Sách Sư Phạm Giáo Lý

Khoa Tâm Lý Sư phạm là Tâm lý học được ứng dụng vào việc giáo dục đào tạo, giúp ta hiểu rõ hơn những đặc điểm và sự phát triển tâm lý của con người, nhờ đó, ta biết chọn lựa những phương pháp giáo dục thích ứng với tâm lý con người, trong từng giai đoạn tuổi.

Sách Sư Phạm Giáo Lý

Phần I: Giáo lý - Sư Phạm Giáo Lý

Phần II: Dạy Giáo Lý Theo Lứa Tuổi. 

Phần III: Các Phương Pháp


Phần I: Giáo lý - Sư Phạm Giáo Lý
Bài 1: GIÁO LÝ 

1- ĐỊNH NGHĨA GIÁO LÝ

Giáo lý là lý thuyết, lý lẽ của một đạo, một tôn giáo: Sách Giáo lý.

Là trình bày chân lý đức tin cách đơn giản, cụ thể, sống động, giúp người học hiểu và sống đức tin: Dạy Giáo lý. Làm vang dội Lời Chúa trong lòng người nghe, giúp họ hoán cải. Là một phần của Thần học mục vụ, một môn học như mọi môn học khác: có thầy dạy trò nghe, có học có hành; nhưng khác ở chỗ: chính Chúa dạy cả thầy lẫn trò. “Giáo lý là giáo dục đức tin cho trẻ em, giới trẻ và người lớn, được hiểu cách đặc biệt là giảng dạy đạo lý Kitô giáo, thực hiện cách có tổ chức và có hệ thống, nhằm dẫn vào sự sung mãn đời sống Kitô hữu ” (DGL.18). 


2 - BẢN CHẤT CỦA GIÁO LÝ
Giáo lý là tác động chính yếu của Giáo hội trong sứ mạng Truyền giáo.

Giáo lý là môn Trí dục: dùng ngôn ngữ, hình ảnh... để làm cho hiểu.

Giáo lý là môn Đức dục: đưa giá trị đạo đức vào tâm hồn người, để họ hiểu, cảm nghiệm và quyết tâm hành động.

Giáo lý là sự Hướng dẫn đến sự gặp gỡ và hiệp thông trong đức tin: Chúa nói, con người tiếp nhận, đưa đến gặp gỡ và hiệp thông với Chúa và Giáo Hội.

....Chúa nói..........................................Gặp gỡ Chúa Sống với Chúa
......................
  Con người 
.................................tiếp nhận 
..Bài giáo lý..........................................Quyết tâm cầu nguyện 


Giảng dạy Thực tập: - Tài liệu, Bài tập 

3 - VỊ TRÍ CỦA GIÁO LÝ  
 

Giáo Lý là một trong những hình thức thi hành nhiệm vụ giáo huấn của GH:

1). Truyền giảng Phúc âm: cho người chưa tin (Tiền Huấn giáo).   

2). Dạy Giáo lý: Đào sâu đức tin trong các lớp Giáo lý (Huấn giáo). 
 

3). Giảng thuyết: bài giảng trong Thánh lễ (Homélie).

4). Thần học: trình bày chân lý đức tin cách hệ thống và khoa học.


4 - MỤC ĐÍCH GIÁO LÝ  
 

1). Giáo dục đức tin: (hay Thông truyền Đức tin)   

Đào tạo trưởng thành Đức tin: đứng vững trong mọi hoàn cảnh.
Đào tạo ki tô hữu toàn diện: nhân bản, qui hướng về Chúa Kitô.
Đào tạo ki tô hữu sẵn sàng dấn thân phục vụ: Giáo Hội, xã hội.


2). Mục đích của Dạy Giáo lý không chỉ nhằm giúp con người tiếp xúc gặp gỡ, nhưng còn hiệp thông thân mật với Đức Kitô: chỉ mình Ngài đưa ta đến tình yêu Chúa Cha, trong Thánh Thần, và làm cho ta thông dự vào đời sống TCBN (DGL.5).

3). Cụ thể:- Giáo lý nhằm Chuẩn bị lãnh nhận Bí tích, qua 3 giai đoạn:
Thông truyền kiến thức tôn giáo (hiểu biết) Hoán cải bản thân (luân lý) Đưa vào đời sống mới trong Chúa Giêsu (Bí tích)

5 - NỘI DUNG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO  
 

Cấu trúc căn bản: Có 4 phần (x.GLGHCG, 1992 )

I - Tuyên xưng đức tin  (Tín lý)  
II - Các Bí tích đức tin (Phụng vụ - Bi tích)  
III - Đời sống đức tin (Luân lý)  
IV - Kinh nguyện trong đời sống đức tin (Kinh Lạy Cha) 
 

Bốn phần được nối kết với nhau = Mầu nhiệm Kitô giáo: là đối tượng của Đức tin (P.I); mầu nhiệm ấy được cử hành và thông truyền trong Phụng vụ (P.II); mầu nhiệm ấy soi sáng và nâng đỡ tín hữu trong đời sống Luân lý (P.III); mầu nhiệm ấy đặt nền tảng cho Kinh nguyện, diễn tả đặc biệt qua kinh “ Lạy Cha ” , là nội dung lời cầu nguyện của tín hữu.

Dạy Giáo lý, ta cần trình bày Tin Mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, mà vị trí trung tâm Giáo lý là Đức Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất, Đấng luôn hiện diện và hoạt động nơi trần thế, qua Thánh Thần và Hội Thánh


6 - NGUỒN MẠCH GIÁO LÝ  
 

Giáo lý phát xuất từ kho tàng Lời Chúa, được khơi từ 4 nguồn sau: 
 

Thánh Kinh: là nguồn chủ yếu của Giáo lý: chính Chúa ngỏ lời với con người. TK thuật lại sự can thiệp của TC vào lịch sử nhân loại để thực hiện việc cứu độ. Nội dung Lịch sử cứu độ cũng là nội dung Giáo lý.

Thánh Truyền: là một phần mạc khải, được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các lời giáo huấn của các Giáo phụ.

Phụng Vụ: Phụng vụ làm cho bài Giáo lý trở thành cụ thể, sống động, biến sự hiểu biết bằng lý trí thành cảm nghiệm nơi tâm hồn. Phụng vụ tạo sự hiểu biết các mầu nhiệm ki tô giáo và gợi lên lòng tin, cậy, mến.

Giáo huấn và đời sống của Giáo Hội: Giáo huấn của Đức Giáo hoàng, các Công Đồng, Giám mục đoàn, và đời sống chứng tá đức tin của toàn thể Dân Chúa cũng là nguồn sống động và mang thời sự của Giáo lý.

Bài 2. GIÁO LÝ VIÊN
1. GIÁO LÝ VIÊN là ai ?
a). Định nghĩa:
Giáo Lý Viên (GLV) là những người chia sẻ sứ mạng của Hội Thánh, sứ mạng quan trọng nhất, đó là Rao giảng Tin mừng. “ Việc dạy Giáo lý được Hội Thánh coi là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của mình ” (DGL1).
GLV là những giáo dân có trình độ và đời sống đạo hạnh, dưới sự hướng dẫn của các nhà truyền giáo, hiến thân lo giảng dạy Giáo lý Tin mừng, tổ chức các cử hành Phụng vụ và các việc bác ái ” (Gl.785.1)
GLV là một giáo dân được GH đặc cử tuỳ theo nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và noi theo ” .(Hd.GLV.1)
b). Ơn gọi GLV: Mỗi tín hữu trong Hội Thánh đều được Chúa Thánh Thần mời gọi góp phần làm cho Nước Chúa mau đến. Ơn gọi GLV không những bắt nguồn từ BT Rửa tội và Thêm sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của CTT, “ một đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận và uỷ nhiệm ” (Hd.GLV.2).
Như thế, Ơn gọi GLV vừa có tính “ tổng quát ” , vì tham gia vào việc mở mang Nước Chúa, vừa có tính “ chuyên biệt ” , vì dành riêng cho việc Dạy Giáo Lý. GLV cần phải khám phá, nhận định và vun trồng Ơn gọi của mình.
c). Vài nét diễn tả con người Giáo Lý Viên: 
1. GLV là người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi. 
2. GLV là người hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu. 
3. GLV là người sống theo Lời Chúa dạy. 
4. GLV là người có khả năng chia sẻ niềm tin cho người khác. 
5. GLV là người gắn bó với Hội Thánh và được Hội Thánh sai đi.

2. THÀNH PHẦN GIÁO LÝ VIÊN
“Do chức vụ của mình và ở các cấp bậc khác nhau, các vị Chủ chăn (Đức Giám Mục) có trách nhiệm trên hết trong việc nâng cao, hướng dẫn và phối trí việc dạy giáo lý... Đối với các linh mục và tu sĩ nam nữ, đó là lãnh vực đặc biệt cho việc Tông đồ. Ở một cấp độ khác, các phụ huynh... các giáo lý viên... tất cả mọi người, ở mọi trình độ khác nhau, đều có trách nhiệm rõ rệt trong việc giáo dục lương tâm các tín hữu. Việc giáo dục này rất quan trọng cho đời sống Giáo hội và xã hội ” (DGL.16).
a) - Linh mục thi hành sứ mạng rao giảng.
Linh mục là người được tuyển chọn, tấn phong và trao cho sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ. “ Các linh mục là người mắc nợ mọi người về việc truyền thông cho họ chân lý Phúc âm mà các ngài đã được nhận nơi Chúa ” (ĐSLM. 4).
Có nhiều hình thức giảng Lời Chúa, trong đó việc tổ chức dạy giáo lý thường xuyên, cho mọi người là một nhu cầu không thể không có. Cho dù hoàn cảnh, công việc bận rộn, thiếu nhân sự, thiếu tài liệu... không được xao lãng huấn giáo.
Linh mục cần quan tâm tổ chức dạy giáo lý: tạo mô hình và điều hành các lớp giáo lý, tuyển chọn và huấn luyện GLV, yểm trợ và khích lệ các lớp giáo lý. Quan tâm đặc biệt các lớp giáo lý Dự tòng.
b) - Tu sĩ thi hành sứ mạng rao giảng.
Tu sĩ là người tận hiến đời mình để hoàn toàn sống cho Chúa và cho tha nhân. Sống cho Chúa là thực thi các ý định của Chúa, sống cho tha nhân giúp họ thăng tiến đời sống tâm linh, để xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Ý định của Thiên Chúa là: “ Hãy đi rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo ” (Mc 16,15). Toàn Giáo hội, mỗi người đều thực hiện ý Chúa, thì trong cương vị tu sĩ càng phải đem hết khả năng của mình để rao giảng Tin mừng.
“Giáo hội muốn tăng cường sự hiện diện tích cực của các cộng đoàn tu sĩ trong kế hoạch mục vụ của các Giáo hội địa phương ”(DGL 65): có nghĩa là tu sĩ hợp tác với các vị chủ chăn trong giáo xứ và giáo phận để giảng dạy giáo lý cho thanh thiếu niên nhi đồng. “Qua dòng lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã rất tận tuỵ trong hoạt động dạy giáo lý và hoạt động của họ hết sức hữu hiệu và thành công”(DGL 65).
Cần tích cực chuẩn bị: “Cha khuyên các con hãy tích cực chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho nhiệm vụ dạy giáo lý”. Sự chuẩn bị qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn học tập Thần học Thánh Kinh, nhất là môn Sư phạm Giáo lý;
Giai đoạn trước khi dạy, hãy soạn bài kỹ, nắm vững và thuộc nội dung, tìm cách trình bày mạch lạc.
Cuộc đời dâng hiến có ý nghĩa thật tròn đầy là: kiện toàn chính mình trong việc học hỏi và sống Lời Chúa, đồng thời thông truyền đức tin cho nhiều tâm hồn.
c) - Giáo dân thi hành sứ mạng rao giảng.
“Giáo dân, vì là thành phần của Giáo hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin mừng. Các bí tích khai tâm Kitô giáo và các ơn huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng cho họ và thúc giục họ thi hành sứ vụ này. Các ki tô hữu làm cha mẹ phải là những Giáo lý viên đầu tiên cho con cái mình, không ai thay thế được” (KTH.GD. 34).
Toàn thể giáo dân có bổn phận thi hành công tác theo khả năng và vị trí từng người. 
Bậc cha mẹ ý thực nhiệm vụ giáo dục đức tin cho con cái.

