhà chung; trong khi lý luận cho việc làm chủ thân xác dễ dàng trở thành lý luận làm chủ cả thiên nhiên. Phải học hỏi để chấp nhận thân xác của mình, để chăm sóc và tôn trọng những ý nghĩa đa dạng, là sinh thái học nhân bản đích thực. Cũng như việc đánh giá thân xác mình là nam hay nữ cũng cần thiết, để có thể nhận ra chính mình trong việc gặp gỡ với người khác mình. Với cách này, có thể vui mừng đón nhận hồng ân đặc biệt của kẻ khác là đàn ông hay đàn bà, là công trình của Thiên Chúa, và giúp làm phong phú cho nhau. Vì thế, thái độ cho rằng “phải xóa đi sự khác biệt giữa tính dục, vì không còn biết xử lý như thế nào”, là thái độ không lành mạnh” [121].
IV. NGUYÊN TẮC CÔNG ÍCH
156. Môi sinh học nhân bản không thể tách rời với ý niệm công ích, một nguyên tắc giữ vai trò trung tâm và kết hợp trong đạo đức xã hội. Đó là “toàn bộ các điều kiện cho một cuộc sống xã hội, cho từng nhóm cũng như cho từng cá nhân, có thể đạt được cách dễ dàng sự toàn thiện trọn vẹn” [122].
157. Công ích xuất phát từ sự tôn trọng con người như là điều xuất phát từ các lề luật nền tảng và bất biến, nhằm vào sự phát triển toàn diện. Công ích cũng đòi hỏi thiện ích xã hội và sự phát triển những nhóm khác biệt trung gian, dựa theo nguyên tắc bổ trợ. Giữa những người này, gia đình là tế bào gốc cho xã hội. Cuối cùng, thiện ích đòi buộc sự hoà bình xã hội, có nghĩa là sự bền vững và đảm bảo cho một trật tự xác định, không thể thực hiện được, nếu không có sự chú tâm đặc biệt đến công bình phân phối, mà việc vi phạm luật này sẽ luôn tạo nên bạo lực. Toàn thể xã hội – trong đó một cách đặc biệt là thành phố – có trách nhiệm đòi buộc vào bảo vệ công ích.
158. Trong những điều kiện hiện hành của xã hội toàn cầu, trong đó có rất nhiều bất bình đẳng trong xã hội và luôn luôn có nhiều người bị loại trừ, bị cướp đi các luật lệ cơ bản cho nhân phẩm, việc áp dụng nguyên tắc công ích như hệ quả hợp lý và không thể phủ nhận được, một lời kêu gọi tình liên đới và một định kiến ưu tiên cho người nghèo khổ nhất. Định kiến này mang ý nghĩa, được xem như rút ra từ những hệ luận của việc xác định chung về của cải trái đất, nhưng, như tôi đã cố gắng giải thích trong tông huấn Evangelii Gaudium –Niềm Vui Tin Mừng [123] – nó đòi buộc trước tiên phải nhìn phẩm giá vô hạn của những người nghèo trong ánh sáng đức tin sâu xa nhất. Chỉ cần nhìn thực tại để hiểu rằng, định kiến này là một sự đòi hỏi đạo đức căn bản để thực hiện cách hữu hiệu cho công ích.
V. SỰ CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THẾ HỆ
159. Quan niệm về công ích phải liên hệ đến các thế hệ tương lai. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho thấy những hậu quả tác hại nặng nề nhất, đưa đến việc không công nhận một số phận chung mà những người đến sau chúng ta bị loại ra ngoài. Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được. Nhớ đến hoàn cảnh này, trong đó chúng ta đã để lại hành tinh cho những thế hệ tương lai, chúng ta sẽ bước vào một lôgic khác về quà tặng nhưng không, mà chúng ta đã nhận và sẽ trao lại. Khi trái đất được ban cho chúng ta, thì chúng ta không thể nào chỉ nghĩ theo tiêu chuẩn hiệu năng và khả năng sản xuất cho việc sử dụng cá nhân chúng ta được. Chúng ta không thể nói về thái độ theo định kiến, nhưng về một câu hỏi căn bản về công bằng, vì trái đất mà chúng ta lãnh nhận, cũng thuộc về những người sẽ tới. Các Đức Giám Mục Bồ Đào Nha khuyến khích đón nhận trách nhiệm công bằng này: “Môi trường nằm trong lôgic của việc đón nhận. Đó là món quà vay mượn, mà mỗi thế hệ đón nhận và phải tiếp tục trao cho những thế hệ tiếp nối” [124]. Một sinh thái học trọn vẹn phải có viễn ảnh này.
160. Chúng ta muốn trao lại một trái đất nào cho những người tiếp nối chúng ta, cho con cái đang lớn của chúng ta? Câu hỏi này không những liên quan đến môi trường cách độc lập, chỉ vì người ta không thể đặt câu hỏi này cách manh múng được. Khi tự hỏi về trái đất mà chúng ta muốn để lại, chúng ta có ý nói đến định hướng của nó cách chung, ý nghĩa và giá trị của nó. Nếu câu hỏi này không được suy xét kỹ, tôi không tin rằng những ưu tư của chúng ta về môi sinh có thể đạt được kết quả có ý nghĩa. Nhưng nếu câu hỏi này được can đảm đặt ra, nó sẽ dẫn chúng ta đến những câu hỏi khác một cách trực tiếp hơn: tại sao chúng ta bước qua thế giới này? chúng ta bước vào cuộc sống này để làm gì? chúng ta làm việc để làm gì cho mệt? thế giới này tại sao cần đến chúng ta? Vì thật ra, nói mãi cũng không đủ, tại sao chúng ta phải lo lắng cho thế hệ tương lai? Chúng ta phải ý thức rằng, chúng ta đang đặt phẩm giá của chúng ta lên bàn cân. Chúng ta là những người đầu tiên chú tâm đến việc để lại cho hậu thế một hành tinh có thể trú ngụ được. Đó cũng là bi kịch cho chính chúng ta, vì điều này cho thấy ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trái đất này đang bị gặp khủng hoảng.
161. Những tiền dự bi thảm không thể bị đánh giá thấp hoặc cười cợt được. Chúng ta có thể để lại cho những thế hệ tiếp sau quá nhiều đống đổ nát, hoang mạc và dơ bẩn. Mức độ tiêu thụ, sử dụng phung phí và thay đổi thế giới xung quanh vượt quá khả năng của hành tinh, đến độ cách sống hiện tại mà chúng ta đang thực hiện, sẽ chấm dứt trong tại hoạ, như đã xuất hiện theo chu kỳ trong nhiều vùng khác nhau. Việc giảm bới các hậu quả của sự bất bình đẳng hiện tại, lệ thuộc vào điều chúng ta đang làm, nhất là, khi chúng ta nghĩ đến trách nhiệm mà những người phải gánh lấy những điều tồi tệ do chúng ta đã làm.
162. Khó khăn để đón nhận những thách đố này có liên hệ với việc sa đoạ đạo đức và văn hoá, kèm theo sự sa sút về mặt môi sinh. Con người hậu thời tân tiến sẽ gặp nguy hiểm ngay trong chính cá nhân của mình, và rất nhiều vấn đề xã hội liên hệ đến chủ thuyết cấp thời ích kỷ, với cuộc khủng hoảng trong liên hệ gia đình và xã hội, cùng với những khó khăn trong việc liên hệ với đồng loại. Một sự tiêu thụ trực tiếp và quá đáng của cha mẹ gây tai hại cho chính con cái mình, về lâu về dài sẽ khó khăn hơn để tậu một ngôi nhà và lập một gia đình. Ngoài ra, sự bất lực của chúng ta để suy nghĩ cẩn thận về các thế hệ tương lai, liên kết với sự bất lực để triển khai quan niệm của chúng ta về những việc chú tâm hiện tại và suy nghĩ về những người bị loại ra khỏi sự phát triển. Chúng ta không những suy nghĩ đến những người nghèo khổ trong tương lai. Thật cũng đủ để suy nghĩ đến những người nghèo trong hiện tại, họ có rất ít năm để sống trên trần gian này và không còn tiếp tục chờ đợi được nữa. Vì thế, “cận kề sự liên đới với các thế hệ […] cần phải nhấn mạnh về mặt luân lý đến sự liên đới ngay trong một thế hệ” [125].
***
CHƯƠNG V
VÀI NÉT CHO ĐỊNH HƯỚNG VÀ HOẠT ĐỘNG
 
163. Tôi tìm cách để phân tích hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, và biết bao sự đổ vỡ có thể quan sát trên hành tinh chúng ta đang trú ngụ, và những nguyên nhân sâu xa do con người đưa đến việc tàn phá môi trường. Dù việc quan sát thực tế này cho chúng ta thấy sự cần thiết phải thay đổi định hướng, và gợi lên cho chúng ta một số hành động, chúng ta hãy cố vạch ra những đường nét chính của đối thoại, ngõ hầu có thể bước ra khỏi vòng xoáy của việc tự huỷ hoại chính mình mà chính chúng ta đang chết dí trong đó.
I. CUỘC ĐỐI THOẠI VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CHÍNH TRỊ TOÀN CẦU
164. Từ giữa thế kỷ cuối cùng và sau những vượt thắng nhiều khó khăn, người ta càng ngày càng ý thức, hành tinh này như quê hương và nhân loại là một dân cùng trú ngụ trong một ngôi nhà chung. Một thế giới phụ thuộc lẫn nhau không những phải nắm vững những hệ quả tai hại của cách sống, cách sản xuất và thái độ tiêu thụ… đều ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhưng nhất là phải lo sao để đề ra được những cách giải quyết có tầm mức toàn cầu chứ không phải chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cho vài quốc gia. Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải nghĩ đến một thế giới duy nhất, một chương trình chung với nhau. Cũng như tài năng khôn ngoan được sử dụng cho sự phát triển kỹ thuật lớn lao, cũng khó tìm được những hình thức hữu hiệu cho việc quản lý toàn cầu, để giải quyết các vấn đề khó khăn của môi trường và xã hội. Để đối mặt với các vấn đề nền tảng không thể giải quyết dựa theo các hoạt động của từng đất nước đơn độc, cần phải có một sự đồng thuận toàn cầu, ví dụ như, đưa ra một chương trình nông nghiệp lâu dài và đa dạng, triển khai những hình thức sử dụng năng lượng có thể tái tạo và ít ô nhiễm, đòi buộc có một cách sản xuất năng lượng thích hợp hơn, cố gắng quản lý các tài nguyên của rừng, của biển và bảo đảm nước uống cho mọi người.
165. Chúng ta biết, khoa học kỹ thuật dựa trên việc đốt cháy các quặng mỏ, làm ô nhiễm môi trường thật nhiều – nhất là than đá, cũng có dầu mỏ và một lượng ít hơn là khí đốt – cần phải thay đổi tiệm tiến và không thể chờ đợi được nữa. Bao lâu chưa tìm được cách phát triển những năng lượng có thể tái chế, thì được phép lựa chọn điều ít xấu hơn hoặc phải lấy lại những giải pháp chuyển tiếp. Dù vậy, trong cộng đồng toàn cầu, khó mà đi đến sự hợp nhất tương đối về trách nhiệm của những người phải gánh lấy giá thành của việc chuyển tải năng lượng. Vào những thập niên cuối, những vấn đề về môi trường đã đưa đến nhiều cuộc tranh luận công khai, đã tạo nên trong cộng đồng xã hội những không gian cho một quyết tâm mạnh mẽ và một cuộc dấn thân quảng đại. Chính trị và doanh nghiệp phản ứng thật chậm, thật xa vời với những đòi hỏi toàn cầu. Theo nghĩa này, người ta có thể nói: trong khi nhận loại sống trong thời hậu kỹ nghệ, có lẽ là một thời đại lịch sử vô trách nhiệm, người ta hy vọng rằng nhân loại vào đầu thế kỷ XXI có thể vẫn nhớ, để có thể đón nhận trách nhiệm khó khăn này với tấm lòng quảng đại.
166. Phong trào sinh thái đã có một quá trình lâu dài, được nhiều tổ chức xã hội nỗ lực bồi đắp. Khó mà kể hết các tổ chức này, cũng như ghi lại lịch sử đóng góp của họ. Nhưng nhờ vào một sự dấn thân mạnh mẽ mà những vấn đề môi sinh càng ngày càng được phổ biến trên các trang tin tức và luôn luôn trở thành một lời mời để suy nghĩ lâu dài. Dù vậy, những cuộc gặp gỡ trao đổi về môi trường toàn cầu của năm cuối cùng không đáp ứng được nguyện vọng, vì thiếu quyết định chính trị, nên không đạt được thoả thuận có ý nghĩa, có thể đem lại nhiều hiệu quả về môi trường.
167. Chỉ cần nêu lên Hội Nghị Về Trái Đất tại Rio de Janeiro vào năm 1992. Hội nghị công bố: “Nhân loại đang đứng ngay trung tâm những cố gắng cho một cuộc phát triển lâu dài” [126]. Liên kết với nội dung các tuyên bố tại Stockholm (1972), hội nghị đã phát biểu cách long trọng về việc cộng tác toàn cầu, để chăm sóc cho hệ thống môi sinh trên toàn trái đất, về trách nhiệm đóng góp tài chính của những người gây nên việc ô nhiễm môi trường ; về trách nhiệm phải khảo sát tác động vào mội trường của từng công trình và dự án. Hội nghị đề xuất phải xác định sự tập trung cao độ của việc phun khí thải vào trong bầu khí quyển, hầu giảm bớt việc nóng dần lên của bầu khí quyển. Hội nghị cũng tạo ra một nhật ký với một chương trình hành động và một sự đồng thuận về sự khác biệt sinh thái cũng như tuyên bố những nguyên tắc về rừng rậm. Dù hội nghị đạt được mọi sự mong đợi và trong thời gian đó mang một tính chất tiên tri, các thoả thuận cũng ít được đem ra thực hiện, chỉ vì không có guồng máy nào thích hợp để kiểm soát, đánh giá từng giai đoạn và xử lý những hành động vi phạm. Các nguyên tắc đề ra cần có những phương tiện vừa nhẹ nhàng, vừa hiệu quả, để đem ra thực hiện cụ thể.
168. Giữa các kinh nghiệm tích cực, người ta có thể kể, tỉ như, khế ước Bâle về các thứ rác thải nguy hiểm với một hệ thống thông báo, luật tiêu chuẩn và kiểm soát ; cũng như người ta nói đến khế ước về việc buôn bán trên toàn cầu, về các động vật và thực vật đang bị đe doạ tuyệt chủng, cùng với trách nhiệm phải tôn trọng có hiệu quả. Cám ơn sự thoả thuận ở Vienne về việc bảo vệ tầng ozon và bắt đầu được thực hiện qua bản báo cáo ở Montréal và nhờ các điều chỉnh, xem ra người ta cố gắng giải quyết vấn đề tầng khí quyển này đang bị giảm bớt.
169. Những tiến bộ về mặt bảo vệ sự đa dạng sinh học và việc hoang mạc hoá, xem ra không có bao nhiêu. Những tiến bộ về mặt biến đổi khí hậu lại càng ít hơn nữa. Việc giảm bớt khí thải đòi hỏi sự minh bạch, can đảm và trách nhiệm của các nước gây ô nhiễm nhiều và mạnh mẽ nhất cho môi trường. Hội nghị tại Hiệp Chủng Quốc về việc phát triển lâu dài, được gọi là Rio + 20 (Rio de Janeiro 2012), đã đưa ra một tuyên bố bế mạc dài và không có hiệu quả. Việc trao đổi quốc tế không có bước tiến tốt đẹp nào cả, vì họ đặt quyền lợi quốc gia lên trên công ích. Những người phải đau khổ vì hậu quả mà chúng ta cố gắng che đậy, đều nhớ đến việc thiếu lương tâm và trách nhiệm. Trong khi thông điệp này được soạn thảo thì cuộc tranh luận đã được chú tâm cách đặc biệt. Chúng ta, những người tin, không được phép dừng việc khẩn cầu Thiên Chúa, để có những bước tiến tích cực trong các cuộc thảo luận hiện hành, để các thế hệ tương lai không phải đau khổ vì những hệ luận chậm trễ thật bất công.