Những người trưởng thành, các thanh niên nam nữ đi tiên phong trong việc khai mở và bảo vệ đức tin, thực thi qua vai trò Huynh trưởng và Giáo lý viên trong các hoạt động mục vụ giáo lý.
3. VAI TRÒ và TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO LÝ VIÊN 
Các Văn kiện GH luôn nêu cao vai trò không thể thiếu của GLV trong Hội Thánh: GLV là nhà sư phạm, nhà giáo dục, người trung gian, người hướng dẫn, chứng nhân Lời Chúa, chuyên viên loan báo Tin mừng…
Vai trò GLV được thực thi trong tương quan với hoạt động truyền giáo: Công khai rao truyền sứ điệp Kitô giáo. 
Đồng hành với các Dự tòng (từ khai tâm đến trưởng thành đức tin) 
Hiện diện và làm chứng để thăng tiến con người. Nỗ lực hội nhập văn hoá và đối thoại. (Hd.GLV.3)

Tầm quan trọng của Giáo Lý Viên, lời Đgh. Gioan Phaolô II:

- GLV là người góp phần đặc biệt và hết sức cần thiết cho việc loan truyền đức tin và mở mang Hội Thánh.
- GLV là những người cộng tác và xây dựng Giáo hội thật sự.
- GLV là những người đang làm công tác giáo dục đức tin.

4. HÀNH TRANG CẦN THIẾT CỦA GIÁO LÝ VIÊN   

Đức tin sống động: Giáo lý là “Nói về Chúa”, lời nói cần được GLV chứng minh cụ thể bằng “Sống với Chúa”, “cảm nghiệm tình Chúa”.

Căn bản giáo lý: Nắm vững nội dung giáo lý, toàn bộ Tin Mừng, trung tâm là mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa Giêsu. GLV cần được đào tạo và bồi dưỡng liên tục về kiến thức tôn giáo và kỹ năng sư phạm.

Hiểu về tâm lý và sư phạm: Để đạt hiệu quả cao trong việc dạy giáo lý, GLV cần lưu ý đến nhu cầu tâm lý và khả năng tiếp nhận của người học. GLV cần hiểu tâm lý học viên và biết những phương pháp sư phạm, để ứng dụng giảng dạy theo lối thích hợp nhất, vừa tầm người nghe, để Lời Chúa linh động và đánh động lòng người.

Lòng thương yêu học viên: Giáo dục là nhằm cảm hoá, và chỉ có tình yêu mới có sức mạnh cảm hoá lòng người. Giáo lý còn là Giáo dục đức tin, nên GLV cần nhận ra tình thương, đáp trả tình thương Chúa và chan hoà tình thương Chúa cho người học.

5. GIỚI HẠN CỦA GIÁO LÝ VIÊN 
 

GLV chỉ là dụng cụ bất toàn, nhưng hữu ích và cần thiết của Chúa, của Giáo hội.
GLV chỉ là người trồng tỉa, vun tưới, còn chính Chúa, Đấng ban cho có hạt mầm Đức tin và cho nó mọc lên.
GLV trong mọi hoàn cảnh: không chán nản khi thất bại, không tự đắc khi thành công, luôn tự nhũ lòng mình: “Là đày tớ, con thật bất tài…”.

6. NIỀM VUI CỦA GIÁO LÝ VIÊN  

- Vui vì biết mình góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội, thăng tiến con người, hoán cải lòng người.
- Vui vì được cộng tác với Thánh Thần trong công cuộc mở mang Nước Trời. 
- Vui vì biết mình đã làm theo Thánh ý Chúa


7. LINH ĐẠO CỦA GIÁO LÝ VIÊN  
 

GLV cần có một linh đạo sâu sắc, nghĩa là sống trong Chúa Thánh Thần, Đấng luôn giúp họ canh tân đời sống ơn gọi riêng biệt của mình.
Như mỗi tín hữu, GLV được mời gọi “nên thánh và truyền giáo”, nghĩa là sống Ơn gọi của mình “với lòng nhiệt thành của các thánh”.(Đgh.Phaolô VI)
- Linh đạo GLV liên hệ với ơn gọi Tông đồ, biểu hiện qua các dự kiện:
Đón nhận Lời Chúa: qua đó, đón nhận TCBN, Giáo hội, cả Thế giới.
Trung thực và nhiệt tình truyền giáo.
Sùng kính mẹ Maria: giầu tinh thần Maria. (Hd.GLV 6-10)
- Linh đạo GLV là con đường tu đức, biểu lộ qua thái độ sống :
1. Yêu mến Chúa Kitô.
2. Gắn bó với Giáo Hội.
3. Thăng tiến con người.

Bài 3.  PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM  
I. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM  
1. Định nghĩa. 
 

- Phương pháp là những nguyên tắc, những phương thế để hướng dẫn thực hiện công việc, hầu đạt tới mục đích cách dễ dàng.
- Sư phạm (Sư là Thầy; Phạm là Qui tắc): là qui tắc để làm thầy dạy. Sư phạm là thứ khoa học - kỹ thuật, có nhiệm vụ khởi thảo một học thuyết và đưa ra thực hành trong ngành giáo dục và đào tạo.
- Khoa Sư phạm liên quan đến tâm lý học, sinh lý học, xã hội học, nhằm giúp cho nhà sư phạm hiểu biết các định luật về đời sống con người. Nhờ sự hiểu biết đó, việc giáo dục con người sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

2. Tương quan Sư phạm giáo dục.  
Có 3 tương quan Sư phạm: Thầy - Trò - Kiến thức

.............................- biết
............Kiến thức:- biết hành 
............................- biết thành

Giảng dạy Thực tập: - Tài liệu, Bài tập 

Thầy
  Trò: cá nhân, nhóm

3. Ba Hình thức Sư phạm căn bản.
 
(Giảng dạy - Linh hoạt - Thực tập.
Giảng dạy: Thầy thông truyền Kiến thức cho trò. Đó là bài thuyết trình, từ ngữ, nội dung. Vấn đề: nói, nghe, và ghi nhận.

Linh hoạt: tương quan giữa thầy - trò là chủ yếu. Thầy nhường chỗ cho trò và gián tiếp giúp trò đạt kiến thức qua việc nói lên kinh nghiệm sống, khó khăn vươn lên... Vận dụng các phương pháp đối thoại, chia sẻ, thảo luận... Vấn đề: là bản thân, là sống động.

Thực tập: tương quan giữa Trò và Kiến thức là chủ yếu. Thầy có khả năng khơi dậy cho trò thực hành, tự điều chỉnh. Vấn đề: là hoạt động và làm. Cần sử dụng những tư liệu, phương pháp sinh hoạt, trò chơi...
Cả 3 hình thức sư phạm trên, tuỳ trường hợp, lứa tuổi, trình độ, ta có thể dung hoà với nhau, thì việc giảng dạy mới đạt hiệu quả cao.

II. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM ỨNG DỤNG GIÁO LÝ
1. Phương pháp Qui nạp.
Qui nạp là phương pháp lý luận triết học, khởi đầu bằng cách nghiên cứu các trường hợp riêng biệt; kế đến là rút ra kinh nghiệm; sau cùng là đưa ra định luật chung.
Ví dụ: Ông A, ông B, bà C đã chết;
Mà A.B.C đều là người;
Vậy mọi người đều phải chết

Quy nạp trong Giáo lý: là đưa ra những sự việc làm khởi điểm (chẳng hạn các biến cố trong Thánh Kinh, các hoạt động Phụng Vụ, đời sống Giáo Hội, đời sống thường ngày) cốt để tìm ra ý nghĩa của chúng trong mạc khải của Chúa. Phương pháp này phù hợp với tâm lý con người thích đi từ những cái cụ thể để hiểu những việc trừu tượng; cũng phù hợp với cách hiểu biết của đức tin, đó là các hiểu biết nhờ các dấu chỉ (theo thực tế gọi là phương pháp đi lên, từ loài người lên Thiên Chúa). Phương pháp này không loại trừ nhưng cần đến phương pháp Diễn dịch.

Áp dụng dạy giáo lý: Bài giáo lý có thể 3 giai đoạn:
- Giới thiệu: đưa ra sự kiện, câu chuyện (PÂ) làm khởi điểm.
- Giải thích: từ sự kiện đó rút ra những ý tưởng, bài học thích hợp.
- Áp dụng: Đem ý tưởng, bài học đó vào đề tài Giáo lý muốn trình bày.


Ví dụ:
- Giới thiệu:
 Dụ ngôn đứa con phung phá, khi trở về, cha nó vui mừng đón tiếp.
- Bài học:
 Thiên Chúa là Cha nhân từ đối với tội nhân.
- Áp dụng:
 Tất cả là tội nhân : hãy trở về với Cha.
Phương pháp nầy dành cho học sinh cấp 1: Thích cụ thể, quan sát.


2. Phương pháp Diễn dịch (suy diễn):

Diễn dịch là phương pháp lý luận triết học đi từ định luật, ý niệm tổng quát đến từng trường hợp cá biệt, rồi rút ra nhận định.
Ví dụ: Mọi người đều phải chết;
Mà Ông A là người; ông B là người; bà C là người;
Vậy Ông A. ông B. bà C sẽ phải chết.

Diễn dịch trong Giáo lý: là giải thích và mô tả sự việc đi từ những nguyên nhân riêng biệt của chúng (gọi là phương pháp đi xuống), đi từ sứ điệp mặc khải trong Thánh Kinh, Phụng Vụ, Giáo lý với việc áp dụng thực hành trong đời sống.

Áp dụng trong giáo lý:

- Giới thiệu:
 Người ta cần phải ăn để sống.
- Thể xác bồi dưỡng bằng Bữa ăn  để lớn lên, phát triển, vui vẻ.
- Áp dụng:
 Linh hồn cũng cần bồi dưỡng, sống bằng tiệc Thánh Thể.
Phương pháp này dành cho học sinh cấp 2: tuổi biết suy luận, trí khôn đang phát triển.


3. Phương pháp Giáo thụ (méthode didactique)  

Phương pháp này mang hình thức thuyết minh để thông truyền kiến thức nhanh chóng: thầy soạn bài và trình bày kiến thức, trò nghe, ghi chú.
Phương pháp này thụ động, lớp học dễ buồn tẻ : dành cho học sinh cấp 3, vì dễ tiếp thu, và đỡ tốn thời giờ.

4. Phương pháp Trực giác (méthode intuitive)

Trực giác là khả năng cảm biết ngẫu phát của con người, không cần phải suy nghĩ hay tìm tòi hay qua trung gian nào. Có loại Trực giác cảm, lý trí trực giác, đạo đức trực giác, trực giác nhân tạo.

Phương pháp trực giác là căn cứ vào việc quan sát sự vật cụ thể qua giác quan (sờ mó, nếm, ngửi, nghe, cân, đo..) để rồi suy nghĩ, tự rút kinh nghiệm, tìm ra tính chất và công dụng hay bài học cho sự vật.

Đây là nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới và thường được áp dụng cho tuổi ấu nhi, mẫu giáo.

Thí dụ: Nếm ớt, biết cay; Sờ lửa, biết lửa nóng Từ nay, biết ớt cay, lửa nóng, nên không nếm ớt, không sờ lửa. Châm ngôn của Phương pháp Trực giác: Vật trước - Lời sau.

5. Phương pháp Hoạt động (hay Chủ động) (Méthode active)  

Đây là phương pháp tạo điều kiện cho các học viên tích cực tham gia khám phá chân lý, nhờ những suy tư, đối thoại và hoạt động của mình. Phương pháp này làm nổi bật những tiến bộ của phần trí dục, nhằm mở mang kiến thức, vừa rèn luyện các tập quán tốt. Nó kích thích óc sáng tạo, làm cho học viên luôn khao khát tìm hiểu để làm cho hay, cho đẹp hơn. Có 2 cách hình thành phương pháp hoạt động:

Đối thoại: là đặt vấn đề, đặt câu hỏi, câu đố, “gợi ý” giúp học viên động não, để “tiệm tiến” từng bước đến chân lý. Đây là phương pháp mà Socrate dùng để huấn luyện đồ đệ (x. SPCH.47; PPNĐ.87).

Sinh hoạt: Nhằm vận dụng cơ năng hoạt động của học viên, như trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, sự khéo léo chân tay, giọng hát... để giúp học viên tham gia tích cực vào bài học, giúp hiểu sâu và nhớ lâu hơn những gì nghe (x.SHGL.77). Có 3 loại hình Sinh hoạt lớp : Sinh hoạt nhóm, sinh hoạt toàn lớp, sinh hoạt cá nhân thay cho cả lớp.

Áp dụng vào giáo lý:

- Dùng Đối thoại: để Giải thích Lời Chúa hay bài giáo lý, bằng cách gợi lên ước muốn học hỏi, kích thích suy nghĩ và hành động dấn thân. (x. SP. Câu hỏi. Tr. 47; PP. Năng động Nhóm. Tr. 87).