170. Một vài chiến thuật cho việc loại bỏ những khí gây ô nhiễm môi trường, tìm cách quốc tế hoá các giá trị môi sinh đang gặp nguy hiểm vì áp đặt lên các nước có ít tài nguyên, những trách nhiệm nặng nề để thu hẹp lại việc thải khí gây ô nhiễm, so với những nước phát triển công nghiệp hơn. Việc áp đặt những gánh nặng trên các nước, cần được phát triển nhiều hơn. Theo cách này, đó là môt sự bất công dưới chiêu bài bảo vệ môi sinh. Điều này luôn xảy ra cho những nước yếu kém nhất. Phải chấp nhận rằng, hậu quả của việc biến đổi khí hậu đã được cảm nhận từ lâu, hiện tại mức độ lại quá cao, một số quốc gia có ít tài nguyên, cần sự giúp đỡ, để có thể thích ứng với các hậu quả đã xuất hiện và gây tai hại cho nền kinh tế của họ. Trước cũng như sau, phải có những trách nhiệm chung, nhưng rất khác biệt, như các Đức Giám Mục Bolivia đã nói: “Các nước được hưởng lợi với mức độ công nghiệp cao hơn, do việc thải khí gây hiện tượng nhà kín, phải có trách nhiệm nhiều hơn, để giải quyết vấn đề mà chính họ đã gây nên” [127].
171. Chiến thuật của mua và bán “chứng chỉ khí thải” có thể trở thành cái cớ cho một hình thức tự biện, và điều này không thể sử dụng để đúc kết việc thải khí độc hại của toàn cầu. Hệ thống này xem ra là cách giải quyết nhanh gọn và dễ dàng, dưới vỏ bọc của một sự dấn thân nào đó cho môi trường, nhưng không đưa ra một cách thức nào cho sự thay đổi triệt để do hoàn cảnh đưa đến. Ngược lại, nó có thể xoay sở, làm quên đi điều chính yếu, và cho phép nâng đỡ lượng quá tải của những quốc gia và các vùng.
172. Những nước nghèo cần phải loại trừ các đau khổ và ưu tiên cho một sự phát triển xã hội cho dân chúng. Họ cần phải phân tích mức độ tiêu thụ quá đáng của những nhóm ưu đãi và kiểm soát tốt hơn sự huỷ hoại. Thật sự, họ phải triển khai những hình thức ít ô nhiễm hơn về mặt sản xuất năng lượng, nhưng để đạt được họ phải dựa vào sự trợ giúp của những nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, đối mặt với ô nhiễm hiện tại của hành tinh. Việc sử dụng trực tiếp năng lượng mặt trời cách phong phú, cũng cần đến máy móc và sự hỗ trợ, để các nước phát triển có thể nhận được kỹ thuật, các người trợ lý kỹ thuật và tài chánh, nhưng phải luôn luôn chú ý đến những điều kiện cụ thể, vì “cơ sở hạ tầng không phải luôn luôn thích hợp với những gì người ta quy hoạch” [128]. Giá thành sẽ bớt đi, nếu người ta so sánh với những nguy hiểm của việc biến đổi khí hậu. Nhưng trước tiên vẫn là một quyết định luân lý, dựa trên tình liên đới giữa các dân tộc.
173. Vì những yêu cầu của địa phương thường rất yếu để có thể can thiệp cách hữu hiệu nên để thay đổi, cần có những sự đồng thuận quốc tế. Liên hệ giữa các quốc gia phải tôn trọng chủ quyền của mỗi nước, nhưng phải cùng nhau xác định con đường được thảo thuận, để có thể loại bỏ tai hoạ ở địa phương, bởi tai hoạ này cuối cùng cũng sẽ ảnh hưởng đến tất cả quốc gia khác. Vẫn còn thiếu những quy định chung đề ra trách nhiệm và ngăn chặn những hành động không thể chấp nhận, tỉ như các quốc gia có quyền lực đem vào những nước khác các rác thải và công nghệ độc hại cho môi trường.
174. Cũng phải cảnh báo về hệ thống quản lý các đại dương. Cho dù đã có những thoả thuận quốc tế hoặc địa phương, nhưng do sự phân tán và thiếu bộ máy kiểm soát nghiêm khắc để đưa ra những quy định và phê chuẩn, cuối cùng làm mất đi mọi cố gắng. Vấn đề gia tăng rác thải vào trong biển và việc bảo vệ các vùng biển vượt quá biên giới quốc tế, đã đưa ra một thách đố đặc biệt. Cuối cùng, chúng ta cần đạt tới một sự thỏa thuận về quy định trật tự và cơ cấu chính trị cho toàn bộ điều được gọi là “công ích toàn cầu” [globalen Gemeinwohls – biens communs globaux]
175. Cùng một lý luận như thế, cũng rất khó để có được quyết định nghiêm khắc cho việc thay đổi xu hướng về việc hâm nóng trái đất, và cũng khó đạt tới việc thực hiện mục đích là đẩy lui nghèo khó. Chúng ta cần một phản ứng có trách nhiệm toàn cầu, vừa thu hẹp lại việc ô nhiễm môi trường, vừa chú tâm đến việc phát triển các quốc gia cũng như các vùng nghèo. Bước vào thế kỷ XXI mà người ta vẫn giữ hệ thống cai quản của thời quá khứ, đó là sân khấu cho việc tiến lên của các quốc gia nắm quyền lực, nhất là về mặt kinh tế và tài chính mang hướng liên quốc gia, khống chế cả chính trị. Trong hoàn cảnh này, phải phát huy những cơ quan quốc tế vừa mạnh mẽ vừa có hiệu lực và có quyền lực thưởng phạt. Cũng theo chiều hướng này mà Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội được triển khai, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh: “Để hướng dẫn nền kinh tế thế giới, để chữa lành những nền kinh tế đang gặp cơn khủng hoảng, đế báo trước sự trầm trọng đưa tới sự bất bình đẳng, để thực hiện việc giải giới trọn vẹn, để đạt được sự bảo đảm về mặt lương thực và hoà bình, để bảo vệ môi trường và ngăn chặn làn sóng di tản, cần phải có một thẩm quyền chính trị toàn cầu [politischen Weltautoritãt – Autorité politique mondiale] như Đấng tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói.” [129]. Trong viễn cảnh này, các bộ ngoại giao mang nhiều ý nghĩa tròn đầy để vận động các chiến lược toàn cầu hầu giải quyết các vấn đề trầm trọng nhất, gây tác hại cho mọi người.
II. CUỘC ĐỐI THOẠI VỀ QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ MỚI THUỘC QUỐC GIA VÀ ĐỊA PHƯƠNG
176. Đương nhiên vẫn luôn có kẻ thắng người thua trong các nước khác nhau, nhưng ngay giữa các nước nghèo, phải nhìn nhận có nhiều trách nhiệm khác nhau. Vì thế, những vấn đề môi trường và phát triển kinh tế, không thể chỉ đặt từ sự khác biệt giữa các nước, nhưng đòi buộc người ta phải chú ý đến chính trị quốc gia và địa phương.
177. Đối mặt với việc có thể sử dụng vô trách nhiệm của khả năng con người, phận vụ tất yếu của mỗi nhà nước là phải đưa ra chương trình cho chính địa phương của mình, phối hợp, kiểm soát và xử phạt. Làm thế nào một xã hội có thể chuẩn bị và bảo vệ tương lai của mình trong một bối cảnh có nhiều đổi mới kỹ thuật? Quyền thiết đặt các luật lệ cho những thái độ có thể chấp nhận dựa theo công ích, là một động lực tác động vào sự điều hành quan trọng. Các ranh giới mà một xã hội lành mạnh, trưởng thành và quyền lực, phải gắn liền với các dự đoán, quy định luật lệ cách điều độ, kiểm soát việc áp dụng các chỉ thị, chống lại việc sa đoạ, hành động kiểm soát hữu hiệu của những hậu quả không lường trước trong tiến trình sản xuất và tác động có mục đích khi phải đối diện với các thách đố có thể xảy ra. Việc ban bố luật lệ có gia tăng, nhưng phải nhằm làm giảm bớt các hậu quả việc gây ô nhiễm do hoạt động của các doanh nghiệp. Phạm vi chính trị và cơ chế không chỉ hiện hữu để tránh các hành vi xấu, nhưng còn để động viên các hành động tốt, kích thích sự sáng tạo để tìm những con đường mới, để tạo điều kiện dễ dàng cho các sáng kiến cá nhân hoặc tập thể.
178. Bi kịch của chương trình chính trị “nhanh chóng” [“immédiateté” politique] được các nhóm tiêu thụ ủng hộ, đưa đến sự cần thiết để gia tăng thật nhanh. Đáp ứng các lợi ích cho việc bầu chọn, các chính quyền không dễ dàng chấp nhận điều nguy hiểm làm phật lòng dân chúng, gây tổn thất cho mức độ tiêu thụ hoặc có thể gây nguy hiểm cho việc đầu tư của ngoại quốc. Cái nhìn thiển cận trong việc xây dựng quyền lực làm chậm lại việc đón nhận một chương trình với viễn cảnh rộng lớn trong nghị trình công khai của chính quyền. Người ta quên rằng “thời gian có giá trị hơn là không gian” [130]; rằng chúng ta sẽ giàu sang hơn, khi chú tâm giải quyết các tiến trình hơn là thống trị không gian quyền lực. Sự vĩ đại của chính trị cho thấy rõ, trong những hoàn cảnh khó khăn, người ta sẽ hành động theo những nguyên tắc mang ý nghĩa và cùng lúc suy nghĩ về công ích lâu dài. Rất khó cho quyền lực chính trị khi phải đảm nhận trách nhiệm này trong một dự án quốc gia.
179. Trong một số vùng đã phát triển những tổ hợp tác xã cho việc sử dụng các năng lượng có thể tái sinh, có khả năng tự quản và bán ra các sản phẩm dư thừa. Ví dụ đơn sơ này cho thấy: trong khi trật tự hiện hành của thế giới không có khả năng để nhận trách nhiệm, thì cơ quan địa phương có thể tạo một điều khác biệt. Chỉ vì nơi đó, người ta đã suy nghĩ về điều họ sẽ để lại cho con cái cháu chắt, từ đó, họ có một trách nhiệm lớn, một ý nghĩa cộng đồng mạnh mẽ, một khả năng đặc biệt để tiên đoán, một sự sáng tạo nhiệt tình và một tình yêu chân thật cho đất nước họ. Những giá trị này bắt nguồn từ việc dân chúng hợp nhất với nhau. Sau khi nhận thấy luật pháp đôi khi không đủ mạnh để loại sự huỷ hoại, vì thế cần có quyết định chính trị do áp lực của quần chúng. Xã hội, ngang qua các cơ quan không thuộc chính quyền và các hiệp hội trung gian, phải buộc chính quyền triển khai các luật lệ, thủ tục và kiểm soát gắt gao hơn. Khi công dân không kiểm soát quyền lực quốc gia, địa phương và thôn xóm, thì cũng không thể có việc kiểm soát các tai hoạ gây ra cho môi trường. Mặt khác, các lề luật của cộng đồng sẽ hữu hiệu hơn, nếu như có sự đồng thuận giữa dân chúng, để nâng đỡ các chính trị gia có lưu tâm đến môi trường.
180. Người ta không thể tưởng tượng đến các đề nghị đồng thuận, vì mỗi quốc gia hoặc các vùng đều có những vấn đề và ranh giới đặc biệt. Thật vậy, thực tế chính trị có thể đòi hỏi những mức độ và kỹ thuật chuyển tiếp, dưới điều kiện chúng phải luôn luôn đồng hành với dự án và sự chuẩn nhận trách nhiệm của các bên ký kết. Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương có quá nhiều việc để thực hiện, tỉ như trên lãnh vực đòi hỏi các hình thức kinh tế về năng lượng. Điều này cũng tạo điều kiện cho những cách thức sản xuất kỹ nghệ có một hiệu quả cao độ về năng lượng, và ít sử dụng các chất liệu thô, nhận từ thị trường các sản phẩm không có nhiều hiệu quả về năng lượng, hoặc gây nhiều ảnh hưởng cho môi trường. Chúng ta cũng ghi nhận một sự kiểm soát tốt đẹp về giao thông hoặc các hình thức xây dựng và thông thoáng các cao ốc, qua đó có thể rút bớt việc sử dụng năng lượng và mức độ ô nhiễm. Mặt khác, hoạt động chính trị địa phương có thể hoạt động để điều tiết sự tiêu thụ, phát triển kinh tế tái định giá, chú tâm bảo vệ các giống loài và đặt chương trình cho nông nghiệp đa dạng với việc thay đổi các hoa trái. Cũng có khả năng làm tốt lên các vùng nông nghiệp của các nơi nghèo khổ nhờ đầu tư vào các cơ sở hạ tầng của nông nghiệp, trong cách tổ chức thị trường địa phương hoặc quốc gia, trong việc đặt hệ thống cung cấp nước, trong việc phát triển kỹ thuật nông nghiệp lâu dài và nhiều điều khác. Người ta có thể tạo thuận lợi cho việc cộng tác chung hay các tổ chức cộng đồng, là những nhóm bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất nhỏ và bảo đảm hệ thống sinh thái địa phương. Có rất nhiều điều người ta có thể làm.
181. Dù chính quyền tương đối có thể thay đổi, nhưng chính trị về việc thay đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, vẫn phải tiếp tục. Các kết quả đòi hỏi nhiều thời gian và phải nêu giá cả trực tiếp với các hiệu quả mà trong thời gian cai trị của chính quyền không thể minh chứng được. Vì thế, không cần can thiệp vào sự đè nén của quần chúng và của các cơ chế, nhưng luôn luôn có sự chống đối, và còn nhiều hơn nữa, khi cần phải giải quyết những trường hợp khẩn cấp. Nếu một chính trị gia nhận những trách nhiệm này với những giá phải trả, sẽ không thích ứng với lý lẽ hiệu quả và trực tiếp về mặt kinh tế cũng như nền chính trị hiện hành, nhưng nếu ông làm, ông sẽ nhận lại được phẩm giá của mình, do chính Thiên Chúa ban cho ông là con người và trên con đường của ông qua lịch sử, ông đã để lại dấu chứng một trách nhiệm lớn của ông. Phải đưa ra quyền ưu tiên cho một chính trị kiên vững, sẽ canh tân các tổ chức và kết hợp chúng lại và công nhận các thực hành tốt đẹp không gây áp lực và khó khăn. Cần phải thêm, các bộ máy tốt cuối cùng cũng phải đào thải vì thiếu những mục đích lớn, các giá trị và quan niệm nhân bản, mà mỗi cộng đồng phải có một định hướng quý giá và quảng đại.
III. ĐỐI THOẠI VÀ MINH BẠCH TRONG CÁC TIẾN TRÌNH QUYẾT ĐỊNH
182. Việc tiền dự tác động vào môi trường của các doanh nghiệp và dự án đòi buộc tiến trình chính trị rõ ràng và lệ thuộc vào đối thoại, trong khi sự huỷ hoại ẩn kín sự tàn phá môi trường của một dự án do thoả thuận, thường đưa đến đồng thuận âm thầm, qua đó người ta tránh đưa ra những thông tin và những cuộc tranh luận rộng rãi.