- Dùng Sinh hoạt: để tạo bầu khí, kích thích óc sáng tạo, ghi nhớ bài học: Vẽ, bài viết, hát, múa, băng reo, kể chuyện, trò chơi, sáng tác thơ, câu đố... (x. SINH HOẠT GIÁO LÝ, tr. 77).

Bài 4.  SƯ PHẠM GIÁO LÝ: SƯ PHẠM ĐỨC TIN  

Sư phạm Thiên Chúa là nguồn mạch và mẫu mực cho Sư phạm Đức tin (TQ.DGL )
Sư phạm Thiên Chúa là gì? được diễn tả như thế nào? Giáo Hội đã ứng dụng thế nào trong việc Dạy Giáo lý?

I. SƯ PHẠM CỦA THIÊN CHÚA

1. Thiên Chúa là Cha nhân từ, như bậc Thầy khôn ngoan:

Ngài hiểu biết tình trạng của con cái mình, muốn con cái khỏi khổ, khỏi nô lệ điều xấu, nên Thiên Chúa đã lấy tình thương, tìm mọi cách để giáo dục con cái dần dần trưởng thành hơn, biết nghe lẽ phải, nghe lời Cha mình để trở thành con hiếu thảo.
Ngài lấy những thất bại của Dân Chúa làm bài học dạy khôn cho họ, dùng giáo huấn truyền tụng từ đời này sang đời kia, dùng thưởng phạt để giáo dục Dân Chúa nghe theo lời Ngài và để Ngài dẫn dắt.

2. Chúa Giêsu Kitô được sai xuống trần gian tiếp tục sư phạm của Thiên Chúa. Ngài làThầy dạy duy nhất:

Ngài dùng lời nói, dấu hiệu, việc làm để đào tạo các môn đệ: tiếp nhận mọi người nhất là người nghèo, trẻ em, người tội lỗi. Ngài loan báo Nước Thiên Chúa đang đến như Tin Mừng an ủi của Chúa Cha. Ngài bày tỏ một tình yêu tế nhị, mạnh mẽ có thể giải thoát khỏi sự dữ.

Ngài mời gọi mọi người sống theo đức tin nơi Thiên Chúa, đức trông cậy nơi Nước Thiên Chúa, và đức mến đối với mọi người.
Ngài sử dụng mọi phương thế thành công giữa người với người, như: lời nói, thinh lặng, dụ ngôn, hình ảnh, ví dụ để thông truyền sứ điệp TM.

Ngài dùng đời sống mình để dạy các môn đệ: đặt các câu hỏi thích hợp để kích động họ, giải thích sâu hơn cho họ hiểu điều Ngài dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ cầu nguyện, sai đi thực tập truyền giáo, hứa ban Chúa Thánh Thần của Chúa Cha để họ hiểu chân lý, và nâng đỡ họ khi gặp khó khăn thử thách.

Ngài là Thầy, là Bạn kiên nhẫn và trung tín của họ. Ngài muốn môn đệ theo sư phạm của Ngài.
3. Chúa Thánh Thần: được gọi là Thần Chân lý, Đấng Bảo trợ.

Ngài được Đức Kitô sai đến để ở với các môn đệ, soi sáng, nhắc nhở để các ông nhớ lại Lời Chúa Giêsu. Chính ngài là Đấng khai sinh Hội thánh, và làm phát sinh mầm móng đức tin nơi con người. Chính Ngài là Đấng làm cho GLV say mê Lời Chúa, và ban ơn trợ giúp để chúng ta hăng say dấn thân phục vụ.

4. Giáo Hội tiếp nối Sư phạm của Chúa Cha và Chúa Con, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Giáo hội dùng chính nếp sống cộng đoàn là hiệp thông trong cầu nguyện, trong cử hành phụng vụ, bác ái, để dạy Giáo lý. Giáo Hội có một kho tàng về sư phạm đức tin:

Trước hết là chứng từ của các GLV thánh thiện, rồi các khoá Dự tòng, các Sách giáo lý, Tổ chức huấn giáo. . .
Giáo Hội đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bảo trợ, đổi mới… để chu toàn nhiệm vụ theo Sư phạm của đức tin.

Có thể nói được:

Sư phạm của Thiên Chúa là dùng đối thoại, đi bước trước đến với con người, tôn trọng tự do của họ, chấp nhận phải kiên trì, tiệm tiến, thích nghi, theo lối Sư phạm của cuộc Nhập Thể.

Dạy Giáo lý theo sư phạm của Thiên Chúa mời gọi GLV luôn phải trung thành với Thiên Chúa và trung thành với mọi người trong tình yêu mến, để Phúc Âm hoá trong khi giáo dục, và giáo dục trong khi Phúc Âm hoá.

II. SƯ PHẠM ĐỨC TIN

Sư phạm Giáo lý là tổng hợp Sư phạm Thiên Chúa và Sư phạm con người, mời gọi GLV hãy nhìn và học hỏi Sư phạm Thiên Chúa để trung thành với Lời Chúa và biết sử dụng tất cả những cách thế, những yếu tố (phương tiện kỹ thuật, dụng cụ truyền thông) trong giảng dạy giáo lý để đạt được mục đích là Giáo Dục Đức Tin.

- “Sư phạm Giáo lý nhằm giúp con người nghe tiếng Chúa, hiểu và đáp trả, làm nẩy sinh mầm móng Đức tin”.

Giáo Hội dùng nhiều phương pháp giáo dục của thời đại để trung thành với con người, vì con người rất khác nhau về tuổi tác, về trình độ trí thức, về văn hoá, về hoàn cảnh. Có áp dụng được nhiều phương pháp giáo dục, sẽ làm cho việc dạy Giáo lý vừa linh động vừa phong phú, đạt hiệu quả cao là nhờ Ơn Chúa và do sự cộng tác con người.

Tuy nhiên, điều quan trọng là các “Phương pháp phải thích hợp với nội dung hay bản chất của sứ điệp”, hợp với hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn Giáo Hội, với điều kiện riêng của tín hữu (dùng phương pháp hoạt động để dạy giáo lý đúng nghĩa, dùng ngôn ngữ diễn tả đúng nội dung). Hướng dẫn tổng quát để Dạy Giáo lý (1997) của Bộ Giáo sĩ có nhắc tới những phương pháp thích hợp theo truyền thống Giáo Hội là:

phương pháp quy nạp và diễn dịch

phương pháp tiếp cận Thánh Kinh (tìm hiểu từng bước),

phương pháp sử dụng tài liệu (dùng Kinh để dạy),

phương pháp dùng các dấu hiệu trong Phụng Vụ và trong Giáo Hội,

phương pháp truyền thông xã hội, (phim ảnh)

phương pháp cảm nghiệm,

phương pháp thuộc lòng. . .


Bài 5.  CHÚA GIÊSU NHÀ SƯ PHẠM GIÁO LÝ

Nhập: Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể, khi rao giảng Tin mừng, Ngài có những đường lối riêng để truyền đạt sứ điệp Giáo lý cao siêu của Ngài.

Nhờ sự diễn tả của 4 Thánh sử, chúng ta rút ra được những cái gọi là : Phương pháp Sư phạm của Chúa Giêsu.

1. Phương pháp HÌNH ẢNH sống động 

Bằng hình ảnh, những dụ ngôn, kiểu nói đơn sơ dễ hiểu : Chúa Giêsu trình bày giáo lý và các mầu nhiệm Nước Trời cách sống động, vừa tầm người nghe và đề ra những áp dụng trong cuộc sống.
Vd: Dụ ngôn người gieo giống, Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.. 
Ngài giảng bằng gương đời sống, hành động  :

Vd: Ngài rửa chân : dạy khiêm nhường và phục vụ.(Ga 13,4-5) 
Ngài Cầu nguyện suốt đêm : dạy cầu nguyện (Lc 11,1-2)


2. Phương pháp TRỰC GIÁC - QUI NẠP, Cụ thể

Chúa Giêsu dùng kinh nghiệm sống và ngôn ngữ của dân chúng thời đại, những sự cụ thể để dạy những mầu nhiệm Nước Trời : 
- Mt 6,6,25-28: “Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng... 
- Mt 7,24-27: Xây nhà trên cát, mưa đổ, sóng tràn, gió ùa... 
- Lc 13,20-21 : Men trong bột. 
- Lc 6,43: “Cây tốt sinh trái tốt”. 
- Lc 8,16: Thắp đèn rồi để trên giá. 
- Mt 24,43: Đợi chủ về: thức-ngủ ; kẻ trộm đến.

Chúa Giêsu dùng những biến cố xảy đến để dạy: 
- Lc 13,1: Những người Galilê bị Philatô giết. 
- Lc 13, 4: 18 người bị tháp Siloê đè chết.


3. Phương pháp TRUYỀN THỤ

Tuỳ theo đối tượng, thích ứng ngôn ngữ, tâm lý và trình độ hiểu biết: 
Giảng trực tiếp với dân chúng: Bài giảng trên núi (Mt 5), bài giảng về Bánh (Ga 6) 
Giảng trực tiếp riêng với các môn đệ: Cây nho thật (Ga 15) 
Giảng cho luật sĩ, Biệt phái: Luật rửa tay, ô uế (Mt 7) 
Giảng cho thiếu phụ xứ Samaria : Bên bờ giếng (Ga 4)


4. Phương pháp CÂU HỎI và  ĐỐI THOẠI.

Đặt câu hỏi để đánh động, suy nghĩ: “Được lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mc 8,36) 
“Các người thấy gì trong sa mạc ?” 
Dùng cảnh đối nghịch để gây ấn tượng mạnh vào tâm hồn người nghe: “Ai giữ mạng, sẽ mất, Ai mất mạng vì Ta, sẽ được lại” (Mc 8,35).

Dùng câu hỏi ngược lại: để gởi lại người chất vấn về trí tuệ, quyết định: “Sao con đã làm như thế ? - Cha mẹ không biết rằng Con phải...” (Lc 2,48-49); Hay: Có thật ông là Đấng Mêsia phải đến ? - Các ngươi không đọc thấy: người mù được thấy, kể què được đi...? (Lc 7,20)

5. Đúc kết thành câu CHÂM NGÔN

Thông thường, sau bài giảng giải, Ngài đúc kết bằng những câu ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ : 
Về cầu nguyện: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp”. 
Về khiêm tốn: “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống…”
Về Phục vụ: “Ta đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ”.
Về bền đổ: “Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít”.


6. Phương pháp Mời gọi THỰC HÀNH 

Thông thường, sau mỗi bài giảng, bài dụ ngôn, Chúa Giêsu luôn có lời mời gọi áp dụng thực hành:
Sau dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu:”Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37) Với chàng thanh niên đến hỏi: “Tôi phải làm gì để được sống ?” 
”Hãy bán những gì ngươi có...” Bữa tiệc ly: "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (1Co 11,24)


7. Dùng KINH THÁNH để chứng minh 

- Chuyện hai môn đệ làng Emmau (Lc 24,25-27)
- Nhắc lại chuyện vua Đavít và đoàn tuỳ tùng...

Kết luận: Chúa Giêsu: Nhà Sư phạm - Giáo Lý Viên Gương mẫu
1. Chúa Giêsu giảng bất cứ ở đâu, cho bất cứ ai.
2. Chúa dùng phương tiện sẵn có để trình bày.
3. Chúa dùng từ ngữ, hình ảnh cụ thể, đơn sơ, chân tình.
4. Bài giảng được lồng vào câu chuyện và đúc kết câu châm ngôn.
5. Trich dẫn Thánh Kinh để minh chứng ý tưởng.
6. Bài giảng nhằm cảm hoá, mời gọi thực hành trong cuộc sống.
7. Chúa dạy bằng gương mẫu đời sống.


Bài 6.  NGUYÊN TẮC DẠY GIÁO LÝ

1. BA TỪ NGỮ không thể thiếu trong việc DẠY GIÁO LÝ 

Traditio - Receptio - Redditio
Thông truyền - TM Đón nhận TM - Đáp trả Tin Mừng


2. BA NGUYÊN TẮC căn bản trong việc DẠY GIÁO LÝ 

Giáo dục là đào tạo con người tự nhiên thành người. 
Giáo lý, là đào tạo con người thành con Thiên Chúa, là thăng tiến con người đến mức độ trưởng thành trong đức tin. 
Để đạt mục đích đó, cần có những nguyên tắc hướng dẫn thực hành:
Nguyên tắc toàn diện (intégrité): 
Nguyên tắc thích ứng (adaptation) 
Nguyên tắc sống động (vivant)


1). Nguyên tắc toàn diện (intégrité):

Toàn diện trong nội dung: có 4 phần trong sách GLGHCG 
Toàn diện con người: - Trí khôn lãnh hội; tình cảm rung động trong cầu nguyện; Ý chí quyết tâm sống đời sống mới; Toàn thân diễn tả: lời nói, bộ điệu, cử chỉ, thái độ tâm linh. 
Toàn diện lãnh vực sống: Gia đình - Học đường - Xứ đạo - Khu xóm.