183. Một sự tìm hiểu tác động vào môi trường không thể nằm trong kết luận của sự kiến tạo một dự án sản xuất hoặc bất cứ động cơ chính trị nào, một quy hoạch hay chương trình thực hiện. Việc tìm hiểu này phải có ngay từ đầu và tìm hiểu trên nhiều bình diện, rõ ràng và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế hoặc chính trị. Việc tìm hiểu này phải liên kết với việc phân tích các điều kiện lao động và những hậu quả khả thể – tỉ như trên sức khỏe thể lý và tinh thần của con người, trên kinh tế địa phương, trên sự an toàn. Những kết luận kinh tế có thể đúc kết thật cụ thể dựa vào những kết quả kinh tế, trong đó người ta có thể nhìn từng kịch bản khả thể và tiên liệu sự cần thiết một sự đầu tư lớn hơn để đối mặt với các hậu quả bất ngờ có thể sửa sai được. Luôn luôn cần đến sự đồng thuận của nhiều tác nhân xã hội, có thể đưa ra những viễn cảnh, những giải đáp và những thay đổi khác nhau. Nhưng trên bàn thảo luận, cần phải có một vị trí ưu tiên cho dân chúng địa phương; họ sẽ tự hỏi điều họ mong muốn cho chính mình và con cái họ, họ có thể nhắm vào các mục tiêu vượt quá lợi ích kinh tế hiện tại. Người ta phải bỏ đi ý tưởng “can thiệp” vào môi trường, để kiến tạo những thứ chính trị được đón nhận và bàn thảo do những thành phần tìm thấy lợi ích. Việc tham gia đòi buộc tất cả mọi người đều được thông tin thích hợp cũng như về các nguy cơ cũng như khả thể ; việc tham gia không thể đúc kết trong quyết định thực hiện một dự án, nhưng cần có những hành động tiếp theo và kiểm soát liên tục. Sự thành thật và chân lý cần thiết trong tất cả các cuộc tranh luận khoa học và chính trị, chứ không chỉ hạn hẹp vào điều luật pháp cho phép hay không.
184. Nếu có những bất trắc xuất hiện cho môi trường, có thể ảnh hưởng đến công ích hiện tại hoặc tương lai, hoàn cảnh như vậy, “đòi buộc mọi quyết định dựa vào nền tảng đối mặt giữa nguy hiểm và lợi ích có thể thấy được trong từng lựa chọn” [131]. Điều này có giá trị, khi một dự án có thể kéo theo việc gia tăng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, gia tăng sự phát tán hoặc sản xuất nhiều rác thải, đưa đến một sự sa sút, một sự thay đổi có ý nghĩa cho đồng ruộng, gây tai hại cho không gian sinh sống của nhiều giống loài hoặc một không gian công cộng. Những dự án không được phân tích đầy đủ có thể gây hại cho phẩm chất sống của một địa phương dựa vào những vấn đề khác biệt, tỉ như gây ồn ào, ngăn chặn tầm nhìn, đánh mất giá trị văn hoá, hậu quả của việc sử dụng năng lượng hạch tâm. Văn hoá tiêu thụ tạo sự ưu tiên cho việc sống vội và dành cho tư lợi, đưa đến những thủ tục nhanh chóng hoặc che đậy các thông tin.
185. Cần phải nhận thức, khi chấp nhận một dự định cho một sự phát triển thật sự trọn vẹn, người ta phải suy nghĩ đến những câu hỏi trong khi tranh luận như sau: ích lợi gì? tại sao? nơi nào? khi nào? cách thức nào? cho ai? những nguy cơ có thể xảy ra? với giá thành như thế nào? ai sẽ chi trả? người đó sẽ làm như thế nào? Trong thảo luận này có những câu hỏi ưu tiên. Tỉ như, chúng ta biết, nước là một nguồn hạn hẹp và luật căn bản là việc sử dụng phải tuỳ thuộc vào quyền của những người khác. Điều này không thể nghi ngờ gì được và đặt mỗi sự phân tích về tai hại cho môi trường trong điều kiện của một vùng .
186. Tuyên bố của hội nghị tại Rio vào năm 1992 có nói: “Trong trường hợp những bất trắc gây tai hại trầm trọng và lâu dài, sự thiếu sót về hiểu biết hoàn toàn khoa học không thể là lý do để tái đặt lại tài chính để ngăn chặn sự xuống dốc của môi trường” [132]. Nguyên tắc phòng ngừa này được đặt lên để bảo vệ những người yếu đuối, không có phương tiện để sử dụng, để tự bảo vệ và để đưa ra những chứng cứ không thể phủ nhận được. Khi thông tin khách quan cho thấy trước một sự tàn hại trầm trọng và không thể sửa đổi được, mỗi dự án như thế phải dừng lại và được bổ túc. Như thế, trách nhiệm minh chứng, trong những trường hợp như thế, đưa ra một bằng chứng khách quan và không thể bàn cãi được, để thấy hoạt động được đề nghị không gây những tai hại trầm trọng cho môi trường và cho cư dân địa phương.
187. Điều này không có nghĩa là phải chống lại từng việc canh tân kỹ thuật, cho phép làm tốt phẩm chất sống của dân chúng. Nhưng trong tất cả những trường hợp, phải tuân giữ câu nói căn bản, khả năng sinh lợi không phải là tiêu chuẩn duy nhất đế chú tâm vào, và ngay khi xuất hiện những tiêu chuẩn mới để phê phán do sự phát triển trình độ hiểu biết, cần phải có một đánh giá mới do tất cả những bộ phận tham gia. Kết quả cuộc trao đổi có thể là quyết định không tiếp tục dự án, những cũng có thể thay đổi hoặc triển khai các đề nghị tương ứng.
188. Có nhiều cuộc tranh luận về đề tài môi trường, nhưng không đạt được sự đồng thuận. Một lần nữa tôi xin nhấn mạnh, Giáo Hội không có ý định giải quyết những vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi một cuộc tranh luận thẳng thắng và rõ ràng, để những nhu cầu đặc biệt và các ý thức hệ không làm tổn hại đến công ích.
IV. CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG CUỘC ĐỐI THOẠI CHO VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN VẸN
189. Chính trị không được phép tùng phục kinh tế và kinh tế cũng không được phép tùng phục chế độ độc tài và thực dụng hiệu quả của kỹ thuật. Ngày nay, khi suy nghĩ đến công ích, cần thiết chính trị và kinh tế phải đối thoại với nhau để quyết định phục vụ cho cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống con người. Cứu nguy cho các ngân hàng bằng mọi giá, bằng cách trả tiền của dân chúng, mà không có quyết tâm suy nghĩ lại về toàn bộ hệ thống và canh tân lại, nâng đỡ quyền thống trị tuyệt đối của tài chính, không nhìn thấy tương lai và sau cách chữa trị lâu dài, tốn kém và chỉ bên ngoài, sẽ tạo cơn khủng hoảng mới. Cuộc khủng hoảng tài chính các năm 2007-2008 là cơ hội cho sự phát triển một nền kinh tế mới, chú tâm vào nền tảng luân lý và cho việc triển khai quy định mới cho hoạt động tài chính đặc biệt và sự giàu sang giả định. Dù vậy, không có phản ứng nào giúp suy nghĩ lại các tiêu chuẩn xa xưa không ai dùng nữa, nhưng vẫn tiếp tục lãnh đạo thế giới. Sản xuất thường không hợp lý và luôn luôn liên kết với sự thay đổi về mặt kinh tế. Chính kinh tế này sẽ xác định giá trị của sản phẩm, thường không đúng với giá trị thật của chúng. Điều này đưa đến việc sản xuất quá tải một sản phẩm, gây ảnh hưởng nặng nề cho môi trường một cách không cần thiết, đồng thời cũng ảnh hưởng đến các chi nhánh kinh tế của địa phương . [133]. Bong bóng tài chính cố gắng trở thành bong bóng sản xuất. Cuối cùng, điều được đón nhận không phải để chống năng lượng, vấn đề kinh tế thật sự có thể thực hiện, đó là tạo việc sản xuất đa dạng và làm tốt, để các việc kinh doanh có thể hoạt động tốt và để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể phát triển và tạo được công ăn việc làm.
190. Trong mối tương quan này, cần phải nhớ, “việc bảo vệ môi trường […] không những được thực hiện dựa trên nền tảng việc tính toán phí tổn tài chính. Môi trường là một phần của các điều thiện hảo, mà bộ máy thị trường không thể bảo vệ hoặc có thể đòi buộc theo cùng một hình thức được” [134]. Một lần nữa phải tránh quan niệm ma thuật của thị trường. Có xu hướng cho rằng, mình có thể giải quyết vấn đề bằng cách gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp hoặc của cá nhân. Có thực hy vọng rằng những người dựa theo lợi nhuận tối đa, sẽ cố gắng gìn giữ tư tưởng về những hậu quả của môi trường mà họ muốn trao lại cho thế hệ mai sau hay không? Trong dự án thắng lợi, không có chỗ cho tư tưởng về vận hành của thiên nhiên, về những giai đoạn suy thoái và tái sinh, về sự nhiêu khê của hệ thống môi sinh, đã bị thay đổi do tác động quá nặng nề của con người. Ngoài ra, khi nói về sự đa dạng sinh học, người ta thường chỉ nhìn đến sự dự trữ các tài nguyên cho kinh tế, có thể bóc lột được, nhưng người ta không chú tâm đến giá trị của vạn vật, ý nghĩa của chúng đối với con người và văn hoá, lợi ích và nhu cầu của người nghèo.
191. Khi người ta nêu lên các câu hỏi này, một số người phản ứng bằng việc kết án các kẻ khác cho rằng họ thật ảo tưởng khi nghĩ đến việc thành công và phát triển con người. Chúng ta phải minh chứng, việc làm chậm lại nhịp sản xuất và tiêu thụ là cái cớ đưa ra những hình thức cho thành công và phát triển. Những cố gắng cho việc sử dụng tài nguyên cách lâu dài không phải là việc bảo vệ vô ích, nhưng là một sự đầu tư để sinh lợi nhuận kinh tế theo một hình thức nhẹ nhàng hơn. Nếu không phải đau khổ vì cái nhìn hạn hẹp, chúng ta có thể khám phá có nhiều cách chuyển đổi sản xuất mới mẽ hơn và có thể thay đổi các sản phẩm ít gây tai hại cho môi trường hơn. Đó là mở một con đường cho nhiều khả năng khác, không có nghĩa là ngăn chặn sự sáng tạo của con người và ý nghĩa cho phát triển, nhưng định hướng cho năng lượng này theo những con đường mới.
192. Tỉ như, một con đường triển khai sản xuất có nhiều sáng tạo hơn và định hướng tốt hơn có thể sửa sai hành động một sự đầu tư kỹ thuật quá đáng cho tiêu thụ và yếu kém, để giải quyết các vấn đề chưa được thoả đáng cho nhân loại; có thể tạo những hình thức sáng suốt và sinh lợi hơn cho việc tái sử dụng, chuyển đổi phận vụ và quay vòng ; nó cũng có thể làm tốt đẹp hiệu quả năng lượng của các thành phố và nhiều hơn nữa. Việc đa dạng hoá sản phẩm kích thích sự khôn ngoan của con người để bộc lộ nhiều khả năng, để tạo dáng và làm cho mới mẽ, trong khi bảo vệ được môi trường và tạo công ăn việc làm. Có lẽ đó là một sự sáng tạo có khả năng, giúp nảy nở sự cao quý mới mẽ của con người, chỉ vì con người xứng đáng dùng lý trí của mình với sự can đảm và trách nhiệm, để tìm những hình thức phát triển lâu dài và quân bình, trong giới hạn của một quan niệm rộng rãi hơn để tạo phẩm chất của cuộc sống, tìm được những hình thức phát triển lâu dài và quân bình. Ngược lại, sẽ không xứng đáng, hời hợt và không có sức sáng tạo để tạo những hình thức cướp phá thiên nhiên, chỉ để tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và thu lợi tức khắc.
193. Nếu trong vài trường hợp, sự phát triển lâu dài đem đến những hình thức phát triển; trong những trường hợp khác, đối mặt với những phát triển kinh khủng và vô trách nhiệm đã kéo dài hằng nhiều thập niên, người ta phải suy nghĩ tới việc phải làm chậm lại và phải đặt ra những ranh giới hợp lý, có khi phải quay ngược lại kẻo quá trễ. Chúng ta biết, thái độ của những người chỉ nhắm nhiều và càng nhiều vào tiêu thụ và phá hoại, thì không thể giữ lại được, trong khi những người khác chưa sống được với phẩm giá con người. Vì thế, đã đến lúc, phải chấp nhận sự thụt lùi ở một mức độ nào đó trong một vài phần trên thế giới và phải hỗ trợ họ, để những phần khác trên thế giới có thể vươn lên cách lành mạnh. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Các xã hội tiên tiến về mặt kỹ thuật phải sẵn sàng có những thái độ giảm bớt nhu cầu năng lượng và làm tốt các điều kiện sử dụng” [135].
194. Để có những mẫu hình ảnh mới cho sự phát triển, “chúng ta phải hướng kiểu mẫu phát triển toàn cầu theo một hướng khác… , điều đó đòi buộc phải suy nghĩ cách thức có trách nhiệm về “ý nghĩa của kinh tế và mục đích của nó, để có thể sửa sai những sự lạm dụng và mất thăng bằng” [137] Thực sự cũng không đủ khi chăm sóc thiên nhiên bằng một hiệp ước tài chính hoặc bảo quản môi trường với các tiến bộ và liên kết chúng lại bằng một con đường trung gian. Trong liên hệ này, những con đường trung gian chỉ làm chậm lại sự đổ vỡ. Điều chính đáng ở đây là phải định nghĩa lại sự phát triển là gì. Một sự phát triển về mặt kỹ thuật và kinh tế, nếu không để lại một thế giới tốt đẹp hơn và một phẩm chất sống cao hơn cho mọi người, thì không thể gọi là phát triển được. Mặt khác, phẩm chất thực sự của cuộc sống con người thường bị giảm đi trong sự liên hệ với phát triển kinh tế – qua việc tàn phá môi trường, do phẩm chất thấp kém các sản phẩm lương thực hoặc làm cạn kiệt tài nguyên. Trong khung cảnh này, diễn từ về việc phát triển lâu dài thường trở thành lời phản hồi phủ nhận và hợp lý hoá, nằm trong các bài diễn văn môi sinh trong lý luận về mặt tài chính và kỹ thuật ; trách nhiệm xã hội và môi trường của các doanh nghiệp thường được đúc kết vào một chuỗi quảng cáo và trưng hình trưng ảnh.
195. Nguyên tắc thu hoạch tối đa, thường chú tâm tách biệt các cách quan niệm, đó là phá tán ý nghĩa kinh tế: khi sản phẩm gia tăng, không cần đến cái giá của tài nguyên tương lai hoặc về sự lành mạnh của môi trường, nếu việc khai thác rừng làm tăng giá thành sản phẩm, thì trong tính toán không ai dám nói đến sự mất mát, đó là việc hoang hoá một mảnh đất, hoặc việc gây tai hại cho sự đa dạng sinh học hoặc nâng cao mức ô nhiễm môi trường. Điều này có nghĩa là, các doanh nghiệp đạt được lợi nhuận khi tính toán và trả thấp theo giá thành. Chỉ có thể nhận một thái độ mang tính luân lý, “khi giá kinh tế và xã hội xuất từ việc sử dụng tài nguyên tự nhiên chung được thiết đặt rõ ràng và những người hưởng lợi phải gánh chịu, chứ không phải các dân tộc khác hoặc các thế hệ tương lai phải trả” [138]. Tính chất hợp lý của một sự phân tích thực tại cách quân bình dưới cái nhìn vào nhu cầu hiện tại, cũng như thị trường, đảm nhận các tài nguyên, khi nhà nước như là người điều phối, hoạch định.
196. Điều gì sẽ diễn ra với chính trị? Chúng ta nhớ lại nguyên tắc bổ trợ, điều này bảo đảm sự tự do cho việc phát triển mọi khả năng đang có trên mọi bình diện, đồng thời đòi buộc người nắm giữ quyền hành nhiều hơn, phải bảo đảm công ích. Thật vậy, ngày nay nhiều phạm vi kinh tế thực hiện nhiều quyền hành hơn là quốc gia. Người ta không thể hợp lý hoá cho một nền kinh tế không có chính trị – nền kinh tế này không có khả năng đưa ra một lý luận khác có thể chuyển dịch nhiều phương diện khác biệt của cơn khủng hoảng ngày nay. Một lý luận mà người ta không thể mong chờ một sự chăm sóc đúng đắn cho môi trường, thì lý luận đó sẽ ngăn cản sự hội nhập của những người yếu đuối, vì “trong cách thức hiện tại về “thành công” và “quyền tư nhân”, không mang ý nghĩa giúp những kẻ sau cùng, những người yếu đuối hoặc ít khả năng, có thể làm một điều gì cho cuộc sống của họ” [139].
197. Chúng ta cần một thứ chính trị, mà suy tư của chính trị này bao gồm một viễn ảnh rất rộng, nâng đỡ một quyết tâm mới và trọn vẹn, khi đón nhận các phương diện khác nhau của cuộc khủng hoảng trong một cuộc đối thoại liên khoa học. Thường thì chính trị tự đánh mất diện mạo của mình, vì lý do sa đọa hoặc vì thiếu chính trị tốt đẹp công khai. Khi một thành phố của một vùng nào không chu toàn vai trò của mình, sẽ có những nhóm nhà kinh tế xuất hiện như những người từ thiện và sẽ nắm lấy quyền lực thật sự một cách bất chính, tự cảm thấy mình đầy quyền hành, không tuân thủ một số luật lệ và còn đưa ra những cái cớ dưới nhiều hình thức tội phạm có tổ chức, buôn bán người, buôn bán ma túy và bạo lực – những điều xấu này khó mà tiêu diệt được. Nếu chính trị không còn khả năng loại bỏ lý luận lộn xộn này và nếu như không vượt qua được các bài diễn thuyết nghèo nàn, chúng ta sẽ tiếp tục hành động mà không tấn công vào những vấn đề lớn của nhân loại. Một chiến thuật cho một sự thay đổi thực sự đòi buộc phải suy nghĩ lại toàn bộ tiến trình, vì không thể đúc kết một cách hời hợt trên các suy luận về môi trường, trong khi người ta không đặt vấn đề về lý luận và văn hoá hiện tại nằm sâu trong đó. Một chính trị lành mạnh phải có khả năng đón nhận những thách thức này.
198. Chính trị và kinh tế thường có xu hướng cùng nhau kết tội cho nghèo đói và tàn phá môi trường. Nhưng điều mà người ta hy vọng là họ nhận thức lỗi lầm của họ và tìm những hình thức cộng tác với nhau, nhằm vào hướng công ích. Trong khi nhóm này chỉ nghi ngờ về lợi lộc kinh tế và nhóm kia chỉ nhắm vào bảo vệ quyền lực hoặc gia tăng quyền lực, chúng ta chỉ có kết quả là chiến tranh hoặc những sự thỏa thuận ngầm, ít ra, cả hai nhóm phải chú tâm bảo vệ môi trường và chăm sóc những kẻ yếu. Ở đây cũng có nguyên tắc: “Sự hiệp nhất đứng trên xung khắc” [140]
V. CÁC TÔN GIÁO TRONG CUỘC ĐỐI THOẠI VỚI CÁC KHOA HỌC
199. Người ta không thể nói rằng các khoa học thực nghiệm giải thích hoàn toàn sự sống, cơ cấu các thụ tạo và sự toàn vẹn của các thực tại. Có nghĩa là, chúng đã bước ra khỏi ranh giới thực nghiệm của mình. Nếu người ta suy nghĩ trong khung đóng kín này, thì cảm nghiệm vẻ đẹp, thi phú và cả khả năng lý trí để nhận ra ý nghĩa và mục đích vạn vật, cũng tiêu tan [141]. Tôi chỉ xin nhắc lại, “các bản văn tôn giáo cổ điển vẫn có thể đưa ra một ý nghĩa cho tất cả mọi thời đại và có một sức lực tác động luôn khai mở một chân trời mới […] Có hợp lý và khôn ngoan không, khi đưa những bản văn nằm trong bóng tối ra ánh sáng, chỉ vì chúng xuất phát từ một niềm tin tôn giáo?” [142] Thật ngây thơ mà bảo rằng, các điểm luân lý căn bản có thể trừu tượng và tách ra khỏi môi trường và thực tế chúng xuất hiện trong một ngôn ngữ tôn giáo, cũng không làm giảm đi giá trị của chúng trong những tranh luận công khai. Các nguyên tắc luân lý mà lý trí có thể chấp nhận, luôn luôn có thể xuất hiện trong bộ áo mới và được diễn tả bằng những ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả tôn giáo.
200. Mặt khác, mỗi một giải đáp kỹ thuật mà khoa học trưng ra, xem ra bất lực để giải quyết các vấn đề trầm trọng của thế giới, khi nhân loại rời xa dòng chảy của mình, khi những lý do chuyển động tạo nên sự chung sống, hy tế và điều thiện hảo, bị quên lãng. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, người ta vẫn gọi đến các tín hữu, để sống trong sự đồng thuận, trong niềm tin và trong hoạt động không đi ngược lại với niềm tin ; người ta xin họ một lần nữa mở rộng tâm hồn cho ân sủng của Thiên Chúa và xác tín sâu thẳm về tình yêu, công bằng và bình an. Nếu hiểu sai về những nguyên tắc, đôi khi đưa chúng ta đến việc công chính hoá những hành động sai trái trên tự nhiên hoặc sự thống trị như chủ nhân trên sáng tạo hoặc chiến tranh, sự bất công và bạo lực; là tín hữu chúng ta có thể nhận ra, theo cách này, chúng ta đã bất trung với kho tàng khôn ngoan mà chúng ta phải bảo vệ. Thường các ranh giới văn hoá của nhiều thời đại, ảnh hưởng trên ý thức của gia sản luân lý và tinh thần; nhưng chính từ việc quay về với những nguồn này sẽ giúp các tôn giáo đáp ứng tốt hơn với những nhu cầu hiện tại.
201. Phần đông dân chúng của hành tinh tự nhận mình là các tín hữu, từ đó, các tôn giáo phải bước vào cuộc đối thoại với nhau để giải hoà với thiên nhiên, bảo vệ người nghèo và xây dựng mạng lưới tôn trọng và huynh đệ. Cuộc đối thoại giữa các nhà khoa học cũng rất cần thiết, chỉ vì mỗi khoa học thường tự đóng kín mình trong ranh giới của ngôn ngữ riêng, và sự chuyên môn có xu hướng tự tại và tuyệt đối hoá sự hiểu biết của mình. Điều này ngăn trở việc đối mặt thích hợp các vấn đề môi trường. Một cuộc đối thoại rộng mở và tôn trọng nhau trở nên cần thiết giữa các phong trào môi sinh khác nhau, nơi đó cũng có nhiều tranh đấu cho ý thức hệ. Sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng môi sinh đòi buộc mọi người suy nghĩ về công ích và tiến bước trên con đường đối thoại, đòi hỏi sự kiên nhẫn, khổ hạnh và khoang dung; luôn luôn nhớ đến câu: “ Thực tế đứng trên ý tưởng” [143].
***
CHƯƠNG VI
GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH
 
202. Nhiều điều phải được định hướng lại, nhưng trước tiên nhân loại phải tự thay đổi. Cần có một ý thức về nguồn gốc chung, một sự thuộc về nhau cách hỗ tương và một tương lai được chia sẻ cho mọi người. Ý thức căn bản này cho phép có một sự phát triển những xác tín mới, cách thức liên hệ và hình thức cuộc sống. Đây chính là thách thức lớn về mặt văn hoá, tinh thần và giáo dục, sẽ kéo dài trong một tiến trình tái sinh thật khó khăn.
I. HƯỚNG ĐẾN MỘT LỐI SỐNG KHÁC
203. Thị trường luôn luôn hướng đến việc tạo ra một bộ máy tiêu thụ không thể đảo ngược lại được, để các sản phẩm cuối cùng nhấn chìm con người vào trong một vòng xoáy mua và sử dụng phung phí cách vô ích. Chủ thuyết tiêu thụ cách bệnh hoạn là phản ảnh chủ quan của thực dụng kinh tế – kỹ thuật. Romano Guasdini đã báo trước về vấn đề này: con người “chấp nhận các vật dụng và cách sống như dự án hợp lý và sản phẩm quy định do máy móc áp đặt cho họ, và họ thực hiện toàn bộ với cảm giác như thế là hợp lý và đúng đắn [144]. Sự thực dụng khiến người ta tin tưởng rằng mình hoàn toàn tự do, bao lâu họ có được sự tự do tiêu thụ; nhưng trong thực tế chỉ có một số nhỏ có được sự tự do, đó là những người có quyền lực về kinh tế và tài chính. Trong sự mơ hồ này, nhân loại thời hậu hiện đại đã không tìm được sự tự ý thức giúp họ định hướng và cảm nghiệm sự thiếu sót về căn tính với lo âu. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho một vài mục tiêu hạn hẹp và nhỏ bé.
204. Hoàn cảnh hiện tại của thế giới “tạo một cảm giác thiếu xác tín và bất an, đưa đến những hình thức ích kỷ tập thể [145]. Khi con người tự kỷ và tự nhốt mình vào ý thức của riêng mình, họ sẽ không được thoả mãn. Khi trái tim con người trống rỗng, sẽ cần rất nhiều thứ để mua, để chiếm hữu và để tiêu thụ. Trong tình trạng này, thật không thể nào một người lại cho rằng thực tại đã đặt ranh giới cho họ. Trong vòng suy nghĩ này cũng không thể có công ích thực sự. Nếu mẫu người như thế đứng đầu một cộng đoàn, các luật lệ chỉ có thể tôn trọng trong chừng mực không đi ngược lại nhu cầu của họ. Vì thế, chúng ta không những nghĩ đến khả năng những hiện tượng khủng khiếp của khí hậu hoặc những tai hoạ tự nhiên lớn lao, nhưng cả những tai hoạ do các cơn khủng hoảng xã hội, vì định kiến về một lối sống tiêu thụ như thế – nhất là, khi chỉ có một nhóm nhỏ sống như vậy – chỉ gây nên bạo lực và tự phá hoại nhau.
205. Dù vậy, không phải tất cả đều bị đánh mất, vì con người có đủ khả năng để tự hạ mình đến mức cuối, cũng có thể vượt lên trên, quyết định cho điều thiện và tự cải hoá mình cho tốt hơn, loại bỏ tất cả những điều kiện tinh thần và xã hội đang đè nén họ. Họ có khả năng, tự khẳng định mình một cách trân trọng, cởi bỏ những điều chán ngấy và quyết định con đường mới đến sự tự do đích thực. Không có hệ thống nào có thể tiêu diệt triệt để việc khai mở cho điều thiện, chân lý và vẻ đẹp, cũng như khả năng thích ứng. Khả năng này đã có sẵn vì chính Thiên Chúa, từ sâu thẳm của con tim con người, đã động viên chúng ta. Tôi xin mỗi người trong thế giới này, đừng bao giờ quên phẩm giá của mình ; không ai có quyền rút đi phẩm giá này được.
206. Một cuộc thay đổi lối sống có thể đưa đến việc thực hiện một áp lực thanh thoát trên những người nắm lấy quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này xảy ra khi phong trào những người tiêu thụ sẽ không mua một số sản phẩm và trở nên hữu hiệu hơn để sửa sai thái độ của doanh nghiệp, khi ép buộc họ phải suy nghĩ về tác động đến môi trường và các mẫu sản xuất. Đó là một thực tế, khi thói quen xã hội ảnh hưởng trên thu nhập việc kinh doanh, buộc họ phải thay đổi cách sản xuất. Điều này nhắc chúng ta nhớ về trách nhiệm của người tiêu thụ. “Việc mua không những là một hành động kinh tế, nhưng vẫn luôn là một hành động luân lý [146]. Vì thế, “đề tài ô nhiễm môi trường đòi buộc thái độ của từng người trong chúng ta phải chịu trách nhiệm” [147].
207. Hiến chương Trái Đất [die Erd-Charta – la Charte de la Terre] mời gọi tất cả mọi người chúng ta quay lưng lại với giai đoạn tự tàn phá mình và bắt đầu một bước tiến mới, nhưng chúng ta chưa triển khai ý thức phổ quát, đó là điều tạo khả năng cho chúng ta để thực hiện. Vì thế, tôi xin đề nghị lại lời đòi buộc đầy giá trị này: “Như chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nhân loại, định mệnh chung mời gọi chúng ta can đảm tìm một khởi đầu mới […] Hãy để cho thời đại tạo dáng cho chúng ta, để người ta sẽ nhớ thời gian này là một thời đánh thức sự tôn trọng mới mẽ trước cuộc sống, như một thời gian quyết định vững vàng đạt tới sự lâu dài, như một thời gian thúc đẩy tiến đến công bằng và bình an, và như một thời gian cử hành thật hạnh phúc của cuộc sống [148].
208. Vẫn luôn luôn có khả năng để bước ra khỏi con người của mình để đến với kẻ khác. Nếu không có khả năng này, người ta không thể nhận ra giá trị đặc thù của những thụ tạo khác, và cũng không chú tâm làm một điều gì đó cho kẻ khác, cũng như không có khả năng để tự xác định ranh giới để tránh đau khổ hay gây hại cho xung quanh. Thái độ cơ bản để vươn ra khỏi mình, khi phá vỡ sự cô độc trong ý thức và chỉ quy về mình, là nguồn gốc để tâm đến kẻ khác và môi trường. Thái độ này đem đến các phản ứng luân lý, để nhận ra tác động và từng quyết định cá nhân bước ra khỏi bản thân mình. Khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩa cá nhân, bấy giờ mới có thể tự triển khai một lối sống và một sự thay đổi mang đầy ý nghĩa trong xã hội.
II. GIÁO DỤC CHO MỘT SỰ LIÊN KẾT GIỮA NHÂN LOẠI VÀ MÔI TRƯỜNG
209. Ý thức về sự trầm trọng cơn khủng hoảng văn hoá và môi sinh nổi bật trong những thói quen mới. Nhiều người biết rằng, sự phát triển hiện tại và việc thu thập đơn thuần các đối tượng và tiêu dùng vẫn chưa đủ, để có thể đem lại ý nghĩa cho tâm hồn con người và ban niềm vui cho họ, nhưng họ cảm thấy không có khả năng từ chối điều mà thị trường mời mọc họ. Trong nhiều đất nước, cần phải đưa ra những thay đổi mới về thói quen tiêu thụ, giới trẻ có cảm nhận mới về sinh thái và tinh thần quảng đại, một vài người trong số họ phấn đấu một cách đáng kinh ngạc cho việc bảo vệ môi trường, nhưng vì họ lớn lên trong một hoàn cảnh tiêu thụ và thoải mái, thật cũng khó để phát triển những thói quen khác. Vì thế, chúng ta đứng trước một thách thức về giáo dục.
210. Việc giáo dục về môi trường đã phổ biến mục tiêu của mình. Nền giáo dục này khởi đầu bằng cách đưa ra những thông tin khoa học, cũng như cảm nhận và ý thức về những nguy cơ cho môi trường, sau đó mới đưa ra lời phê bình về những “huyền thoại” dựa trên lý trí cơ chế của thời đại (chủ nghĩa cá nhân, phát triển không định hướng, cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường không luật lệ) và triển khai các bình diện khác nhau về sự cân bằng sinh thái: bình diện nội tại với chính mình, bình diện liên đới với những người khác, bình diện tự nhiên với các sinh vật và bình diện tinh thần với Thiên Chúa. Việc giáo dục môi trường chuẩn bị cho chúng ta một bước tiến vào mầu nhiệm, từ đó đạt được ý nghĩa sâu xa của luân lý môi sinh. Mặt khác, các nhà giáo dục có khả năng theo lối giáo dục của mình cho thấy một nền luân lý mới về môi sinh, giúp làm nổi bật tình liên đới, trách nhiệm và cùng cảm nhận sự quan tâm chung.