2). Nguyên tắc thích ứng:

- Trình bày sứ điệp vừa tầm lãnh nhận của người nghe, vì thế cần: Thích ứng theo lứa tuổi: Ấu, Thiếu nhi, Thiếu niên, Thanh niên.
Thích ứng theo môi trường, văn hoá, hoàn cảnh sống.

Thích ứng theo nội dung và phương pháp.


3). Nguyên tắc sống động:

Lời Chúa sống động. Trình bày Lời Chúa cách sống động, là cánh cửa mở rộng tương lai, là mời gọi và khích lệ người nghe dấn thân lên đường thực hiện theo Lời Chúa. GLV cố tìm những phương pháp hiện đại, sống động để dạy Giáo lý, như : Đối thoại, Hội thảo, Sinh hoạt, tranh ảnh, vidéo. ..

3. BA BƯỚC DẠY TỐT GIÁO LÝ 

1. TRƯỚC KHI DẠY

Chuẩn bị xa:

Cầu nguyện: suy gẫm và thấm nhuần Lời Chúa để thông truyền.

Soạn bài:
- Hiểu biết Đề tài và ý chính, tâm tình của bài dạy.
 
- Viết thành giáo án ngắn gọn, đầy đủ để trình bày.
- Viết lời nguyện, bài học thực hành, quyết tâm sống.
- Tìm tài liệu, dụng cụ cần thiết để quãng diễn, minh hoạ.
Muốn dạy hay, cần thuộc lòng, để tự tin, phấn khởi.
Chuẩn bị gần: Ngay trước giờ dạy:
Đến trước vài phút để:
Đón tiếp, Gặp gỡ, tìm hiểu học viên.
Xem phòng lớp, trang trí, sạch sẽ, dụng cụ.


2. TRONG GIỜ DẠY

Xem “Diễn tiến một giờ Giáo Lý” (Phụ Chương, tr.104)

A. Mỗi Bài Dạy giáo lý có ít nhất ba phần chính:

1). Trình bày sứ điệp: dưới hình thức một câu chuyện (rút ở Kinh Thánh, bổ túc bằng thị giác nếu có thể).
2). Giải thích: từ câu chuyện rút ra giáo điều rồi giải thích, đặt câu hỏi và lập một bảng tóm tắt trên bảng, sau đó đưa vào toàn bộ giáo lý để xác định rõ ràng giáo điều đã giải thích.
3). Áp dụng thực hành: là đưa những chân lý đã dạy vào đời sống và hành vi đứa trẻ. GLV hãy gợi cho chúng:
a. Những quyết định cần phải làm.
b. Những điều thực hành phải giữ.
c. Thực hành ngay bằng cách cầu nguyện.


B. Bốn phương thức để Giáo lý đi vào chiều sâu:

Suy nghĩ: từ khởi điểm Lời Chúa hay kinh nghiệm sống, giáo lý thúc đẩy suy nghĩ, khám phá, nhận định.
Đối thoại: Đối thoại với nhau làm cho suy nghĩ thêm phong phú, giải thích giáo điều, tạo bầu khí tin tưởng, chân thành, tích cực.
Cầu nguyện: học hiểu về Thiên Chúa, cần dẫn đến sự gặp gỡ thân tình, hiệp thông thân mật với Chúa qua cầu nguyện.
Hành động: Giáo lý thực sự tác động lên cách sống, biến thành dấn thân đáp trả và không ngừng hoán cải.


3. SAU KHI DẠY

GLV và học viên tiếp tục sống sứ điệp Tin mừng, sống bí tích, sống bác ái: trong gia đình, học đường, giáo xứ.
GLV phải làm gương đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích, đó là bài giảng hay nhất.
GLV kiểm tra bài củ, soạn và sửa bài, tìm thêm chất liệu để dạy bài mới.


4. VÀI LƯU Ý KHI DẠY GIÁO LÝ

1. Hãy chú ý tới bạn trẻ hơn tới sách vở.

Sách Giáo lý chỉ có tính cách chỉ dẫn đời sống Kitô hữu, chứ không phải một bản văn để học thuộc lòng. Học thuộc lòng suông mà không có sự giảng giải thích hợp có thể trở thành độc hại, gây nhàm chán. . .

GLV phải đưa bạn trẻ vào thế giới đức tin, sao cho những chân lý mạc khải trở thành những lý tưởng sáng ngời hướng dẫn đời sống, thành những động lực mạnh mẽ thúc đẩy trẻ bước đi trên đường trọn lành.

2. Mỗi bài giáo lý cần có mục đích nhất định.

Luôn có một mục đích học hỏi. Đó là lẽ dĩ nhiên. GLV cần xác định ý chính của mỗi bài giáo lý để tập trung và ghi sâu vào trí nhớ của trẻ.

Luôn có một mục đích hướng dẫn thực hành, nghĩa là giáo lý phải được đưa vào cuộc đời bạn trẻ, GLV cố gắng giúp bạn trẻ sống với mỗi chân lý, sống hiệp thông với Thiên Chúa.

Cần có mục đích gợi cảm, ít là khi gặp những chân lý quan trọng, GLV phải nhờ đến cảm xúc và kinh nghiệm bản thân để làm cho giáo lý ăn sâu vào tâm can và trí tưởng tượng của bạn trẻ.

3. Cần sửa soạn tâm trí để trẻ đón nhận giáo lý, cũng như cần sửa soạn đất để gieo giống. Công việc này thực hiện bằng cách:
Nhắc lại những gì đứa trẻ đã biết về vấn đề;

Nhắc lại kiến thức về những giáo điều liên hệ (rất cần thiết cho trẻ em để nhờ cái đã biết mà học thêm điều mới lạ).


GLV phải biết gây lên thích thú của trẻ đối với Chúa Kitô và Nước Trời. "Tất cả công việc giáo dục là tìm và đưa hứng thú vào đúng hướng". Ước muốn lay động ý chí, hứng thú thúc đẩy ước muốn, nhưng ta không thể bắt trẻ phải có hứng thú được, mà GLV cần phải gợi lên cho họ.

KẾT LUẬN:

GLV làm hết sức mình để việc dạy tốt đẹp, còn kết quả tuỳ Ơn Chúa.Nên nhớ: “Ta vun trồng, nhưng chính Chúa cho trổ sinh hoa quả” 
Mỗi lần soạn bài, xin Chúa cho ta biết nói gì, nói thế nào ? Xin Chúa giúp ta sống điều ta sẽ dạy cho học viên.

Đừng quên cầu nguyện cho học viên, vì: “Chỉ mình Chúa mới có thể biến đổi lòng người”.Và sau khi đã làm hết sức mình, hãy thân thưa với Chúa: “Con chỉ là đầy tớ vô dụng”. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha”.

  Bài 7. LỚP GIÁO LÝ

Giáo lý, xét theo khía cạnh như một môn học: có thầy dạy trò nghe, có giờ lớp - phòng lớp... Nhưng còn hơn thế, Giáo lý còn nhằm giáo dục đức tin, đưa đến sự gặp gỡ và hiệp thông thân mật với Chúa Kitô.
Vậy, Lớp Giáo lý là gì? Đâu là đặc tính làm cho lớp Giáo lý mang ý nghĩa đích thực của nó, khác với các môn học khác? GLV cần tạo bầu khí Lớp Giáo lý như thế nào?

I. ĐẶC TÍNH LỚP GIÁO LÝ

1. Lớp Giáo lý QUẢNG CÁO CHÚA GIÊSU  

Trung tâm của Giáo lý, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài “là Đường, là Sự Thật, là Sự sống”, là Đấng dẫn ta đến cùng Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, vì thế:

GLV giới thiệu Chúa Giêsu, một con người cụ thể, vui tươi, dễ mến, để người nghe yêu mến Chúa và bắt chước sống theo gương Chúa Giêsu.

GLV giới thiệu Chúa Giêsu nhân lành, không so đo, chấp nhất, không là vị quan toà nghiêm khắc, không là vị tham quan, hối lộ.

GLV giới thiệu Chúa Giêsu là ông Đạo, là Đấng Cứu thế, Đấng đã chết trên thập giá và sống lại để minh chứng tình yêu cứu độ nhân loại.

Giới thiệu Chúa Giêsu là Chúa, vừa là Cha, là Thầy, là Bạn ... luôn yêu thương, cảm thông và đồng hành với người trẻ trong mọi hoàn cảnh.


2. Lớp Giáo lý ĐÀO TẠO CÁC THÁNH

Thánh là gì? Là thiện hảo, tốt lành hoàn toàn : Chỉ có Chúa là Đấng Thánh. Những gì thuộc về Chúa, cũng được thông phần sự Thánh của Chúa (đồ thánh, đất thánh, người thánh, Thánh lễ...) Thánh còn mang ý nghĩa: tai nghe, miệng nói và làm những điều tốt lành (vị thánh sống).

Lớp Giáo lý đòi hỏi GLV phải Thánh, nghĩa là thuộc về Chúa, là sống trọn kiếp người với đồng loại và sống trọn nghĩa làm con Chúa.
GLV khuyên dạy các học viên làm nhiều việc lành, việc bái ái, khuyến khích làm công tác xã hội... đó chính là nỗ lực Sống Thánh.


3. Lớp Giáo lý HUẤN LUYỆN TIN “CẬY” MẾN

Các môn học khác không cần phải tin, nhưng học giáo lý cần phải TIN: GLV tin, học viên tin, vì đó là lớp thông truyền đức tin, huấn luyện đức tin, giúp trưởng thành đức tin.

GLV viên cần phải làm, phải nói cho học viên Tin : làm chứng nhân đức tin. Tin đến Yêu, càng Yêu để Tin nhiều hơn. Nhờ có Tin-Yêu, học viên trông cậy vào Ơn Chúa và sống hi vọng hạnh phúc nơi Quê Trời.

4. Lớp Giáo lý huấn luyện tình LIÊN ĐỚI và sống HIỆP THÔNG

GLV dạy về tình liên đới : một hành vi, một lời nói tốt-xấu của ta đều có ảnh hưởng đến người khác. Liên đới để giúp nhau thăng tiến.
Lớp Giáo lý cũng nhằm huấn luyện Các Thánh thông công : dâng Thánh lễ, cầu nguyện cho nhau, cho các linh hồn. Nên gợi ý về Phán xét như là công khai hoá mọi việc mình làm trong suốt cuộc sống.

GLV giúp học viên sống Hiệp thông trong Giáo hội: cho biết tin tức về Đức Giáo hoàng, Giám mục, Giáo phận, Họ đạo... để trẻ nhạy cảm vấn đề xã hội, gây ý thức yêu mến và cộng tác trong Giáo hội, khơi lên tinh thần Truyền giáo.

II. BẦU KHÍ LỚP GIÁO LÝ

Bầu khí lớp học rất quan trọng trong việc giáo dục. Giữ lớp, quét dọn phòng lớp sạch sẽ, ăn mặc trang nghiêm, trang trí theo chủ đề sẽ làm cho sự giáo dục đạt kết quả hơn.

1. BẦU KHÍ TRANG NGHIÊM 

Lớp Giáo lý là nơi giáo dục đức tin, đào tạo "Các Thánh", nên bầu khí trang nghiêm cần được duy trì nơi mỗi thành viên, nhờ đó, các học viên dễ dàng gặp gỡ, tiếp xúc và cầu nguyện thân tình với Chúa.

Vì thế, tránh gây xáo động, quá sôi nổi, ồn ào trong giờ Giáo lý, nhưng cũng đừng quá nghiêm khắc thành nặng nề, buồn chán...

2. BẦU KHÍ NIỀM NỞ, QUAN TÂM 

Dù dạy bất cứ ở đâu, điều quan trọng trong việc xây dựng bầu khí học tập: đó là sự niềm nở, quan tâm của GLV.

Điều nầy có nghĩa là khi GLV và học viên họp nhau trong phòng lớp, ngay cả khi có phụ huynh hoặc khách tham quan, mọi người đều cảm nhận được sự quan tâm, niềm nở của GLV đối với học viên.

Sự quan tâm được bộc lộ qua việc niềm nở đón tiếp các em, lắng nghe tiếng nói, nhìn và hiểu được những ước muốn, khó khăn của các em biểu lộ qua cử chỉ, lời nói, hành động... để khuyến khích những tình cảm tích cực và giảm thiểu những tiêu cực.
Sự quan tâm của GLV qua việc sắp xếp phòng lớp, trang trí, thay đổi bầu khí thêm vui tươi, hấp dẫn qua ca hát, kể chuyện, lớp học vui...

3. BẦU KHÍ KỶ LUẬT

 Kỷ luật trong lớp Giáo lý, đó là hình thức biểu lộ sự kính trọng hơn là bộc lộ quyền hành. Kỷ luật nhằm duy trì trật tự, cũng nhằm tôn trọng quyền lợi và nhu cầu của người khác.

Cần xác định: vấn đề kỷ luật và trật tự trong lớp học rất quan trọng, nhưng nó không là mục tiêu cuối cùng. Mục đích của kỷ luật là giúp các học viên tiếp thu đầy đủ bài học. Do đó, kỷ luật có thể thay đổi tuỳ theo lớp học, lứa tuổi, tuỳ người hướng dẫn, chứ không cứng nhắc.

Thật quan trọng khi chính GLV là người làm gương giữ kỷ luật, xem như đó là cách tôn trọng các em, bằng việc giữ đúng giờ dạy, dạy đúng bài, chuẩn bị bài vở chu đáo...

Kỷ luật: cần qui định một số điều lệ căn bản, đơn giản, rõ ràng : Điều lệ càng ít càng tốt, miễn sao bảo đảm việc học tập tốt, trang nghiêm, trật tự vừa đủ để khỏi gây nên bầu khí nặng nề... như : muốn nói, phải giơ tay xin phép ; muốn ra-vào lớp, phải xin phép...
Tán thưởng: Cần tuyên dương tán thưởng, vì nó phát sinh và nuôi dưỡng lòng tự trọng, khiến các em tự giác giữ kỷ luật. Lời khen thưởng luôn trung thực, chân thành, đúng với nỗ lực và thành quả của các em.

Hình phạt: Cần thận trọng khi có những hành vi sai trái do trẻ gây ra. Cần bộc lộ cách cương quyết, không nhượng bộ. Nên kết án các hành vi sai trái, chứ không lên án, chỉ trích, nhục mạ người phạm lỗi. Vì thế, tránh đe doạ, nhục mạ, chế giễu, trừng trị... những điều đó có thể tạo trật tự nhanh, hoặc sự khúm núm bên ngoài, chứ chưa hoán cải tấm lòng các em. Đôi khi còn gây bực tức, sợ hãi, bỏ học...

4. TRANG TRÍ THEO CHỦ ĐỀ  

Đây cũng là bí quyết mà GLV cần lưu ý và thực hiện, sẽ đem kết quả tốt cho bầu khí lớp Giáo lý, gây ấn tượng lâu dài cho bạn trẻ.
Chủ đề giáo lý cần được thực hiện bằng Vẽ, Cắt dán ... theo chủ đề, hoặc theo mùa Phụng vụ, sẽ lưu lại trí nhớ của học viên nhiều hơn.
Trí nhớ, xuyên qua mắt và tai, nếu được trình bày qua trang trí sẽ giúp các bạn trẻ nhớ lâu hơn. Đặc biệt, đó cũng là kỹ thuật để tạo ấn tượng khởi đầu, ngay lúc các học viên vừa bước vào lớp học, sẽ lưu lại mãi.

PHẦN II: DẠY GIÁO LÝ THEO LỨA TUỔI

Bài 8.  TÂM LÝ SƯ PHẠM  

I. KHÁI NIỆM TÂM LÝ

Chữ “TÂM LÝ” do 2 từ Hylạp “Psyche” (Tâm, hồn) và “Logos” (Lời, môn học). Tâm lý được hiểu như chính là đời sống con người, với những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, với những hoạt động của trí tuệ, tình cảm, biểu hiện qua thể xác, tinh thần và xã hội tính của mỗi người.

Khoa Tâm Lý Học là khoa học nghiên cứu về con người, với những suy tư và hành động, cảm nhận và tác động, bên ngoài và bên trong. Tất cả được quan sát, mô tả, giải thích, đối chiếu với thực tế, làm thành kinh nghiệm chung của xã hội, của nhân loại.

Khoa Tâm Lý Sư phạm là Tâm lý học được ứng dụng vào việc giáo dục đào tạo, giúp ta hiểu rõ hơn những đặc điểm và sự phát triển tâm lý của con người, nhờ đó, ta biết chọn lựa những phương pháp giáo dục thích ứng với tâm lý con người, trong từng giai đoạn tuổi.

II. ĐỊNH LUẬT TÂM LÝ  

Giáo dục là vấn đề của cả con người. Khoa Tâm lý học giúp ta hiểu về con người. Con người là một sinh vật có lý trí, là một tinh thần nhập thể. Trí khôn con người là một năng lực trộn lẫn trong thể xác vật chất, lớn lên với thể xác, chịu ảnh hưởng của thể xác. Do đó, ta cần biết những định luật căn bản của tâm lý để dạy tốt.

1. Định luật thứ nhất: Bản tính con người là phức tạp.  

Con người có hồn và xác. Hồn và xác kết hợp khắng khít với nhau. Bao lâu còn sống, ta không thể phân biệt chỗ nào là hồn, chỗ nào là xác. Hồn + xác sống và hoạt động chung. Ta có thể chia bản thân con người ra 3 phạm vi:

a). Phạm vi dưới cùng là Cơ thể:

Gồm những bộ phận sống : bộ máy tiêu hoá, tuần hoàn, cử động, sinh dục.. . Phần này được gọi là vô thức nhất, vì nó diễn tiến hoạt động máy móc, nhưng vẫn do tinh thần làm chủ. Nếu cơ thể điều hoà, êm dịu, thì trí óc hoạt động sáng suốt. Nếu bị cản trở thì toàn thân bị khủng hoảng, tinh thần đảo lộn: như tuổi dậy thì, tuổi tắt kinh.

b). Phạm vi trên cùng là Lý trí:

Đó là phần tư tưởng, luân lý. Phần này ít vật chất nhất, không trực tiếp dùng một cơ quan nào của thể xác. Nhưng người ta gọi bộ óc là khí cụ của lý trí. Nếu bộ não tốt, các thuỳ não lớn, máu chạy điều hoà, thì trí khôn sáng suốt, ý chí mới mạnh mẽ (khi nhức đầu, xỉn say, khó suy nghĩ tốt được).

c). Phần giữa là các Tâm tình:

Đó là phần vừa thể xác, vừa linh thiêng : yêu ghét, nóng giận, sợ sệt, vui buồn v.v.. Hầu hết đời sống nội tâm của ta đều ở phần nầy, không thể phân biệt đâu là tinh thần, đâu là thể xác. Lý trí cũng dựa vào đây để tìm vật liệu diễn tả hoạt động của mình.
Vì thế, muốn hiểu tâm lý con người, cần phải nhận thức sự liên lạc mật thiết giữa xác và hồn.

2. Định luật thứ hai: Hồn sáng dần lên với xác.

 Từ khi mới lọt lòng mẹ, con người tỏ ra có hồn thiêng : mắt nhìn, miệng cười, tay múa. Khi lớn lên, con người mới phân biệt mình khác với ngoại giới, vật nọ khác vật kia. Đến khi trí khôn triển nở, nhờ học hỏi, con người trưởng thành trong thể xác lẩn tâm sinh lý.. .

3. Định luật thứ ba 

Những ý tưởng siêu hình muốn vào tinh thần, phải qua thể xác.

Đối với trẻ dưới 12 tuổi, những ý tưởng siêu hình, cần được biểu diễn qua thể xác, cụ thể.

Từ 13 trở lên, ý tưởng đại đồng ít cần chính xác hơn.


4. Định luật thứ 4: Tri và Cảm đi liền nhau.

”Vô tri bất mộ”. Nếu Tri đi từ cá nhân của bé ra ngoài gia đình, xã hội, thì Cảm là yêu ghét của từ vị kỷ mà ra. Các em yêu mình, ghét mọi cái nghịch mình, thì từ đó, lòng yêu-ghét cũng lan ra, từ những hình ảnh cụ thể, để lên cái siêu hình đại đồng.

III. ĐẶC TÍNH CỦA CÁC CUỘC TIẾN TRIỂN TÂM LÝ

 Từ ngày lọt lòng mẹ cho đến tuổi thanh niên, con người tiến triển Liên tục. Bao lâu còn sống là còn thay đổi (tăng trưởng, phát triển, thoái hoá). Sự phát triển bao gồm 3 phần:

Thể xác: Phát triển chiều cao, trọng lượng, bộ não và sự phối hợp vận động giữa các bộ phận.

Trí tuệ: Phát triển về nhận thức (tư tưởng) như: ngôn ngữ, trí nhớ, óc tưởng tượng, tư duy.

Xã hội tính: Những quan hệ giao tế xã hội ngày càng nhiều hơn. Tính cách các cuộc tiến triển thường theo một đường gãy, phân từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có hai tiết:

Tiết khủng hoảng: như cua thay vỏ, bỏ đời sống trước và hấp thụ cái mới. Giai đoạn khủng hoảng thường khoảng 1 năm hay hơn nữa.

Tiết thăng bằng: là thời gian để sắp đặt lại điều đã hấp thụ trong thời khủng hoảng. Tiết êm dịu nầy dài 2-3 năm. Tuy thế, không phải là êm dịu hẳn một mực, mà còn bị ảnh hưởng của cơn khủng hoảng kế tiếp, nên chỉ có 1 năm yên tĩnh;

Cuộc khủng hoảng và thăng bằng đó có tính cách toàn diện, vì đời sống là duy nhất, nên mỗi lần xáo trộn là xáo động tất cả và sắp đặt lại tất cả: nhưng tâm tình, ý tưởng, tập quán, hành động, cách ứng xử xã hội...

(Xem Sơ đồ Lịch trình tiến triển Tâm lý .tr.109)

IV . CÁC GIAI ĐOẠN TIẾN TRIỂN 

1. Từ bé mới sinh đến 3 tuổi.

Ban đầu lẫn lộn cả nội giới, ngoại giới, dần dần mới phân biệt mình khác ngoại giới. Nhờ cảm giác, bé nhận thức các sự vật bên ngoài. Khám phá ra sự vật nhờ cảm giác (âge bucal). Đến 18 - 20 tháng - thời kỳ thuận tiện nhất để học tiếng một, nhờ đó các em biết rõ ý niệm sự vật. Hai tuổi, bé luôn luôn hỏi : Cái gì đây má ? nhưng chỉ biết sự vật cách rời rạc.

2. Đến 3-4 tuổi, cuộc khủng hoảng đầu tiên.

Các em nhận thức đời sống đối nội, em là một nhân vật, nên bướng bỉnh. Tuổi này mẹ nói gì cũng không. Em nói không để tỏ ra em có một đời sống riêng biệt, không muốn lệ thuộc ai. Tuổi này cũng là tuổi tìm hiểu liên lạc giữa các vật hữu hình, nên cái gì cũng hỏi : Cái này để làm gì ? Tại sao ? ( Patrick: pourquoi tas une dent qui est dehors ?)

3. Từ 4-7 tuổi là một thời gian êm dịu.

Các em sống trong một thế giới tưởng tượng, với quan niệm hữu hồn hoá (aninisme), em nhìn mọi cái chung quanh đều sống, đều có hồn như em. Với quan niệm vị kỷ (égocentrisme), em tự đặt mình làm trung tâm sự sống, lúc nào cũng mình. Ai ngoan nhất ? Con Với quan niệm tình cảm (affectivité) em quan niệm mọi sự dưới khía cạnh thương-ghét và vui-buồn.

Tất cả tâm tình đó, em cũng diễn ra trong đời sống tôn giáo của em. Em nhân - cách hoá Chúa và mọi thực tại linh thiêng, thấy Chúa hoạt động trong mọi sự (immédiatisme). Em sống nhiều về tình cảm và thích thâm giao với Chúa có bản vị. Luân lý của em cũng là luân lý tình cảm (7-9 tuổi : âge adulte de lenfance )

4. Đến 8-9 tuổi, khủng hoảng thứ 2.

Em bỏ đời sống mộng tưởng bên trong vì em đã nhìn ra ngoại giới rõ hơn. Em bắt đầu biết lý luận, nên không nhận quyền bính của cha mẹ, người trên. Em mở mắt nhìn đời nhiều hơn, nên tìm bạn hữu ngoài gia đình. Tuổi này là tuổi học thâu tư tưởng và diễn tả ra.

5. Từ 9-12 tuổi, tiết thăng bằng 

Các em tìm hiểu ngoại vật. Trí óc thực tế (esprit objectif). Dần dần xoá bỏ trí óc mơ mộng hoá nên lý luận, thích phiêu lưu, thích hoạt động, thích anh hùng. Mọi sự hiểu biết muốn diễn tả bằng trò chơi, ca hát, kịch, thích có bạn để chơi (âge de la camaraderie).