211. Dù vậy, giáo dục này cố tạo ra một thứ “công dân sinh thái”, nhưng đôi khi bị ngăn chặn thông tin và không đạt được việc phát triển những thói quen. Sự hiện hữu các lề luật và luật lệ với một thời gian dài không thể ngăn chặn các thái độ xấu, cho dù đã có một sự kiểm soát hữu hiệu. Để cho các luật lệ pháp lý đưa ra những hiệu quả quan trọng và lâu dài, cần có nhiều thành phần trong xã hội chấp nhận nhờ vào những động lực thích hợp, và khởi động từ một sự thay đổi cá nhân. Chỉ từ việc vung đắp những nhân đức vững vàng mà việc tự ban tặng chính mình trong sự dấn thân sinh thái mới có thể được. Nếu một người có thói quen mặc ấm thay vì đốt lò sưởi, vì tình hình tài chính cho phép, họ tiêu thụ và sử dụng phung phí, điều này cho thấy họ đã đón nhận những xác tín và ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường. Chu toàn bổn phận bảo vệ sáng tạo nhờ vào những hành động nho nhỏ trong ngày, thật là tốt đẹp và thật bất ngờ, khi sự giáo dục có khả năng tạo nên những điều tốt đẹp này, đến việc tạo một lối sống thật thích hợp. Việc giáo dục giúp nhận trách nhiệm với môi trường đòi buộc nhiều thái độ liên hệ có ảnh hưởng trực tiếp và mang ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường, cũng như việc tránh sử dụng các vật có chất liệu nhựa hoá chất và giấy, tiết kiệm nước, phân loại các rác thải, cũng như nấu nướng vừa đủ cho bữa ăn, chú tâm lo lắng cho cách sống của những người khác, sử dụng các phương tiện lưu thông công cộng hoặc xe ôtô với nhiều người, trồng cây, tắt đèn khi không sử dụng. Tất cả những điều này đều là những hành động quảng đại và xứng đáng, sẽ đem đến điều tốt đẹp cho hữu thể con người. Hành động sử dụng lại một cái gì đó thay gì quăng đi, có thể là một hành động tình yêu làm nổi bật phẩm giá của chúng ta.
212. Đừng nghĩ rằng những cố gắng này sẽ làm thay đổi thế giới. Những hành động này gieo rắc trong xã hội một điều thiện hảo, sẽ luôn luôn mang lại nhiều hoa trái vượt lên trên điều người ta nhận ra được, chỉ vì chúng gây nên trên trái đất này một điều thiện hảo đôi khi không nhận ra. Ngoài ra, việc triển khai các thái độ này mang lại cho chúng ta cảm nghiệm về chính phẩm giá của chúng ta, sẽ hướng chúng ta vào điểm sâu thẳm nhất của cuộc sống và cho chúng ta kinh nghiệm để thấy cuộc sống thật có giá trị trên trái đất này.
213. Những lãnh vực phổ biến giáo dục này rất khác nhau: trường học, gia đình, các phương tiện thông tin, các lớp giáo lý và nhiều lãnh vực khác. Một sự giáo dục tốt ở trường học khi các em còn bé sẽ gieo được nhiều hạt giống sản sinh những hiệu quả trong suốt cuộc đời. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng của gia đình, chỉ vì “đó là nơi mà cuộc sống là hồng ân của Thiên Chúa được đón nhận một cách thích hợp và được che chở khỏi những tấn công mà cuộc sống phải đối mặt và là nơi có thể triển khai những đòi hỏi thích đáng cho một việc lớn dậy thật nhân bản. Chống lại thứ văn hoá của sự chết, gia đình là cái nôi cho văn hoá sự sống [149] Trong gia đình, người ta giúp phát triển những thói quen đầu tiên của tình yêu và chăm sóc cho cuộc sống, tỉ như việc sử dụng đúng đắn các vật dụng, trật tự và vệ sinh cho cuộc sống, chú ý đến hệ thống môi sinh địa phương và bảo vệ tất cả sinh vật đã được sáng tạo. Gia đình là nơi giáo dục trọn vẹn, nơi những giai đoạn khác nhau của một sự trưởng thành cá nhân được diễn ra, liên kết chặt chẽ với mọi người. Trong gia đình, người ta học hỏi để biết xin phép, để không xúc phạm đến kẻ khác, tiếng nói “cám ơn” như sự biểu lộ một sự đánh giá đúng đắn điều mà chúng ta lãnh nhận, làm chủ sự tấn công và bạo lực, và học biết xin lỗi, khi chúng ta gây một điều gì tai hại. Những hành động nhỏ bé này sẽ giúp chúng ta lễ phép, một thứ văn hoá của đời sống chung và sự tôn trọng với tất cả những gì xung quanh chúng ta.
214. Trách nhiệm của chính trị và các tổ chức khác là phải chú tâm đến cảm nghiệm của dân chúng. Giáo Hội cũng phải nhận trách nhiệm này. Tất cả các cộng đoàn Kitô hữu cũng phải chu toàn vai trò quan trọng trong việc giáo dục này. Tôi cũng hy vọng trong các đại chủng viện, các nơi đào tạo của các dòng tu, người ta giáo dục sự khắc khổ có trách nhiệm, một sự chiêm ngắm với lòng biết ơn cả thế giới và chú tâm đến những sự yếu đuối của người nghèo và của môi trường. Không những các tổ chức có quyền lực cần thiết để phê chuẩn chống lại những tấn công vào môi trường, những cũng cần thiết để chính chúng ta cũng kiểm soát mình và giáo dục nhau.
215. Trong hoàn cảnh này, “không thể quên liên hệ giữa việc đào tạo về vẻ đẹp với việc gìn giữ môi trường lành mạnh” [150]. Chú ý và yêu mến vẻ đẹp sẽ giúp chúng ta vượt qua chủ nghĩa thực dụng. Khi một người không học biết tự dừng lại để quan sát và đánh giá điều gì là tốt đẹp, thì không lấy làm lạ gì khi tất cả đối với người đó trở thành đối tượng để sử dụng và lạm dụng mà không chút ngại ngùng. Đồng thời, nếu người ta muốn nhắm đến việc thay đổi sâu xa, phải thấy cách suy nghĩ ảnh hưởng thực sự đến các thái độ. Việc giáo dục sẽ không có hiệu quả và những cố gắng sẽ vô ích, nếu như không chú tâm phổ biến một hình ảnh mới mẽ về con người, về cuộc sống, về xã hội và sự liên hệ với thiên nhiên. Mặt khác, mô mẫu nhằm vào việc tiêu thụ do phương tiện truyền thông và mạng lưới thị trường đầy hiệu quả vẫn tiếp tục.
III. CHUYỂN ĐỔI MÔI SINH
216. Gia sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, xuất phát hai ngàn năm nay từ kinh nghiệm cá nhân đến cộng đoàn, mang đến một sự đóng góp tốt đẹp cho sự cố gắng canh tân nhân loại. Tôi muốn đề nghị với các Kitô hữu một vài hướng căn bản cho một linh đạo môi sinh, xuất phát từ xác tín niềm tin của chúng ta, vì những gì Tin Mừng dạy đều có hệ luận đến cách thức suy tư, cảm nhận và cách sống của chúng ta. Đây không nhắm trình bày các ý tưởng, nhưng trước nhất, về nền tảng chuyển động xuất phát từ linh đạo đòi buộc sự khổ tâm chăm sóc môi trường. Vì không thể dấn thân trong những việc lớn với các lời giảng dạy mà không có một thứ “huyền nhiệm” tràn đầy trong tâm hồn chúng ta, không có “những nền tảng lay chuyển nội tâm” để khởi động, thúc đẩy, động viên và trao ban cho nó một ý nghĩa [151]. Phải nhận ra, chúng ta là các Kitô hữu, có một sự phong phú do Thiên Chúa ban cho Giáo Hội, nhưng chúng ta không thường đón nhận và tiếp tục triển khai – một sự phong phú, trong đó linh đạo dạy tách biệt khỏi thể xác, nhưng không tách biệt khỏi thiên nhiên hoặc là các thực tại của thế giới này, nhờ đó và trong đó được phát huy, trong cộng đoàn với tất cả những gì bao quanh chúng ta.
217. Nếu thực sự “các sa mạc bên ngoài gia tăng, chỉ vì sa mạc nội tâm cũng lớn dần [152] thì cơn khủng hoảng môi trường là một lời kêu gọi sự sám hối nội tâm sâu thẳm. Chúng ta phải công nhận rằng, có một số Kitô hữu dấn thân và cầu nguyện, thường cười cợt các cảnh cáo về môi trường với lời xin lỗi của chủ nghĩa thực tế và chủ nghĩa thực dụng. Một số khác thụ động, quyết tâm không thay đổi các thói quen và trở thành rời rạc. Họ thiếu một sự sám hối thuộc sinh thái, giúp thấy những gì họ gặp gỡ với thế giới xung quanh; điều xuất phát từ sự gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, sẽ giúp cho tất cả nở hoa. Sống ơn gọi là một người bảo vệ cho công trình của Thiên Chúa là một phần tất yếu của một hiện sinh đạo đức; đó không phải là điều gì của định kiến, cũng không phải là một phương diện thứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo.
218. Chúng ta nhớ lại gương của Thánh Phanxicô thành Assisi, để đề nghị một mối tương quan lành mạnh với sáng tạo như chiều kích một cuộc sám hối trọn vẹn của con người. Điều này cũng đưa tới việc nhận thực những sai lầm, tội lỗi, tật xấu hoặc chễnh mãn và sám hối với trọn tâm hồn, thay đổi nội tâm. Các Đức Giám Mục Úc Châu đã nói rõ sự sám hối trong ý nghĩa hoà giải với sáng tạo: “Để thực hiện sự sám hối này, chúng ta phải biết khảo nghiệm lại đời sống của chúng ta và nhận ra rằng, với cách thức nào chúng ta đã làm tổn thương sáng tạo của Thiên Chúa, bằng hành động cũng như vì sự bất lực của chúng ta. Chúng ta phải có một kinh nghiệm về sám hối, về một sự thay đổi tâm hồn” [153].
219. Dù vậy, để giải quyết một hoàn cảnh quá đa dạng có thể đối mặt với thế giới ngày nay, thật sự không đủ để từng người tự hoàn thiện. Từng cá nhân đơn độc có thể đánh mất khả năng và sự tự do của mình, để vượt qua lý luận của lý trí máy móc, để rồi cuối cùng trôi theo chủ thuyết tiêu thụ, không có chút luân lý và không có tí cảm nghiệm về xã hội cũng như môi trường. Đối với những vấn đề xã hội, phải hoạt động trong mạng lưới tập thể, chứ không phải bằng một tổng hợp đơn thuần tài sản tích cực của cá nhân. “Những đòi hỏi của công tác này thật bao la, không thể giải quyết bằng những khả năng dấn thân của cá nhân và sự cộng tác của nhiều người dựa theo nguyên tắc cá vị. Cần có một tổng hợp sức lực và sự thống nhất hướng dẫn” [154]. Sự sám hối mang tính chất sinh thái đòi buộc phải có một sự năng động để thay đổi, đó là một sự sám hối tập thể.
220. Việc sám hối này giả thiết đưa ra nhiều thái độ khác nhau, nối kết chung với nhau để đưa đến một sự dấn thân bảo vệ môi trường cách quảng đại và đầy yêu thương. Bước đầu tiên, nó đòi hỏi sự biết ơn và nhưng không, có nghĩa là nhận thức thế giới là một ân huệ được lãnh nhận từ tình yêu của Cha. Tiếp đến, người ta phải thực tập sự từ bỏ, không chờ sự đáp trả, và hành động thật quảng đại, cả khi không ai nhìn thấy và công nhận: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm […] Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,3-4). Việc sám hối này cũng đòi buộc một ý thức tràn đầy tình yêu, không tách rời với những thụ tạo khác, nhưng tạo một cộng đồng có giá trị bao trùm tất cả những hữu thể hiện hữu trong vũ trụ. Người tin không nhìn ngắm thế giới từ bên ngoài, nhưng từ trong nội tâm và nhận ra dây liên kết mà qua đó Cha trên trời nối kết chúng ta với tất cả hữu thể. Ngoài ra, việc sám hối sinh thái gợi lên những khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho họ, sẽ giúp họ triển khai sức sáng tạo của mình và gia tăng sự thanh thoát để giải quyết các bi kịch của thế giới và chính họ “sẽ mang đến cho Thiên Chúa một lễ vật sống động và thánh thiện, làm Chúa vui lòng” (Rm 12,1). Họ hiểu việc vượt trổi của họ không phải là cớ để tạo vinh quang cá nhân hoặc là cớ để thống trị một cách vô trách nhiệm, nhưng là một khả năng khác, đặt ra cho mình trách nhiệm nặng nề, xuất phát từ niềm tin của mình.
221. Nhiều xác tín của niềm tin chúng ta đã được trình bày từ ngay đầu thông điệp – cũng như ý thức rằng, mỗi thụ tạo đều phản ánh một điều gì đó của Thiên Chúa và có một sứ điệp có thể dạy dỗ chúng ta hoặc là ý thức rằng Đức Kitô đã đón nhận thế giới vật chất này và hiện tại Người là Đấng Phục Sinh đang cư ngụ trong thâm sâu của từng hữu thể và đã ôm lấy chúng bằng lòng từ ái của Người, cũng như thấm nhập ánh sáng của Người vào trong chúng ; và cũng như xác tín: Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới và đã đặt trong chúng một trật tự và một năng động mà con người không có quyền quên đi. Khi có ai đọc trong Tin Mừng việc Chúa Giêsu nói về các con chim và xác nhận rằng, “Thiên Chúa không quên sót con nào” (Lc 12,6) hỏi rằng người đó có còn khả năng hành xử xấu hay gây tai hại cho chúng được không? Tôi mời gọi tất cả các Kitô hữu làm rõ nét sự sám hối, khi cho phép sức mạnh và ánh sáng của ân sủng đã được lãnh nhận trải rộng trên mọi tương quan với tất cả thụ tạo khác và với cả thế giới xung quanh, và gợi lên tình huynh đệ với toàn thể sáng tạo mà Thánh Phanxicô đã sống một cách rạng rỡ.
IV. NIỀM VUI VÀ AN BÌNH
222. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một cách hiểu khác về phẩm chất cuộc sống và động viên một cách sống mang tính ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui mừng cách sâu xa mà không bị đè nén bởi tiêu thụ. Điều này quan trọng khi lấy lại một lời dạy cổ xưa có trong các truyền thống tôn giáo khác nhau và ngay cả trong Kinh Thánh. Lời này nói về việc xác tín “ít lại hoá nhiều” [weniger mehr ist – moins est plus]. Việc luôn luôn chất đống các đối tượng tiêu thụ sẽ hướng trái tim đi xuống và ngăn cản việc đánh giá từng đối tượng và từng giây phút. Ngược lại, sự kiện mình luôn luôn hiện diện trước một thực tại, cho dù nó rất nhỏ, cũng mở cho chúng ta nhiều khả năng để hiểu biết và triển nở chính cá nhân mình. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một sự phát triển nhờ sự điều độ và một khả năng vui với số ít. Đó là việc trở về với sự đơn sơ, cho phép chúng ta dừng lại để đánh giá điều thật nhỏ, để cám ơn các khả năng mà cuộc sống ban cho, mà chúng ta không phải bị trói buộc vào điều chúng ta có và cũng không buồn vì điều chúng ta không chiếm hữu. Điều này giả thiết phải tránh sự năng động muốn làm chủ và gia tăng niềm vui.
223. Sự điều độ, nếu được sống với tự do và ý thức, sẽ mang tính chất giải phóng. Điều này không có nghĩa là sống ít hơn, cũng không có nghĩa là mức độ thấp kém của cuộc sống, nhưng ngược lại ; vì trong thực tế, những người sống nhiều hơn trong từng giây phút và sống tốt hơn, sẽ chấm dứt việc tìm tòi liên lỉ theo những đối tượng mà họ chưa có và khi tìm kiếm như thế, họ có khả năng phá vỡ những nhu cầu ít cần thiết và thu ngắn sự mệt mỏi lại và ít bị hành hạ. Người ta có thể sống với ít điều cần thiết, nhất là khi có khả năng xác định những thú vui khác; người ta có thể thoả mãn trong những cuộc gặp gỡ huynh đệ, trong phục vụ, trong việc triển khai những đặc sủng của chính mình, trong âm nhạc và nghệ thuật, trong việc liên hệ với thiên nhiên, trong cầu nguyện. Hạnh phúc đòi buộc chúng ta phải biết thu hẹp lại một số nhu cầu của chúng ta, và như thế, chúng ta có thể sẵn sàng cho nhiều khả năng do cuộc sống đem đến.
224. Điều độ và khiêm tốn đã không được đánh giá cao trong thế kỷ cuối cùng này. Nhưng khi chễnh mãn thực tập một nhân đức trong đời sống cá nhân hoặc trong cộng đoàn, sẽ đưa đến việc mất thăng bằng, kể cả mất thăng bằng với môi trường. Như thế không đủ để chỉ trình bày về sự toàn vẹn của hệ thống môi sinh. Người ta phải can đảm để nói về sự toàn vẹn của sự sống con người, về sự cần thiết phải có tất cả những giá trị lớn lao và liên kết với nhau. Việc biến mất đức khiêm nhường nơi một con người, thoả mãn vô cùng về khả năng làm chủ tất cả không có một ranh giới nào, cuối cùng chỉ có thể gây tác hại cho xã hội và môi trường. Không dễ để phát triển sự khiêm nhường lành mạnh và sự điều độ vui vẻ, khi chúng ta cảm thấy mình làm chủ lấy mình, khi chúng ta loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời chúng ta, và cái tôi của chúng ta sẽ nắm lấy vị trí của Người, nếu chúng ta tin rằng chúng ta chính là chủ thể có quyền xác định điều gì lành điều gì dữ.
225. Mặt khác, không ai có thể thoả mãn trong một sự điều độ, nếu họ không tìm được bình an nơi chính mình. Một sự hiểu biết đúng đắn về linh đạo một phần nằm ở chỗ phải triển khai ý niệm về sự bình an, điều này còn hơn là sự vắng bóng chiến tranh. Bình an nội tâm của con người có nhiều vấn đề trong việc chăm sóc môi sinh và công ích, chỉ vì, khi sống một cách đích thực, sẽ phản ảnh trong một lối sống thăng bằng, liên kết với khả năng kinh ngạc, sẽ đưa cuộc sống vào trong thâm sâu. Thiên nhiên chứa chất đầy lời của tình yêu. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể lắng nghe giữa những tiếng ồn ào liên tục, trong sự lo ra thường xuyên đầy âu lo hoặc trong thờ phượng những hình ảnh bên ngoài? Nhiều người cảm thấy một sự mất quân bình sâu xa thúc đẩy họ làm nhiều việc một cách vội vã, cảm thấy bận rộn, trong việc đảo lộn tất cả những gì xung quanh. Đó là thái độ họ xử sự với môi trường. Một khoa sinh thái đầy đủ đòi hỏi phải có thời gian để tìm lại được sự đồng cảm với sáng tạo, để chiêm ngắm Đấng Sáng Tạo, Đấng đang sống giữa chúng ta và xung quanh chúng ta; sự hiện diện của Người “không phải chúng ta đặt ra, nhưng phải khám phá và biểu lộ ra bên ngoài” [155].
226. Chúng ta nói về thái độ của trái tim đang sống với tất cả, trong một sự chú tâm trọn vẹn, điều này có nghĩa là hiện diện hoàn toàn trước một người khác mà không nghĩ về điều gì sẽ đến. Người đó hoàn toàn sống mỗi giây phút như một quà tăng của Thiên Chúa, cần phải sống tràn đầy và trọn vẹn. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ này khi Người mời chúng ta ngắm xem hoa cỏ ngoài đồng và các con chim trời, hoặc khi đối diện với một người đang lo lắng, và yêu thương họ (x. Mc 10,21). Vâng, Người hoàn toàn hiện diện đối với từng người cũng như với từng thụ tạo, và như thế, Người cho chúng ta thấy con đường để vượt qua sự lo lắng bệnh hoạn, làm cho chúng ta hời hợt, nổi nóng và thành người tiêu thụ không chút xấu hổ.
227. Dừng lại để cảm tạ Thiên Chúa trước và sau bữa ăn là biểu hiện của thái độ này. Tôi đề nghị với các Kitô hữu, hãy canh tân thói quen tốt đẹp này và sống thật sâu xa. Giây phút chúc lành, dù rất ngắn, gợi nhớ cho chúng ta, chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa với tất cả cuộc đời, điều này nâng đỡ cảm nghiệm biết ơn vì những quà tặng của sáng tạo, nhận ra những người đã lao nhọc cho các tặng phẩm này và củng cố tình liên đới với những người đang thiếu thốn.
V. TÌNH YÊU TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ
228. Việc chăm sóc thiên nhiên là thành phần của một cách sống, đưa đến khả năng cùng chung sống với mọi người và trở thành cộng đoàn. Đức Giêsu nhắc nhớ chúng ta, Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và điều này đã khiến tất cả chúng ta trở thành anh em, chị em với nhau. Tình liên đới phải là nhưng không và không ai phải trả giá cho điều kẻ khác thực hiện, cũng không phải một tiên liệu mà chúng ta mong chờ nơi người ấy. Vì thế, chúng ta mới có khả năng yêu mến kẻ thù. Chính tính chất nhưng không này dẫn chúng ta đến việc yêu mến đối với ngọn gió, mặt trời và các áng mây, và chấp nhận, vì chúng không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta. Vì thế chúng ta mới có thể nói đến một tình huynh đệ phổ quát.
229. Phải ý thức rằng chúng ta cần đến nhau; chúng ta phải có trách nhiệm đối với kẻ khác và với thế giới; thật hữu ích nếu chúng ta lương thiện và tốt lành. Đã có một thời gian dài chúng ta sống sa đoạ về mặt luân lý, chúng ta cười chê đạo đức, niềm tin và lương thiện ; đã đến lúc sự hời hợt bề ngoài không giúp ích gì cho chúng ta. Việc tàn phá bất cứ nền tảng nào của đời sống cộng đoàn, cuối cùng cũng đưa đến sự chống đối người này với người kia, mỗi người tự tìm để bảo vệ những lợi ích cho riêng mình ; từ thái độ đó đưa đến những hình thức bạo lực và độc ác, ngăn cản sự phát triển một nền văn hoá đích thực để bảo vệ môi trường.
230. Gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux mời gọi chúng ta thực hiện con đường nhỏ của tình yêu, đừng đánh mất cơ hội để nói một lời dễ thương, một nụ cười, bất cứ một cử chỉ nhỏ bé nào tạo bình an và tình bạn. Một khoa sinh thái trọn vẹn cũng được thực hiện từ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vỡ lý luận của bạo lực, tận dụng và ích kỷ. Trong khi đó, thế giới tiêu thụ cách điên khùng cũng là thế giới trong đó cuộc sống bị các hình thức xấu xa hành hạ.
231. Tình yêu được hiện thực từ những cử chỉ bé nhỏ chú tâm cho nhau, cũng mang tính chất xã hội và chính trị, và biểu lộ trong tất cả hành động cố xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Tình yêu mến xã hội và sự dấn thân cho công ích là một biểu lộ tuyệt vời cho tình bác ái, không những tương quan giữa các cá nhân, mà còn đi đến các tương quan vĩ mô [Makro-Beziehung – macro-relations]: tương quan xã hội, kinh tế, chính trị” [156]. Vì thế, Giáo Hội đề nghị với thế giới lý tưởng của một “văn hoá tình thương” [Kultur der Liebe – civilisation de l’amour] [157]. Tình yêu, trên bình diện xã hội, là chìa khoá cho một sự phát triển đích thực: “Để có thể làm cho xã hội nhân bản hơn, cá nhân với nhân phẩm tốt đẹp hơn, phải đánh giá lại tình yêu trong đời sống xã hội – trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hoá – và phải đặt tình yêu trở thành lề luật cao nhất cho hành động” [158]. Trong khung này, tình yêu thúc đẩy chúng ta suy nghĩ đến những chiến thuật mới ngay cả như bắt dừng sự tàn phá môi trường và đòi hỏi một nền “văn hoá bảo vệ” [kultur der Achtsamkeit – culture de protection] ảnh hưởng trên toàn xã hội. Khi có người nào nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa, sẽ cùng chung với những người khác tham gia vào sự năng động xã hội, người đó cũng nhớ lại rằng, đó là một phần linh đạo của họ, chính là thực hiện tình yêu tha nhân và khi thực hiện theo cách thức này họ sẽ trưởng thành và tự thánh hoá chính mình.
232. Không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi trực tiếp tham gia vào chính trị, nhưng ngay trong xã hội đã xuất hiện nhiều tổ chức chú tâm vào công ích, khi cố gắng bảo vệ môi trường thành phố. Tỉ như họ lo lắng cho có một nơi công cộng (một toà nhà, một vòi phung nước, một đài kỷ niệm, một khung cảnh thanh bình, một công trường) và tất cả những gì thuộc về những đối tượng đó; họ lo lắng bảo vệ, lành mạnh hoá, làm tốt hơn hoặc làm đẹp hơn. Quanh những tổ chức đó, triển khai hoặc nảy sinh một mạng lưới xã hội. Một cộng đồng tự giải thoát mình khỏi sự tiêu thụ dửng dưng. Điều đó làm nổi bật văn hoá của một căn tính chung, một lịch sử tồn tại và tiếp tục phát triển. Theo cách này, thế giới và phẩm chất đời sống của người nghèo sẽ được chăm sóc, nhờ vào ý nghĩa liên đới, đồng thời cũng là ý thức cùng chung một nhà, được Thiên Chúa trao phó. Những hoạt động chung như thế, khi diễn tả một tình yêu dâng hiến, có thể trở thành những kinh nghiệm tinh thần sâu xa.
VI. NHỮNG DẤU CHỈ BÍ TÍCH VÀ YÊN LẶNG ĐỂ CỬ HÀNH
233. Vũ trụ đang khai mở trong Thiên Chúa, Đấng bao phủ chúng tràn đầy. Như thế. có một mầu nhiệm trong một trang giấy, trên một con đường, trong sương mai, trong gương mặt của người nghèo [159]. Lý tưởng không chỉ là từ bên ngoài tiến vào bên trong để khám phá ra hành động của Thiên Chúa trong linh hồn, nhưng có thể đạt được qua cuộc gặp gỡ Người trong mọi vật, Như thánh Bonaventura dạy: “Chiêm niệm chỉ đạt đến đỉnh cao khi con người cảm nghiệm hiệu quả hồng ân Thiên Chúa trong chính mình, hoặc khi con người càng hiểu rõ để gặp gỡ Thiên Chúa trong mọi thụ tạo bên ngoài” [160].
234. Thánh Gioan Thánh Giá dạy, những gì tốt đẹp trong vạn vật và trong kinh nghiệm của thế giới “sẽ gặp nhau trong Thiên Chúa hoặc nói rõ hơn, mỗi sự vật cao vời là chính Thiên Chúa, cũng như tất cả những gì tuyệt vời đều kết hợp trong Thiên Chúa” [161] Không phải những vật hạn hẹp thực sự mang thiên tính, nhưng người theo thần bí sẽ cảm nghiệm trong thâm sâu của mình, điều giữa Thiên Chúa và tất cả vạn vật, và như thế họ cảm nhận: tất cả vạn vật là Thiên Chúa [Alle Dinge – das ist Gott / il sent que Dieu est toutes les choses] [162] Nếu người ấy kinh ngạc trước sự vĩ đại của một ngọn núi, thì họ không thể tách ngọn núi ra khỏi Thiên Chúa và nhận thức, sự kinh ngạc nội tâm mà họ cảm nghiệm, phải hướng về Chúa. “Những ngọn núi được nâng lên cao, chúng thật màu mỡ, rộng, đẹp, mát mẻ, đầy bóng mát. Đối với tôi, những ngọn núi này là Đấng yêu thương của tôi [Diese Gebirge – das ist mein Geliebter fũr mich – Mon Bien-Aimé est pour moi ces montagnes]. Những thung lũng xa xôi thật êm ả, dễ thương, thoáng đãng và đầy bóng mát, đầy nước ngọt, với biết bao loài cây cối, với tiếng ca của các loài chim đang trú ngụ. Chúng tạo nên sự mát mẻ và yên nghỉ nhờ sự yên tịnh và thinh lặng đang có. Đối với tôi, những thung lũng này là Đấng yêu thương tôi” [163].
235. Các bí tích là môt cách thức ưu tuyển, trong đó, thiên nhiên được Thiên Chúa đón lấy và trở thành trung gian cho đời sống siêu nhiên. Qua diễn tiến phụng vụ, chúng ta được mời gọi ôm lấy thế giới trên một bình diện khác. Nước, dầu, lửa và màu sắc được đón nhận với các biểu trưng của chúng và được đưa vào những lời ca tụng. Bàn tay chúc lành là công cụ của tình yêu Thiên Chúa và phản ánh sự gần gũi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đến để đồng hành với chúng ta trên đường đời. Nước được xối trên thân xác em bé được rửa tội, là dấu chỉ cho một đời sống mới. Chúng ta không thoát ra khỏi thế gian, cũng không phủ nhận thiên nhiên, khi chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này có thể nhận ra một cách đặc biệt trong linh đạo Kitô giáo Đông phương: “Vẻ đẹp là một trong những dấu chỉ ưu ái nhất trong Giáo Hội Đông phương để chỉ sự hoà hợp thần linh và mẫu ảnh cho nhân loại được chuyển đổi, được biểu lộ ở khắp mọi nơi: trong các hình dáng và cách trình bày nhà thờ, trong âm thanh, màu sắc, ánh sáng, trong mùi hương” [164]. Theo kinh nghiệm Kitô giáo, tất cả thụ tạo của vũ trụ vật chất sẽ tìm được ý nghĩa đích thực trong Ngôi Lời Nhập Thể, chỉ vì Con Thiên Chúa đã hội nhập trong con người của mình một phần của vũ trụ vật thể, nơi mà Người đưa vào một mầm giống chuyển đổi dứt khoát: “Kitô giáo không phủ nhận vật chất, thân xác, nhưng đánh giá cao trong hành động phụng vụ, trong đó, thân xác con người cho thấy bản chất sâu xa của mình là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần và được kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng vì muốn cứu độ trần gian đã đón nhận một thân xác” [165].