Đối với Chúa, bớt nhân cách hoá, bớt trực tiếp hoá vì đã hiểu các nguyên nhân trong vạn vật, nhưng vẫn thích ngắm nhìn Chúa cao cả chủ tể vạn vật. Thích Chúa Giêsu là Thầy sáng suốt, là Vua vinh hiển. Luân lý bắt đầu thành luân lý nguyên tắc (morale de règle) và biết sự phải sự trái, biết chân, thiện, mỹ.

6. Lối 13-14 tuổi, một khủng hoảng trầm trọng.

Các em lại trở vào nội giới. Bây giờ đã nhận sự tự do, tự chủ của mình, các em muốn tận hưởng nó. Tuổi dậy thì làm cho các em để ý đến tình yêu, đến việc sinh dục và đến thú vui thể xác, nên bắt đầu yêu.. . Trai yêu gái, gái thích trai, chưa phải là một tình yêu lựa chọn, chỉ mới là mối tình chung mơ hồ. Gái muốn duyên dáng uyển chuyển để lấy lòng trai, trai thích hùng mạnh để chinh phục gái, nhưng rất ngượng nghịu vì thân thể chưa điều hoà, nên hay e thẹn và nhút nhát. Họ thích trò chuyện tâm tình, thích tiểu thuyết tình ái, thích nhạc buồn, thích tất cả những gì gợi tình. Cũng chính vì thể chất bị khủng hoảng mạnh, nên hay đau yếu, nhức đầu, hay thay đổi tâm tình làm cho người ta khó hiểu mình và cũng khó hiểu được chính mình, nên sống rút vào trong.

Do đó, tuổi này vừa rất xa Chúa, vừa rất gần Chúa. Chính sự không hiểu đời và tưởng đời không hiểu mình. Chính sự đòi tự do, tự chủ trong đời sống nội tâm làm cho họ không thích sống với người khác, xa cha mẹ, anh chị, không thích đi chung, đọc kinh chung. Nhưng chỉ thích đi với một người thôi (ví dụ: Chung + Nhẫn). Nhưng cũng vì đó, họ thích gần Chúa, thích sống thân mật với Chúa, nhất là thích sống thân mật với Chúa một cách nhiệm giao qua cảnh vật- thích ngồi trầm lặng trên đồi, đứng nhìn nước chảy, ngó vẩn vơ, ngồi trong bóng tối nhà thờ để hồn lâng lâng lên Chúa. Chữ tình mới chớm nở, có thể làm lơ việc giao thân với Chúa, rồi lại có thể giúp họ tìm ra Chúa vì họ cảm thấy chỉ có tình yêu của Chúa mới chân thật (ơn thiên triệu nẩy nở ở tuổi này).

7 . Tuổi 14- 16 Dậy thì
Tuổi nầy là tuổi hướng nội. Đây là giai đoạn tiếp thời để ra khỏi tuổi thiếu nhi và bước sang tuổi thiếu niên. Tuổi nầy rất thất thường, vì những thay đổi của cơ thể và những bất thường về tinh thần làm cho người thiếu niên trở về với chính mình. Họ sống ngoài thực tại. Họ dốc lòng nhiều sự, rồi sau cùng họ không nắm giữ được điều nào. Họ muốn sống tự lập, muốn được tự do.
Đối với họ, ý nghĩa Thiên Chúa phù trợ của tuổi nhi đồng phải mất đi và ý nghĩa Thiên Chúa lập pháp của tuổi thiếu nhi cũng giảm nhiều. Họ hướng về Thiên Chúa có tính cách nhân vị. Họ hướng về Thiên Chúa là bạn để giúp họ thực hiện tự do - giúp họ tự do lái con thuyền đời họ. Họ cầu nguyện nhằm mục đích xin ơn (thi đậu v.v ...). Họ chưa ý thức được ý nghĩa của một đạo vô vị lợi.
8. Tuổi 17- 18: Khủng hoảng thành nhân
Tuổi khủng hoảng đặt lại vấn đề. Mọi cái họ cho là chân thật xưa nay, từ tư tưởng, tín ngưỡng, tình yêu, văn hoá... Bạn trẻ hoài nghi và muốn đặt lại vấn đề và tự giải quyết. Cái gì họ tự cho là hữu lý mới chấp thuận. Vì thế, người ta cho các bạn trẻ là ngang tàng bất kính, cổ truyền, bất chấp trật tự ; luân lý của các bạn trẻ là luân lý tự lập, cái gì mình cho là đúng là mình theo, không còn sợ sệt một áp lực nào bên ngoài.
Tâm hồn bạn trẻ ước muốn những sự tốt đẹp, thích việc xã hội, chính trị lớn lao, thích tiểu thuyết xã hội tả chân, thích hy sinh hoạt động cho đại nghĩa. Thành thử tâm hồn thanh niên khó hiểu vì phức tạp, vừa nghiêng mình về tình dục, thú vui, vừa say sưa với lý tưởng cao đẹp, vừa đòi tất cả mọi cái phải hợp với lẽ phải, mở miệng ra là lý luận, vừa sống bừa bãi vô kỷ luật. Tuổi 17 là tuổi anh hùng, nhưng còn là anh hùng rơm.
Ba, bốn năm sau, cuộc khủng hoảng lắng xuống. Các vấn đề đặt lại càng rõ rệt. Đối với tôn giáo, nếu may đặt đúng vấn đề, gặp đúng người hướng dẫn, họ sẽ có một đức tin sáng suốt đi đôi với đời sống tông đồ nhiệt thành, sống đạo hăng hái. Nếu không, bạn trẻ sẽ bỏ Chúa dần dần, trở nên giữ đạo theo cổ truyền vì phải giữ, có khi đi tới chỗ phủ nhận Thiên Chúa.
9. Tuổi bước vào đời 19 - 21
Đây là lúc bước chân vào cuộc đời làm ăn, tâm hồn thanh niên thay đổi, vừa hẹp lại, vừa rộng ra . Hẹp vì không có tính cách anh hùng rơm nữa, không còn chiến đấu cho mọi cái hay cái đẹp, mà trở nên thực tế hơn : lo cho có bằng cấp, chức vụ, có tiền, lo cho gia đình, người thân, bạn hữu rộng ra vì đối với vợ con, với công việc mình chọn lựa, lại hy sinh, tận tuỵ, bỏ mình, quên mình vì phận sự.
KẾT LUẬN 
Trẻ con là một sinh vật tự động, tự chủ. Trẻ con là một sinh vật đang tiến triển, đang lớn một cách toàn diện và liên tục. Tâm hồn trẻ con là một thế giới riêng biệt không giống tâm hồn người lớn.
Trước khi dạy dỗ trẻ, ta cần biết những điểm đại cương về khoa tâm lý nhi đồng. Hãy lợi dụng tâm lý các em để Rao truyền Tin Mừng cứu rỗi hợp với trạng thái của mỗi giai đoạn. (Sơ đồ Dạy Giáolý theo lứa tuổi, tr.108)
 
Bài 9.  DẠY GIÁO LÝ TUỔI ẤU NHI
Lớp Khai Tâm và Rước Lễ

I. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (4-7t)
1. Tư tưởng
- Tư tưởng gắn liền với tình cảm 
- Phân biệt được thực ảo. 
- Hay thắc mắc, đặt câu hỏi: Cái gì ? Tại sao ? 
- Sử dụng từ ngữ còn đơn sơ, cụ thể.
- Dựa vào đối tượng bên ngoài để suy nghĩ.

2. Tình cảm
- Lệ thuộc và phát triển từ nơi cha mẹ, anh chị, đồng bạn. 
- Biểu lộ tình cảm qua cử chỉ, nét mặt: cười, khóc 
- Tình cảm là nhu cầu cho trẻ lớn lên.

3. Nhân cách
- Nhân cách bắt đầu phát triển (3t) 
- Lấy người lớn làm mẫu mực để phát triển nhân cách.

4. Xã hội tính
- Từ 3-5t: Có tương quan với thế giới loài người và sự vật (đi đứng, nói năng) đi từ trong gia đình tới học đường. 
- (Ý thức về cái tôi): Tìm bạn để nô đùa. 
- Thấy cần rời gia đình (tuổi đi học)

5. Hành động
- Hành động theo tình cảm: để biểu lộ nhân cách. 
- Môi trường hoạt động nhỏ hẹp. 
- Thích hoạt động về tay chân: chơi, múa, vẽ, vũ...

II. SỰ PHÁT TRIỂN Ý THỨC LUÂN LÝ và ĐỨC TIN
1. LUÂN LÝ
- Ý thức luân lý đi liền với ý thức luân lý của cha mẹ. 
- Căn bản là đời sống tình cảm 
- Nặng tình cảm: vâng lời vì yêu thương, làm để vui lòng. 
- Lương tâm chớm nở: Phân biệt tốt xấu theo thái độ cha mẹ

2. ĐỨC TIN
- Trước tuổi khôn, đức tin chưa phải là hành vi tự do, mà chỉ là chia sẻ đức tin của cha mẹ. 
- Với thời gian, chúng ý thức được rằng : Thiên Chúa là Đấng Toàn năng, che chở, gìn giữ và làm cho nó lớn lên. 
- Cảm thấy phải tin Chúa, nghe Chúa và theo Chúa. 
- Chúa Giêsu như là Thiên Chúa, một người, một trung gian.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO
Huấn giáo Khai tâm, chuẩn bị Xưng tội-Rước lễ. 
Dựa vào sự kiện, kinh nghiệm xảy đến trong gia đình của các em mà dẫn tới chân lý Tôn giáo. 
Đào tạo thái độ Tôn giáo căn bản: Tin, Nghe, Sống theo Chúa. 
Phát huy tâm tình thờ lạy ; thái độ hoà hợp yêu thương người chung quanh: tình bạn với Chúa Giêsu. (vì xã hội tính phát triển) 
Trực tiếp giới thiệu Chúa Giêsu: Quê hương, cuộc đời, tâm tình, lời Chúa dạy, việc Ngài làm, điều Ngài đòi hỏi. 
Huấn luyện lương tâm Kitô giáo: 
- Giải thích lý do lề luật cách đơn giản: sống chân thật (tôn trọng tự do, không dùng áp lực, đe doạ, trừng phạt). 
- Cho thấy sự hiện diện của Chúa qua tiếng lương tâm. 
- Tạo cơ hội cho trẻ làm việc tốt.

Trao cho trẻ một số kiến thức giáo lý; cho trẻ có một ý niệm đúng về các giá trị luân lý, các bí tích, đặc biệt BT.Thánh thể và Giải tội.
IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
1. Phương pháp: Qui nạp, Trực giác, Tiệm tiến, Hoạt động.
2. Tổng quát sinh hoạt: 
- Cần vẽ, hát, cử điệu, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi 
- Vận dụng trí nhớ: Học thuộc lòng một số câu giáo lý, kinh đọc

3. Kỷ luật: Sống theo gương mẫu và lời nói của người lớn.
4. Cách trình bày vấn đề: 
- Phương pháp giản dị: từ sự kiện nghe
- thấy trong đời thường, tâm tình, rút kinh nghiệm, dẫn đến chân lý tôn giáo.

Bài 10.  DẠY GIÁO LÝ TUỔI THIẾU NHI 
Lớp THÊM SỨC

I. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (8-12t)
1. Tư tưởng 
- Tuổi hướng ngoại, bắt đầu suy luận.
- Tư tưởng đi liền với hành động.
- Tư tưởng dựa vào sự kiện khách quan.
- Sử dụng ngôn ngữ.
- Đắc thủ những tập quán: (giúp lễ, giáo lý, ca đoàn)

2. Tình cảm
- Tình cảm gắn liền với hành động: bộc trực, hồn nhiên.
- Thích ganh đua, thích được khen.
- Nhạy cảm, vui buồn ngắn ngủi.

3. Nhân cách
- Tuổi Hướng ngoại. Phân biệt phái tính.
- Bắt đầu hình thành nhân cách cá biệt, và triển nở do người lớn. Tập làm người lớn.

4. Xã hội tính
- Tuổi thích nghi và hội nhập vào sự vật và con người.
- Phát triển mạnh: lớp, đội, nhóm… Gắn liền cuộc sống.
- Dễ hợp tác, dễ ganh đua.

5. Hành động
- Tuổi thực nghiệm:Thích hoạt động tung tăng.
- Dồi dào sinh lực
- Hành động có tính cách tự động, nhưng bất kể hậu quả.

II. Ý THỨC LUÂN LÝ và ĐỨC TIN
1. Luân lý
- Căn bản là lý trí đang phát triển:
- Luân lý có tính cách thực hành cụ thể và xã hội.
- Luân lý là ý thức giữ luật lệ, có tính cách bắt chước.
- Tìm lý do bào chữa để tự vệ.