236. Sáng tạo tìm được ý nghĩa cao cả nhất của mình trong bí tích Thánh Thể. Hồng ân hướng đến sự biểu lộ theo cách khả giác, đạt được cách biểu lộ khác thường khi Thiên Chúa làm người, trở thành lương thực cho thụ tạo. Nơi đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa đã muốn tiến vào sâu thẳm của chúng ta qua một chút vật chất. Không phải từ trên cao xuống, nhưng từ trong thâm sâu tiến ra, để chúng ta có thể gặp gỡ Người trong thế giới của chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, sự viên mãn đã được hiện thực; đó là trung tâm đời sống của vũ trụ, điểm xuất phát tràn đầy của tình yêu và cuộc sống vô hạn. Kết hợp với Ngôi Con Nhập Thể đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, toàn thể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa. Thật vậy, bí tích Thánh Thể tự tại là một hành động tình yêu mang tính vũ trụ: “Vâng, mang tính vũ trụ! Vì ngay cả khi được cử hành trên bàn thờ nhỏ trong một nhà thờ vùng quê, người ta vẫn luôn cử hành với một ý nghĩa xác tín trên bàn thờ của thế giới” [166]. Bí tích Thánh Thể kết hợp trời với đất, ôm trọn và thẩm thấu vào tất cả sáng tạo. Thế giới xuất phát từ bàn tay của Thiên Chúa, quay về với Người trong một sự thờ phượng thánh thiện và viên mãn. Trong Bánh Thánh Thể “cả sáng tạo hướng đến việc thần hoá, đến các tiệc thánh, đến sự kết hợp với Đấng Sáng Tạo” [167]. Vì thế, bí tích Thánh Thể cũng là nguồn ánh sáng và động lực để việc chăm sóc môi trường và mời gọi chúng ta trở thành những người gìn giữ toàn thể sáng tạo.
237. Chúa Nhật, việc tham dự vào bí tích Thánh Thể mang một ý nghĩa đặc biệt. Ngày này cũng giống như ngày Sabbat của người Do Thái, là ngày thanh tẩy những tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với kẻ khác và với cả thế giới. Chúa Nhật là ngày Phục Sinh, “ngày đầu tiên” của sáng tạo mới, mà những hoa trái đầu tiên là nhân loại được phục sinh của Chúa, gia sản bảo đảm cho việc chuyển đổi cuối cùng của tất cả thực tại đã được sáng tạo. Ngoài ra, ngày này cũng công bố “sự yên nghỉ vĩnh cửu của con người trong Thiên Chúa” [168]. Trong cách thức này, linh đạo Kitô giáo hội nhập cả giá trị của sự nghỉ ngơi và lễ lạc. Con người thường đưa sự nghỉ ngơi chiêm niệm vào bình diện những điều vô ích và không cần thiết, và quên rằng công việc mà họ thực hiện mang một tính chất quan trọng: ý nghĩa của mình. Chúng ta được mời gọi đưa vào hành động của chúng ta một chiều kích đón nhận và nhưng không, khác với việc không làm gì cả. Đó là một cách thức hoạt động, là một phần thuộc về yếu tính của chúng ta. Với cách thức này, hoạt động của con người không chỉ tránh khỏi sự hoạt động trống rỗng, cũng như sự khao khát bạo lực và cô độc, chỉ chạy theo lợi lộc cá nhân. Luật nghỉ ngơi hằng tuần nói rõ, không làm việc trong ngày thứ bảy, “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức” (Xh 23,12). Thật vậy, việc nghỉ ngơi là một sự nới rộng cái nhìn giúp nhận ra cách mới mẻ quyền lợi của kẻ khác. Như thế, ngày nghỉ, mà bí tích Thánh Thể là trung tâm, chiểu toả ánh sáng trên cả tuần lễ và thúc đẩy chúng ta lo chăm sóc cho thiên nhiên và người nghèo.
VII. THIÊN CHÚA BA NGÔI VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC THỤ TẠO
238. Thiên Chúa Cha là nguồn gốc tối thượng của tất cả, Đấng là nền tảng đầy tình thương và kết hiệp với tất cả những gì hiện hữu. Chúa Con, Đấng phản ánh Chúa Cha và qua Người mà muôn vật được tạo thành, đã tự liên kết với trái đất này, khi Người được hình thành trong cung lòng Đức Maria. Chúa Thánh Thần, dây liên kết bất tận của tình yêu, hiện diện một cách thân thiết với vũ trụ, khi Người tác động và tạo nên những con đường mới. Thế giới được Thiên Chúa Ba Ngôi tạo dựng như một nguyên lý thần linh duy nhất, nhưng mỗi Vị thực hiện công trình chung này theo cách của mình. “Khi chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm sự vĩ đại và vẻ đẹp của vũ trụ, chúng ta phải ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi” [169].
239. Đối với các Kitô hữu, niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông Ba Ngôi, gợi lên trong chúng ta suy nghĩ về tất cả thực tại chứa đựng trong nội tâm của Người là một dấu chứng rõ ràng cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Bonaventura tiến xa hơn để xác định, trước khi phạm tội, con người có thể khám phá ra nơi mỗi thụ tạo “đều biểu lộ Thiên Chúa Ba Ngôi”. Con người có thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thiên nhiên “khi quyển sách này không phải tối mò đối với con người, và con mắt của con người không bị xáo động” [170] Vị Thánh dòng Phanxicô dạy chúng ta, “mỗi thụ tạo mang trong mình một cấu trúc rõ ràng về Ba Ngôi”, rõ ràng đến độ chúng ta có thể tình cờ chiêm ngắm nếu như cái nhìn của con người không bị ngăn cản, xáo trộn và yếu đuối. Ngài chỉ cho chúng ta những cách thức để tìm cách đọc ra thực tế với chìa khoá Ba Ngôi.
240. Các Ngôi vị Thiên Chúa là những liên hệ hiện hữu, và thế giới được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, là một sơi chỉ của liên hệ. Các thụ tạo hướng về Thiên Chúa và mỗi sinh vật, đến phiên mình có đặc tính hướng đến các sinh vật khác, đến độ ngay trong vũ trụ có vô số tương quan kết hợp với nhau cách mầu nhiệm [171]. Điều này mời gọi chúng ta không những kinh ngạc trước biết bao mối tương quan đang có giữa các thụ tạo, nhưng còn dẫn chúng ta khám phá ra chìa khoá của chính hiện thực của chúng ta. Vì con người lớn lên, trưởng thành và thánh hoá bản thân theo mức độ họ bước vào mối tương quan, khi bước ra khỏi bản thân mình để sống hiệp thông với Thiên Chúa, với kẻ khác và với tất cả thụ tạo. Như thế, họ bảo đảm trong hiện sinh của mình sự năng động của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đã đóng ấn trong con người từ lúc sáng tạo nên họ. Tất cả đều liên kết với nhau, và điều này mời gọi chúng ta sống một linh đạo liên đới với mọi thụ tạo, xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
VIII. NỮ HOÀNG CỦA CẢ SÁNG TẠO
241. Đức Maria, người Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu, trong hiện tại, với tình mẫu tử và khổ đau, cũng đang chăm sóc cho thế giới đang bị thương tích. Với trái tim bị đâm thâu, Mẹ đã khóc trước cái chết của Đức Giêsu, bây giờ Mẹ cũng cảm thông với những người nghèo đang bị đóng đinh và các thụ tạo trên trái đất này tan nát vì quyền lực của con người. Mẹ sống với Chúa Giêsu trong hiển dung hoàn toàn biến đổi và tất cả thụ tạo đều ca tụng vẻ đẹp của Mẹ. Mẹ là người nữ “mặc áo mặt trời, mặt trăng… dưới chân Mẹ và mũ triều thiên với mười hai ngôi sao trên đầu Mẹ” (Kh 12,1). Được nâng lên trời, Mẹ là Mẹ và là Nữ Vương của toàn thể sáng tạo. Trong thân xác vinh quang, cùng với Đức Kitô Phục Sinh, một phần của sáng tạo đã đạt được trọn vẹn sự đẹp đẽ của mình. Mẹ nhìn vào trong trái tim của Mẹ không những toàn bộ đời sống của Chúa Giêsu, mà Mẹ đã gìn giữ một cách trung tín (x. Lc 2, 19.51), nhưng bây giờ Mẹ hiểu được ý nghĩa của vạn vật. Vì thế, chúng con có thể kêu cầu Mẹ, để Mẹ giúp chúng con, biết nhìn thế giới với con mắt khôn ngoan hơn.
242. Cùng với Mẹ, nổi bật hình ảnh của thánh Giuse trong Thánh Gia. Ngài chăm sóc Đức Maria và Chúa Giêsu với lao động và sự hiện diện quảng đại của mình và đã giải thoát các ngài khỏi quyền lực của kẻ bất công, khi đưa các ngài sang Ai Cập. Trong Tin Mừng, ngài xuất hiện như một người công chính, lao động và mạnh mẽ. Thế nhưng, gương mặt của ngài cũng cho chúng ta nhận thấy một sự dịu hiền vĩ đại, không phải là đặc tính của kẻ yếu đuối, nhưng là của những kẻ thực sự mạnh mẽ, chú tâm đến thực tế để yêu mến và phục vụ cách khiêm tốn. Vì thế, ngài được tuyên bố là Đấng Bảo Hộ cho toàn thể Giáo Hội. Ngài cũng có thể dạy chúng ta để che chở, có thể động viên chúng ta lao động với tấm lòng quảng đại và âu yếm, để chăm sóc thế giới mà Thiên Chúa đã gửi gắm cho chúng ta.
IX. BÊN KIA ÁNH MẶT TRỜI
243. Cuối cùng, chúng ta đứng đối diện với vẻ đẹp vô tận của Thiên Chúa (x. 1 Cr 13,12) và với một sự thán phục sung sướng, chúng ta có thể đọc được mầu nhiệm Người cho chúng ta chia sẻ vào sự viên mãn vô tận của Người. Vâng, chúng ta đang lữ hành đến ngày Sabbát vĩnh cửu, đến Giêrusalem mới, ngôi nhà chung ở trên trời. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đây! Ta làm cho tất cả nên mới” (Kh 21,5). Cuộc sống vĩnh cửu sẽ là một sự kinh ngạc được chia sẻ, nơi mỗi thụ tạo sẽ tìm được vị trí của mình trong việc hiển linh chói sáng và sẽ có điều gì mang đến cho kẻ nghèo được giải phóng một cách dứt khoát.
244. Giữa thời gian đó, chúng ta được kết hợp lại với nhau để đón nhận ngôi nhà này, ngôi nhà được trao cho chúng ta, vì chúng ta biết, tất cả điều gì tốt đẹp đang có, sẽ được đón nhận vào bàn tiệc thiên quốc. Chúng ta sẽ cùng tiến bước với tất cả thụ tạo trên con đường của chúng ta trên thế gian này – để đi tìm Thiên Chúa – chỉ vì “khi thế gian có một nguồn gốc và được tạo dựng, nó sẽ đi tìm Đấng sáng tạo nên nó, nó tìm Đấng đã ban cho nó một khởi đầu, đó là Đấng Sáng Tạo của nó” [172]. Hãy tiến bước trong tiếng ca vang! Ước gì, cuộc chiến đấu của chúng ta cho hành tinh này sẽ không cất đi khỏi chúng ta niềm vui của hy vọng.
245. Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta dấn thân cách quảng đại, ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng mà chúng ta cần thiêt đế tiến bước. Giữa trung tâm thế giới này, Chúa của cuộc sống, Đấng quá yêu thương chúng ta, vẫn tiếp tục hiện diện. Người sẽ không bao giờ lìa bỏ chúng ta, không bao giờ để chúng ta một mình, chỉ vì Người dứt khoát kết hợp với trái đất của chúng ta và tình yêu của Người vẫn luôn dẫn chúng ta đi tìm những con đường mới. Chúc tụng Người!
246. Sau một suy tư lâu dài vừa vui, cũng vừa đầy đau khổ, tôi xin đề nghị hai lời kinh: một lời mà chúng ta có thể chia sẻ với tất cả mọi người tin vào một Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo đầy quyền năng, và một lời kinh khác để cho những người Kitô hữu chúng ta có thể đón nhận trách nhiệm đối với sáng tạo như Tin Mừng của Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta.
Lời kinh cho trái đất chúng ta
Lạy Thiên Chúa toàn năng
Chúa luôn hiện diện trong vũ trụ
và ngay trong những thụ tạo nhỏ bé nhất của Chúa.
Chúa đã phủ đầy lòng từ ái trên tất cả những gì hiện hữu,
Xin gieo vào lòng chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa,
để chúng con bảo vệ cuộc sống và vẻ đẹp muôn loài.
Xin đổ tràn bình an của Chúa vào lòng chúng con,
để chúng con có thể sống như anh em, chị em với nhau,
không tác hại cho bất cứ người nào.
Lạy Thiên Chúa của anh chị em nghèo khổ,
xin trợ giúp chúng con
để chúng con giơ tay cứu giúp những anh chị em bị bỏ rơi,
những người bị lãng quên trên trái đất này,
những người này thực sự luôn luôn có giá trị trước mặt Chúa.
Xin cứu chữa cuộc sống của chúng con,
để chúng con trở thành những người bảo vệ cho trái đất này,
chứ không phải là những kẻ cướp bóc,
để chúng con gieo những gì tốt đẹp
chứ không phải những thứ ô nhiễm và tàn phá.
Xin chạm đến tâm hồn những kẻ chỉ tìm thành công
dựa trên giá trị của người nghèo và của trái đất này.
Xin dạy chúng con
khám phá giá trị của vạn vật
và biết chiêm ngắm trong sự ngất ngây,
để nhận ra
chính chúng con cũng được liên kết sâu xa với tất cả thụ tạo này
trên con đường chúng con tiến vào ánh sáng vô tận của Chúa.
Xin tạ ơn Chúa
vì Chúa hiện diện từng ngày với chúng con.
Chúng con nài xin Chúa
nâng đỡ chúng con
trong cuộc chiến cho công bằng, tình thương và bình an.
Lời kinh của Kitô hữu cùng với sáng tạo
Lạy Cha,
cùng với muôn thụ tạo xuất phát từ bàn tay uy quyền của Cha,
chúng con cùng ngợi khen Cha.
Tất cả đều thuộc về Cha
và tất cả được tràn đầy sự hiện diện và tình âu yếm của Cha.
Chúng con xin ngợi khen Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
nhờ Chúa mà tất cả được tạo thành.
Trong cung lòng Mẹ Maria,
Chúa đã nhận lấy hình dạng con người ;
Chúa trở thành một thành phần của trái đất này
và đã nhìn thế giới với con mắt nhân loại.
Ngày nay Chúa vẫn sống động trong từng thụ tạo
với vinh quang phục sinh của Chúa.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần,
nhờ ánh sáng của Chúa,
Chúa đã hướng thế giới này đến tình yêu của Chúa Cha;
Chúa vẫn sống trong tâm hồn chúng con,
để khuyến khích chúng con thực hành các việc thiện.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Duy nhất và Ba Ngôi,
Cộng Đoàn Tối Thượng của tình yêu vô biên,
xin dạy chúng con biết nhìn ngắm Chúa
trong vẻ đẹp của vũ trụ,
nơi tất cả nói với chúng con về Chúa.
Xin khơi dậy trong chúng con lời ca ngợi với lòng biết ơn
đối với từng hữu thể do Chúa sáng tạo.
Xin ban cho chúng con hồng ân
để chúng con cảm nhận sự gắn bó thân thiết với tất cả vạn vật.
Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin cho chúng con thấy vị trí của chúng con trong thế giới này
như khí cụ tình yêu của Chúa
đối với tất cả sinh vật trên trái đất này,
mà không thụ tạo nào lại quên Chúa.
Xin soi sáng cho những người ôm lấy giàu sang và quyền hành,
để họ lánh xa khỏi tội lỗi về sự dửng dưng,
biết yêu mến công ích,
động viên kẻ yếu hèn
và chăm sóc thế giới mà chúng con đang sống,
Kẻ nghèo và trái đất đều nài xin:
Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con
bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa,
để chở che mọi sự sống,
để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp,
ước gì Nước công bằng, bình an, tình thương và tuyệt mĩ mau đến.
Chúng con chúc tụng Chúa.
Amen.