2. Đức tin
Thiên Chúa là Đấng an bài trật tự, là Đấng lập luật và truyền lệnh.
Thiên Chúa biệt vị, nhưng là Đấng có thể liên lạc được.
Đức Kitô người quyền năng.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO  
Giáo lý chuẩn bị lãnh Bí tích Thêm sức. Cần có chương trình.

Trình bày những sự kiện chính trong Lịch Sử Cứu rỗi. Đi từ những sự kiện cụ thể, nói lên tình thương của Thiên Chúa. Trình bày Thiên Chúa qua những kỳ công. Thiên Chúa cá biệt và thiết thân với con người.
Trình bày Chúa Kitô qua những hành động cụ thể.
Trình bày Chúa Thánh Thần qua hành động yêu thương ban sức mạnh trong Giáo hội.

Dẫn nhập trẻ vào đời sống Giáo hội, sống Phụng vụ, vào sinh hoạt cụ thể trong giáo xứ.
Cần gương sáng và sự cộng tác của gia đình, họ đạo.
Giáo dục luân lý: Kiểm điểm để nhận ra thiếu sót ; đáp lại lời mời của Chúa với lòng quảng đại. Tập thói quen tốt, tránh hình thức máy móc trong việc đạo đức.
IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
1. Huấn giáo Giảng giải: Dùng các phương pháp sư phạm căn bản:
- Cụ thể: dựa vào sự kiện, đưa tới chân lý.
- Gần gũi với đời sống.
- Qui cách chân lý về một số điểm chính.

2. Tổng quát Sinh hoạt:
- Cần vẽ, hát, đặt câu hỏi, sinh hoạt tập thể, trò chơi.
- Tra cứu, sưu tầm, chép vào sổ tay. Cầu nguyện.
- Cần học thuộc lòng: các câu giáo lý, câu KT, đố vui.

3. Kỷ luật: đi đôi với Tình thương
4. Cách Trình bày vấn đề:

Nói một sự kiện phải mạch lạc, đặt trong không gian, thời gian vì là tuổi tri giác.
Bài 11.  DẠY GIÁO LÝ TUỔI THIẾU NIÊN
Lớp BAO ĐỒNG

I. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (13-16t)
1. Tư tưởng

- Tuổi ước mơ: Chủ quan, mơ ước lý tưởng đẹp, dễ xa rời thực tế. 
- Kiến thức phong phú, nhưng đầy mơ mộng .
- Ý thức giá trị tinh thần, tự do chớm nở, giằng co giữa “Trẻ - Lớn”. 
- Hay phê bình, lý trí xung khắc tình cảm, bướng bỉnh, khó hiểu.

2. Tình cảm
- Tuổi Dậy thì: Đa cảm, mơ mộng, chú ý đến thân xác và sự sống.
- Tuổi bất ổn: từ tuổi trẻ bước vào tuổi lớn : hay thay đổi 
- Nhạy cảm trước ảnh hưởng ngoài gia đình (sách báo,TV, bạn bè)

3. Nhân cách 
- Tuổi giao thời, khó dạy: Xác định cái tôi Chủ quan, khép kín. 
- Tuổi ngưỡng mộ gương anh hùng cao cả, lý tưởng. 
- Khao khát tự do, quảng đại, hy sinh, chân thành, bản lĩnh.

4. Xã hội tính
- Tìm cách đi vào bí ẩn của con người, khám phá giá trị văn hoá, đời sống bằng suy luận chủ quan -Thích làm việc cá nhân. 
- Khao khát tự do: hướng về những giá trị giải phóng con người. 
- Chọn lọc bè bạn, lập nhóm, nhập “băng”.

5. Hành động 
- Muốn làm người lớn: bắt chước: 
+ Nam thích biểu dương sức mạnh. 
+ Nữ hướng về nội tâm, thích làm dáng . . . 
- Hành động theo nhóm. 
- Hăng say với việc hợp “gu”

II. Ý THỨC LUÂN LÝ và ĐỨC TIN
1. LUÂN LÝ

Căn bản là ý thức về cái TÔI: chủ quan trong suy nghĩ giá trị. 
Thắc mắc, xét lại luật lệ, phê phán: khước từ luật áp đặt bên ngoài để lưu tâm đến luật lương tâm. 
Thích bắt chước những khuôn mẫu lý tưởng: anh hùng.. . 
Luân lý tự phát, quảng đại, nhiệt tình, trách nhiệm.

2. ĐỨC TIN 
Chuyển biến từ Đức tin xã hội đến Đức tin cá biệt. Chọn lọc và nọi tâm hoá.
Thiên Chúa là Đấng mời gọi thoát khỏi nô lệ tính vị kỷ, để nên người tự do sống trưởng thành, làm con Thiên Chúa và cộng tác với Ngài. 
Thiên Chúa là Đấng soi sáng chỉ đường, Ngài là giá trị duy nhất và tuyệt đối.

III. NHỮNG MỤC TIÊU HUẤN GIÁO
Huấn giáo Nhân cách: Gợi lên lý tưởng sống qua việc trình bày Chúa Kitô gương mẫu, những anh hùng Kitô giáo.
Tiếp tục hướng đi từ lứa tuổi trước, khai triển một số điểm thực tế, cụ thể về Lịch Sử Cứu Độ, Kinh Thánh, đời sống Giáo Hội.
Khơi dậy niềm hy vọng, ý chí cương quyết qua việc trình bày những giá trị cao đẹp của Kitô giáo: thắng ươn hèn, bền tâm..
Hướng dẫn tự do, để trẻ ý thức trách nhiệm phẩm giá con người.
Hướng dẫn ơn gọi: Ơn thiên triệu Linh mục, Tu sĩ, lý tưởng sống.
Bổ túc thêm về hình ảnh Thiên Chúa: 
- Thiên Chúa là Cha nhân từ, mời gọi, soi sáng.
- Chúa Kitô chiều kích nhân vị. 
- Chúa Thánh Thần: sức mạnh để phục vụ . 
- Giáo Hội: phát triển phẩm giá và nhân cách Kitô giáo.

Giáo dục luân lý: Cần giúp trẻ nhận định các giá trị luân lý cách quân bình hơn, hiểu chính xác về tội, về trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa. Đừng quá tự tin sức mình, nhưng khiêm tốn và cậy trông vào Ơn Chúa.
IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
1. Phương Pháp Linh hoạt
- Thực hành: 
- Nêu gương anh hùng để khuyến khích. Cam kết dấn thân theo Chúa, trong Giáo Hội.

2. Tổng quát Sinh hoạt:
Đặt vấn đề hội thảo, tổ chức tham quan, thăm viếng, điều tra.. . 
Mời người tài đức đến chia sẻ kinh nghiệm, chứng từ. 
Xem phim, nghe nhạc, làm Album, panô theo chủ đề. 
Dẫn vào Nhóm sinh hoạt họ đạo, lãnh trách nhiệm cụ thể : ca đoàn, lễ sinh, nhóm phục vụ . . .

3. Kỷ luật: cần giải thích hợp lý 
4. Cách trình bày vấn đề:

Đi từ sự kiện bao quát hơn để đánh động tinh thần quảng đại, dấn thân, phục vụ: LSCĐ - Giáo Hội - Xã hội.
 
Bài 12.  DẠY GIÁO LÝ TUỔI THANH NIÊN 
Lớp VÀO ĐỜI

I. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (17-20t)
  1. Tư tưởng
- Tuổi Hội nhập vào Đời sống xã hội : văn hoá, nghề, hôn nhân..
- Suy tư :Khách quan, dễ hoài nghi, đặt lại vấn đề.
- Say mê lý tưởng, ý thức giá trị tinh thần, sáng suốt, nghị lực.
- Biết chọn những giải trí lành mạnh.
- Cần tiếp tục học hỏi.

2. Tình cảm  
- Dễ hăng hái, nhưng sáng suốt hơn
- Dễ Khủng hoảng vì thực tế. Dễ quạo.
- Bị giằng co bản thân, gia đình, xã hội trong lựa chọn.
- Dễ thông cảm và muốn được thông cảm.

3. Nhân cách
- Cái tôi - Cái ta.
- Bắt đầu trưởng thành: lãnh trách nhiệm.- Can đảm chọn lựa lý tưởng sống

4. Xã hội tính  
- Muốn hội nhập vào thế giới người lớn: lời nói, cư xử, suy nghĩ  
- Phát triển tương quan với tha nhân, dễ cởi mở.
- Đi vào xã hội, chọn những giá trị để đi vào cuộc sống.

5. Hành động
 
- Thực hiện những giá trị đã đắc thủ vào cuộc sống thực tế.
- Thử nghiệm để hội nhập. Vẫn còn những hoạt động không suy tư
- Sẽ thành công: nếu dung hoà lý tưởng với thực tế trong hành động

II. Ý THỨC LUÂN LÝ và ĐỨC TIN

1. LUÂN LÝ

Căn bản là Hội nhập xã hội. Ý thức giá trị tinh thần.
Điều thiện là giúp dễ hội nhập vào xã hội, phát triển cái “tôi”.
Ưa thích cụ thể hoá lý tưởng, danh dự, tự do dấn thân.
Hào hiệp, quãng đại...

2. ĐỨC TIN 
Tiêu cực:
 bớt chủ quan, bớt nhiệt tình, nhưng cụ thể.

Tích cực: Đức tin cụ thể, mang chiều kích xã hội, là đức tin ở trong GH, muốn đóng vai trò trong đời sống của Giáo hội.
Tìm Chúa Kitô ngay trong Giáo hội, qua những thực tại xã hội của Giáo hội (họ đạo). Lãnh sứ mạng xây dựng Nước Chúa.
III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO
Huấn giáo Hội nhập: văn hoá, xã hội, Giáo hội.
Giáo lý nhằm củng cố Đức Tin và lấy đức tin soi sáng để dấn thân vào đời.

Chuẩn bị vào đời: trình bày giá trị và mục đích của tình yêu hôn nhân và đời sống gia đình.
Ơn gọi làm người (trật tự sáng tạo). Ơn gọi làm Kitô hữu (trật tự cứu chuộc): đó vừa là hồng ân, vừa là trách nhiệm. Ơn gọi Hôn nhân (gia đình). Ơn Thiên triệu (Linh mục, Tu sĩ)
Đức tin là dấn thân trong cả hai lãnh vực đạo đời:
- Tương quan đạo - đời.
- Tương quan đức tin - khoa học.
- Tương quan cầu nguyện và hoạt động.

Giáo lý: cần trình bày những nhận thức đúng đắn về những hiện trạng tâm lý liên quan đến đức tin, để suy nghĩ chung.
IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
1. Phương pháp thảo luận, chia sẻ, họp nhóm: tập họp suy nghĩ chung.
2. Tổng quát Sinh hoạt:
- Đặt vấn đề hội thảo, tổ chức quan sát, thăm viếng, việc bác ái.
- Tìm giá trị luân lý tốt để dấn thân.
- Dùng mẫu gương tốt. Dẫn vào sinh hoạt trách nhiệm họ đạo, GH.

3. Kỷ luật: thông cảm, cần giải thích hợp lý
4. Cách trình bày vấn đề: Những vấn đề thời đại gây thắc mắc cho Đức tin, Sống đức tin.