 
 
Ban hành tại Rôma, cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô,
ngày 24 tháng 05 năm 2015, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống,
vào năm thứ ba triều đại Giáo Hoàng của tôi.
+ FRANCIS
Giáo Hoàng
 
 
(Lm. Augustin Nguyễn Văn Trinh chuyển ngữ)
 
 
________________________________________
[1] Canticle of the Creatures, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 1, New York-London-Manila, 1999, 113-114.
[2] Apostolic Letter Octogesima Adveniens (14 May 1971), 21: AAS 63 (1971), 416-417.
[3] Address to FAO on the 25th Anniversary of its Institution (16 November 1970), 4: AAS 62 (1970), 833.
[4] Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), 15: AAS 71 (1979), 287.
[5] Cf. Catechesis (17 January 2001), 4: Insegnamenti 41/1 (2001), 179.
[6] Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 38: AAS 83 (1991), 841.
[7] Ibid., 58: AAS 83 (1991), p. 863.
[8] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 34: AAS 80 (1988), 559.
[9] Cf. ID., Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 37: AAS 83 (1991), 840.
[10] Address to the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (8 January 2007): AAS 99 (2007), 73.
[11] Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 51: AAS 101 (2009), 687.
[12] Address to the Bundestag, Berlin (22 September 2011): AAS 103 (2011), 664.
[13] Address to the Clergy of the Diocese of Bolzano-Bressanone (6 August 2008): AAS 100 (2008), 634.
[14] Message for the Day of Prayer for the Protection of Creation (1 September 2012).
[15] Address in Santa Barbara, California (8 November 1997); cf. JOHN CHRYSSAVGIS, On Earth as in Heaven: Ecological Vision and Initiatives of Ecumenical Patriarch Bartholomew, Bronx, New York, 2012.
[16] Ibid.
[17] Lecture at the Monastery of Utstein, Norway (23 June 2003).
[18] “Global Responsibility and Ecological Sustainability”, Closing Remarks, Halki Summit I, Istanbul (20 June 2012).
[19] THOMAS OF CELANO, The Life of Saint Francis, I, 29, 81: in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 1, New York-London-Manila, 1999, 251.
[20] The Major Legend of Saint Francis, VIII, 6, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 2, New York-London-Manila, 2000, 590.
[21] Cf. THOMAS OF CELANO, The Remembrance of the Desire of a Soul, II, 124, 165, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 2, New York-London-Manila, 2000, 354.
[22] SOUTHERN AFRICAN CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Statement on the Environmental Crisis (5 September 1999).
[23] Cf. Greeting to the Staff of FAO (20 November 2014): AAS 106 (2014), 985.
[24] FIFTH GENERAL CONFERENCE OF THE LATIN AMERICAN AND CARIBBEAN BISHOPS, Aparecida Document (29 June 2007), 86.
[25] CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE OF THE PHILIPPINES, Pastoral Letter What is Happening to our Beautiful Land? (29 January 1988).
[26] BOLIVIAN BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter on the Environment and Human Development in Bolivia El universo, don de Dios para la vida (23 March 2012), 17.
[27] Cf. GERMAN BISHOPS’ CONFERENCE, Commission for Social Issues, Der Klimawandel: Brennpunkt globaler, intergenerationeller und ökologischer Gerechtigkeit (September 2006), 28-30.
[28] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 483.
[29] Catechesis (5 June 2013): Insegnamenti 1/1 (2013), 280.
[30] BISHOPS OF THE PATAGONIA-COMAHUE REGION (ARGENTINA), Christmas Message (December 2009), 2.
[31] UNITED STATES CONFERENCE OF CATHOLIC BISHOPS, Global Climate Change: A Plea for Dialogue, Prudence and the Common Good (15 June 2001).
[32] FIFTH GENERAL CONFERENCE OF THE LATIN AMERICAN AND CARIBBEAN BISHOPS, Aparecida Document (29 June 2007), 471.
[33] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 56: AAS 105 (2013), 1043.
[34] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 12: AAS 82 (1990), 154.
[35] ID., Catechesis (17 January 2001), 3: Insegnamenti 24/1 (2001), 178.
[36] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 15: AAS 82 (1990), 156.
[37] Catechism of the Catholic Church, 357.
[38] Angelus in Osnabrück (Germany) with the disabled, 16 November 1980: Insegnamenti 3/2 (1980), 1232.
[39] BENEDICT XVI, Homily for the Solemn Inauguration of the Petrine Ministry (24 April 2005): AAS 97 (2005), 711.
[40] Cf. BONAVENTURE, The Major Legend of Saint Francis, VIII, 1, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 2, New York-London-Manila, 2000, 586.
[41] Catechism of the Catholic Church, 2416.
[42] GERMAN BISHOPS’ CONFERENCE, Zukunft der Schöpfung – Zukunft der Menschheit. Einklärung der Deutschen Bischofskonferenz zu Fragen der Umwelt und der Energieversorgung, (1980), II, 2.
[43] Catechism of the Catholic Church, 339.
[44] Hom. in Hexaemeron, I, 2, 10: PG 29, 9.
[45] The Divine Comedy, Paradiso, Canto XXXIII, 145.
[46] BENEDICT XVI, Catechesis (9 November 2005), 3: Insegnamenti 1 (2005), 768.
[47] ID., Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 51: AAS 101 (2009), 687.
[48] JOHN PAUL II, Catechesis (24 April 1991), 6: Insegnamenti 14 (1991), 856.
[49] Cf. Catechism of the Catholic Church, 310.
[50] Cf. SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 36.
[51] THOMAS AQUYNAS, Summa Theologiae, I, q. 104, art. 1 ad 4.
[52] ID., In octo libros Physicorum Aristotelis expositio, Lib. II, lectio 14.
[53] Against this horizon we can set the contribution of Fr Teilhard de Chardin; cf. PAUL VI, Address in a Chemical and Pharmaceutical Plant (24 February 1966): Insegnamenti 4 (1966), 992-993; JOHN PAUL II, Letter to the Reverend George Coyne(1 June 1988): Insegnamenti 11/2 (1988), 1715; BENEDICT XVI, Homily for the Celebration of Vespers in Aosta (24 July 2009): Insegnamenti 5/2 (2009), 60.
[54] JOHN PAUL II, Catechesis (30 January 2002),6: Insegnamenti 25/1 (2002), 140.
[55] CANADIAN CONFERENCE OF CATHOLIC BISHOPS, SOCIAL AFFAIRS COMMISSION, Pastoral Letter You Love All that Exists… All Things are Yours, God, Lover of Life” (4 October 2003), 1.
[56] CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE OF JAPAN, Reverence for Life. A Message for the Twenty-First Century (1 January 2000), 89.
[57] JOHN PAUL II, Catechesis (26 January 2000), 5: Insegnamenti 23/1 (2000), 123.
[58] ID., Catechesis (2 August 2000), 3: Insegnamenti 23/2 (2000), 112.
[59] PAUL RICOEUR, Philosophie de la Volonté, t. II: Finitude et Culpabilité, Paris, 2009, 216.
[60] Summa Theologiae, I, q. 47, art. 1.
[61] Ibid.
[62] Cf. ibid., art. 2, ad 1; art. 3.
[63] Catechism of the Catholic Church, 340.
[64] Canticle of the Creatures, in Francis of Assisi: Early Documents, New York-London-Manila, 1999, 113-114.
[65] Cf. NATIONAL CONFERENCE OF THE BISHOPS OF BRAZIL, A Igreja e a Questão Ecológica, 1992, 53-54.
[66] Ibid., 61.
[67] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 215: AAS 105 (2013), 1109.
[68] Cf. BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 14: AAS 101 (2009), 650.
[69] Catechism of the Catholic Church, 2418.
[70] CONFERENCE OF DOMINICAN BISHOPS, Pastoral Letter Sobre la relación del hombre con la naturaleza (21 January 1987).
[71] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Laborem Exercens (14 September 1981), 19: AAS 73 (1981), 626.
[72] Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 31: AAS 83 (1991), 831.
[73] Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 33: AAS 80 (1988), 557.
[74] Address to Indigenous and Rural People, Cuilapán, Mexico (29 January 1979), 6: AAS 71 (1979), 209.
[75] Homily at Mass for Farmers, Recife, Brazil (7 July 1980): AAS 72 (1980): AAS 72 (1980), 926.
[76] Cf. Message for the 1990 World Day of Peace, 8: AAS 82 (1990), 152.
[77] PARAGUAYAN BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter El campesino paraguayo y la tierra (12 June 1983), 2, 4, d.
[78] NEW ZEALAND CATHOLIC BISHOPS CONFERENCE, Statement on Environmental Issues (1 September 2006).
[79] Encyclical Letter Laborem Exercens (14 September 1981), 27: AAS 73 (1981), 645.
[80] Hence Saint Justin could speak of “seeds of the Word” in the world; cf. II Apologia 8, 1-2; 13, 3-6: PG 6, 457-458, 467.
[81] JOHN PAUL II, Address to Scientists and Representatives of the United Nations University, Hiroshima (25 February 1981), 3: AAS 73 (1981), 422.
[82] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 69: AAS 101 (2009), 702.
[83] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 9th ed., Würzburg, 1965, 87 (English: The End of the Modern World, Wilmington, 1998, 82).
[84] Ibid.
[85] Ibid., 87-88 (The End of the Modern World, 83).
[86] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 462.
[87] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 63-64 (The End of the Modern World, 56).
[88] Ibid., 64 (The End of the Modern World, 56).
[89] Cf. BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 35: AAS 101 (2009), 671.
[90] Ibid., 22: p. 657.
[91] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 231: AAS 105 (2013), 1114.
[92] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 63 (The End of the Modern World, 55).
[93] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 38: AAS 83 (1991), 841.
[94] Cf. Love for Creation. An Asian Response to the Ecological Crisis, Declaration of the Colloquyum sponsored by the Federation of Asian Bishops’ Conferences (Tagatay, 31 January-5 February 1993), 3.3.2.
[95] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 37: AAS 83 (1991), 840.
[96] BENEDICT XVI, Message for the 2010 World Day of Peace, 2: AAS 102 (2010), 41.
[97] ID., Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 28: AAS 101 (2009), 663.
[98] Cf. VINCENT OF LERINS, Commonitorium Primum, ch. 23: PL 50, 688: “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate”.
[99] No. 80: AAS 105 (2013), 1053.
[100] SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 63.
[101] Cf. JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 37: AAS 83 (1991), 840.
[102] PAUL VI, Encyclical Letter Populorum Progressio (26 March 1967), 34: AAS 59 (1967), 274.
[103] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 32: AAS 101 (2009), 666.
[104] Ibid.
[105] Ibid.
[106] Catechism of the Catholic Church, 2417.
[107] Ibid., 2418.
[108] Ibid., 2415.
[109] Message for the 1990 World Day of Peace, 6: AAS 82 (1990), 150.
[110] Address to the Pontifical Academy of Sciences (3 October 1981), 3: Insegnamenti 4/2 (1981), 333.
[111] Message for the 1990 World Day of Peace, 7: AAS 82 (1990), 151.
[112] JOHN PAUL II, Address to the 35th General Assembly of the World Medical Association (29 October 1983), 6: AAS 76 (1984), 394.
[113] EPISCOPAL COMMISSION FOR PASTORAL CONCERNS IN ARGENTINA, Una tierra para todos (June 2005), 19.
[114] Rio Declaration on Environment and Development (14 June 1992), Principle 4.
[115] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[116] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 51: AAS 101 (2009), 687.
[117] Some authors have emphasized the values frequently found, for example, in the villas, chabolas or favelas of Latin America: cf. JUAN CARLOS SCANNONE, S.J., “La irrupción del pobre y la lógica de la gratuidad”, in JUAN CARLOS SCANNONE and MARCELO PERINE (eds.), Irrupción del pobre y quehacer filosófico. Hacia una nueva racionalidad, Buenos Aires, 1993, 225-230.
[118] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 482.
[119] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.
[120] Address to the German Bundestag, Berlin (22 September 2011): AAS 103 (2011), 668.
[121] Catechesis (15 April 2015): L’Osservatore Romano, 16 April 2015, p. 8.
[122] SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 26.
[123] Cf. Nos. 186-201: AAS 105 (2013), 1098-1105.
[124] PORTUGUESE BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 September 2003), 20.
[125] BENEDICT XVI, Message for the 2010 World Day of Peace, 8: AAS 102 (2010), 45.
[126] Rio Declaration on Environment and Development (14 June 1992), Principle 1.
[127] BOLIVIAN BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter on the Environment and Human Development in Bolivia El universo, don de Dios para la vida (March 2012), 86.
[128] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Energy, Justice and Peace, IV, 1, Vatican City (2014), 53.
[129] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 67: AAS 101 (2009).
[130] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
[131] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 469.
[132] Rio Declaration on the Environment and Development (14 June 1992), Principle 15.
[133] Cf. MEXICAN BISHOPS’ CONFERENCE, EPISCOPAL COMMISSION FOR PASTORAL AND SOCIAL CONCERNS, Jesucristo, vida y esperanza de los indígenas e campesinos (14 January 2008).
[134] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 470.
[135] Message for the 2010 World Day of Peace, 9: AAS 102 (2010), 46.
[136] Ibid.
[137] Ibid., 5: p. 43.
[138] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 50: AAS 101 (2009), 686.
[139] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 209: AAS 105 (2013), 1107.
[140] Ibid., 228: AAS 105 (2013), 1113.
[141] Cf. Encyclical Letter Lumen Fidei (29 June 2013), 34: AAS 105 (2013), 577.
[142] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 256: AAS 105 (2013), 1123.
[143] Ibid., 231: p. 1114.
[144] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 9th edition, Würzburg, 1965, 66-67 (English: The End of the Modern World, Wilmington, 1998, 60).
[145] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 1: AAS 82 (1990), 147.
[146] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 66: AAS 101 (2009), 699.
[147] ID., Message for the 2010 World Day of Peace, 11: AAS 102 (2010), 48.
[148] Earth Charter, The Hague (29 June 2000).
[149] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 39: AAS 83 (1991), 842.
[150] ID., Message for the 1990 World Day of Peace, 14: AAS 82 (1990), 155.
[151] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 Nov 2013), 261: AAS 105 (2013), 1124.
[152] BENEDICT XVI, Homily for the Solemn Inauguration of the Petrine Ministry (24 April 2005): AAS 97 (2005), 710.
[153] AUSTRALIAN CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE, A New Earth – The Environmental Challenge (2002).
[154] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 72 (The End of the Modern World¸ 65-66).
[155] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 71: AAS 105 (2013), 1050.
[156] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009) 2: AAS 101 (2009), 642.
[157] PAUL VI, Message for the 1977 World Day of Peace: AAS 68 (1976), 709.
[158] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 582.
[159] EVA DE VITRAY-MEYEROVITCH [ed.], Anthologie du soufisme, Paris 1978, 200).
[160] In II Sent., 23, 2, 3.
[161] Cántico Espiritual, XIV, 5.
[162] Ibid.
[163] Ibid., XIV, 6-7.
[164] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Orientale Lumen (2 May 1995), 11: AAS 87 (1995), 757.
[165] Ibid.
[166] ID., Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 8: AAS 95 (2003), 438.
[167] BENEDICT XVI, Homily for the Mass of Corpus Domini (15 June 2006): AAS 98 (2006), 513.
[168] Catechism of the Catholic Church, 2175.
[169] JOHN PAUL II, Catechesis (2 August 2000), 4: Insegnamenti 23/2 (2000), 112.
[170] Quaest. Disp. de Myst. Trinitatis, 1, 2 concl.
[171] Cf. THOMAS AQUYNAS, Summa Theologiae, I, q. 11, art. 3; q. 21, art. 1, ad 3; q. 47, art. 3.
[172] BASIL THE GREAT, Hom. in Hexaemeron, I, 2, 6: PG 29, 8.