 Bài 13.  GIÁO LÝ DỰ TÒNG
I. VÀI KINH NGHIỆM
1. TÌNH TRẠNG ĐA TẠP: 

Không thể phác hoạ một khuôn mẫu và một chương trình duy nhất cho mọi Dự Tòng, vì nhiều lý do:

Hoàn cảnh khác nhau: Mỗi người đều khác nhau về trình độ văn hoá, thành phần xã hội, kiến thức tôn giáo đã có, thời gian học đạo...
Lý do theo đạo: Mỗi người tìm đến với Giáo Hội Công giáo bằng một con đường khác nhau, với những khó khăn và thuận lợi riêng. GLV cần phải hiểu biết và thích ứng từng người.
2. TIẾP XÚC LẦN ĐẦU: Rất quan trọng, vì nhiều lý do:
Ấn tượng lần đầu tiên sẽ còn mãi nơi họ, vì qua GLV, người Dự tòng chính thức gặp Giáo Hội, tâm tư của họ lúc đó rất phức tạp: thành kiến, hiếu kỳ, e ngại, hy vọng, đa nghi... Cần tạo ấn tượng đẹp lần đầu tiên.
Thái độ GLV: Cần làm cho họ thoải mái ngay buổi đầu và tỏ ra là người có thể tin cậy được. Vì thế, GLV cần có đức tính cởi mở, vui tươi, tự nhiên, tránh lối xã giao giả tạo hay quá nghiêm khắc. GLV cũng cần tỏ ra là người chín chắn, biết quan tâm đến những khó khăn của họ.
3. LÝ DO TÒNG GIÁO.
 Có nhiều lý do khác nhau: Có người khao khát chân lý, tìm lý tưởng luân lý để làm lại cuộc đời. Cũng có thể vì vẽ đẹp, cái hay của tôn giáo lôi cuốn họ (Paul Claudel): Gương bác ái, phục vụ, thánh thiện của người Kitô hữu. Hoặc họ “xin được ơn như ý ” và hứa trở lại đạo. Cuối cùng còn có lý do kết hôn với người có đạo.
GLV cần hiểu và thanh luyện lý do tòng giáo : Việc tìm hiểu lý do tòng giáo sẽ làm cho GLV biết rõ người Dự tòng hơn, để hướng dẫn và giúp họ có dịp suy nghĩ, ý thức rõ rệt sự chọn lựa của mình. Có thể lý do thúc đẩy, khởi điểm ban đầu để đến với Chúa chưa hoàn toàn trong sáng, nên GLV gây ý thức, cần có thời gian để tinh luyện từng bước và gợi lên những lý do chính yếu và khẩn thiết hơn cho việc tòng giáo.
4. TRỞ NGẠI NGÔN NGỮ.  
Những buổi đầu GLV và Dự tòng rất khó hiểu nhau, vì mỗi người có lối sống, tư tưởng, tình cảm và ngôn ngữ để diễn tả khác nhau.
GLV cần đặt mình và địa vị của họ để hiểu những khó khăn của họ. Tất cả đều mới lạ. Cần thận trọng khi dùng từ ngữ tôn giáo như : cứu rỗi, cứu độ, ân sủng, Nước Thiên Chúa, Nước Trời, thiên đàng, hoả ngục, bí tích, phụng vụ, Thánh lễ... cần giải thích nội dung trước rồi dùng từ ngữ chuyên môn sau.
Người Dự tòng cũng có những kiểu nói, ngôn ngữ, suy nghĩ thuộc môi trường, tôn giáo riêng của họ. Họ còn đang tìm kiếm, do dự, xúc động, mới lạ để theo con đường mới, nên họ khó diễn tả rõ ràng cảm nghĩ của họ, hoặc thường dùng từ ngữ theo tôn giáo của họ... GLV cần nhạy bén, tế nhị và kiên trì để tìm ra thứ ngôn ngữ chung giúp hiểu nhau hơn.
II. HUẤN GIÁO và TIỀN HUẤN GIÁO  
1. “Tiền Huấn giáo”
Đây là thời gian trước khi vào việc dạy giáo lý chính thức:
Trao đổi kinh nghiệm sống: Những ngày đầu tiên, GLV chưa thể đề cập ngay các đề tài Giáo lý, các mầu nghiệm kitô giáo. GLV nên trao đổi với Dự tòng về đời sống kinh tế, xã hội, những vấn đề liên quan đến con người, như: hạnh phúc, thành công, thất bại, đau khổ, bệnh tật, sống chết, tôn giáo ... Khi chia sẻ, phân tích những vấn đề đó, sẽ dẫn đến đời sống tôn giáo và gặp Tin Mừng Chúa Giêsu.
Mặt khác, người Dự tòng cũng sẽ có những thắc mắc riêng tư về tôn giáo và cuộc sống. GLV cần giải đáp thoả đáng.
Như vậy, giai đoạn Tiền huấn giáo có tính cơ hội, lấy ưu tư, kinh nghiệm sống của chính người Dự tòng làm khởi điểm để suy nghĩ và trao đổi.
2. Huấn giáo
Sau giai đoạn Tiền huấn giáo, là đến giai đoạn trình bày chân lý đức tin cách tương đối mạch lạc và có hệ thống. Khi trình bày chân lý, GLV vẫn phải dựa vào kinh nghiệm cụ thể của người Dự tòng mà giảng giải. Nên lưu ý 3. Mục tiêu việc dạy giáo lý Dự tòng :
Dạy chân lý đức tin (Tín lý)
Trình bày giới luật (Luân lý)
Tập sống đời Kitô hữu (Bí tích, cầu nguyện) (AG 13,14)

III. MỤC TIÊU THỜI DỰ TÒNG 
Học giáo lý: Tìm hiểu chân lý đức tin và các giới luật, nhất là mầu nhiệm cứu rỗi.
Tập sống đời Kitô hữu: Nhờ gương sáng và cộng đoàn tín hữu, nhất là cha mẹ đỡ đầu, người Dự tòng làm quen dần và thực hành nếp sống kitô giáo.
Tham dự Phụng vụ Lời Chúa: Các cuộc cử hành giúp cho người dự tòng hiểu cụ thể và cảm nghiệm được những chân lý và mầu nhiệm đã được học hỏi. Chính các cuộc cử hành cũng mang lại nhiều ân phúc nâng đỡ đời sống thiêng liêng vừa chớm nở của họ.
Tập làm gương sáng và làm tông đồ: Việc nầy nên bắt đầu rất sớm và cũng là phần quan trọng của đời Kitô hữu.
IV. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Chương trình tuỳ các giáo phận, tuỳ các vị chủ chăn soạn những bài dạy Giáo lý riêng. Có 4 lược đồ trình bày nội dung giáo lý.
1. Lược đồ Lịch sử.
Các Chân lý được trình bày theo thứ tự thời gian:
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ , loài người và muốn con người hạnh phúc.
Loài người không theo đường lối Chúa: Tội.
Thiên Chúa hứa cứu chuộc và chuẩn bị ơn cứu chuộc (Cựu ước).
Thiên Chúa sai Con xuống trần để cứu chuộc: Chúa Giêsu (Tân ước).
Giáo hội Công giáo tiếp tục công cuộc cứu chuộc.

2. Lược đồ Phúc Âm.
Giáo lý khởi đầu từ Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Đạo; rồi trở ngược lại Cựu Ước, những gì xảy ra trước Ngài, khiến Ngài xuống thế làm người. Sau đó chuyển qua GH để thấy công cuộc cứu chuộc vẫn còn được tiếp tục.
Đường lối nầy đặt người dự tòng gặp gỡ ngay Chúa Giêsu, một nhân vật lịch sử, sống động, cụ thể. Các sách Phúc Âm là khởi điểm tốt. Những người đơn sơ sẽ dễ nhạy cảm với cách trình bày đường lối này. Tuy đường lối này hấp dẫn, nhưng không mạch lạc và bao quát như lược đồ lịch sử.
3. Lược đồ Phụng vụ.
Dựa vào các lễ và các mùa Phụng vụ để trình bày nội dung Giáo lý. Đường lối nầy cụ thể và cho thấy tương quan mật thiết giữa công cuộc cứu thế xưa của Chúa Giêsu và sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay.
Có thể phân chia chương trình giáo lý theo năm Phụng vụ như sau :
Mùa Vọng + Giáng sinh: Cựu Ước.
Từ lễ Hiển Linh - Phục sinh: Tân Ước.
Sau Hiện xuống : Giáo hội và đời Kitô hữu hữu.

4. Lược đồ cổ điển.
Dựa theo 4 phần của sách Giáo lý Công giáo: TIN, GIỮ, LÃNH, XIN
Những điều phải TIN trong đạo:
 Tín lý (Kinh Tin kính).
Những điều phải GIỮ:
 Luân lý (10 điều răn ĐCT và 6 điều răn HT).
Những điều cần LÃNH:
 Ơn Chúa và 7 Bí tích.
Những điều cầu XIN: Cầu nguyện, (Kinh Lạy Cha, Kính Mừng)...

KẾT: Giáo lý Dự tòng không chỉ nhằm chủ đích "Dạy lẽ đạo" như nhiều người lầm tưởng. Giáo Hội mong muốn nơi người Dự tòng thực hiện một cuộc đổi đời toàn diện để vào Nước Thiên Chúa. Cho nên, học giáo lý chỉ là một phần trong việc giáo dục trưởng thành đức tin. Ngoài ra, người Dự tòng ngay khi học giáo lý cần được tập Sống đạo, được khai tâm và tham dự Phụng vụ, được rèn luyện về tinh thần Truyền giáo. Vì thế, không nên hấp tấp học giáo lý trong vài tuần hay hơn tháng để được rửa tội là xong !
PHẦN III: CÁC PHƯƠNG PHÁP
Bài 14. TRÌNH BÀY - GIẢI THÍCH - ÁP DỤNG 
TRONG GIỜ GIÁO LÝ

Mỗi bài Giáo lý thường có ba phần chính: Trình bày “Giải thích” Áp dụng thực hành. Bài này nhằm gợi ý cho GLV những phương cách để dạy tốt 3 phần chính trong giờ Giáo lý.
I. HÌNH THỨC TRÌNH BÀY
1. Từ câu chuyện:
 Hình thức giảng dạy bằng thuật chuyện đã được chính Chúa Kitô sử dụng. Người rất hay trình bày giáo lý cao siêu dưới hình thức một câu chuyện. Hầu như tất cả giáo điều hàm chứa trong Thánh Kinh đều dưới hình thức câu chuyện!
Giáo lý Giáo hội có thể nói được là những suy tư dựa trên những câu chuyện, những dụ ngôn trong Thánh Kinh. Điều này rất đúng, nhất là trong các tín điều về Chúa Ba Ngôi, về Chúa Giêsu, về sự hiện diện thật sự trong Thánh thể, về Giáo hội ... Hơn thế nữa, Thánh Kinh chứa đựng rất nhiều câu chuyện tuyệt hay, làm sáng tỏ và làm sống động mỗi điểm của giáo lý và luân lý Kitô giáo. Đôi khi câu chuyện cũng có thể rút từ Hạnh các thánh, từ kinh nghiệm bản thân.
Muốn kể chuyện hay, GLV hãy cố gắng tưởng tượng mình là một nhân chứng đã mục kích câu chuyện, rồi bạn hãy kể:
-Với cả tâm hồn, qua con mắt và giọng nói truyền cảm.
-Diễn tả những ngoại cảm.
-Bộc lộ những nội cảm.
-Dùng những câu trích dẫn trực tiếp (văn đối thoại).
(X. Sư Phạm chuyện kể .tr.54)

2. Dùng hình ảnh: 

Hình ảnh không những giúp ta làm sáng tỏ câu chuyện, mà đôi khi ta có thể rút cả câu chuyện vào một hình ảnh, bằng cách hỏi sau đó những gì sẽ xảy ra? Một tập hình ảnh với lời chỉ dẫn rất có ích lợi cho việc trình bày giáo lý cách hấp dẫn và ghi nhớ lâu nơi trẻ. (Xem: Sư phạm Hình ảnh)

3. Vẽ vài nét phát hoạ hay vẽ hình trên bảng nhiều khi cũng có thể làm khởi điểm cho câu chuyện, giúp trình bày đề tài giáo lý. (X. Vẽ trong Giáo lý. tr.72)
II. GIẢI THÍCH
1. Trong phần giải thích, GLV làm cho bạn trẻ suy tưởng về câu chuyện và dưới sự hướng dẫn của GLV, chúng sẽ thâu nhận những ý niệm và giáo điều mà chúng cần được giáo huấn. Hãy học lối giải thích nơi Chúa Giêsu: sau khi kể một dụ ngôn, các Tông đồ ngơ ngác không hiểu Ngài muốn nói gì, lúc ấy Chúa mới giải thích cho các ông.
Vài lưu ý: Lời giải thích cần phải:
a. Đơn sơ: Cả trẻ nhỏ cũng cần một sự cắt nghĩa hợp lý về giáo lý. Những lời giải thích của bạn phải hợp với khả năng, với số ngữ vựng có giới hạn và với tầm kinh nghiệm hẹp hòi của chúng. Đây là điều khó khăn, đòi hỏi kinh nghiệm và nhiều cố gắng của bạn.
b. Cụ thể: Lời giải thích cần sử dụng ngôn ngữ hình ảnh sống động như Chúa Giêsu đã làm. Thay vì nói suông “Hãy quảng đại”, Chúa phán: Nếu người ta xin chúng đi với họ một cây số, chúng con hãy đi hai.
c. Luôn nhắc lại những điểm cốt yếu: Trong bài giảng sau Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nhắc lại biết bao lần sự cần thiết của cầu nguyện, sự hợp nhất trong Người. Nhờ việc nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trẻ sẽ hiểu và in sâu điều cốt yếu của bài giáo lý.
2. Sử dụng Câu hỏi: Câu hỏi là phương tiện giản dị nhất để gợi tư tưởng và giúp cho trẻ hiểu thấu đáo giáo lý. Vậy câu hỏi phải:
-Ngắn và rõ ràng.
-Dùng từ khác với sách giáo lý, cách cụ thể.
-Hỏi với tất cả lớp, rồi cho một em trả lời;
-Phân chia đều câu hỏi: Đừng gạt ra ngoài một vài em; hãy dành những câu hỏi khó cho những em xuất sắc hơn. (X. Sư phạm Câu hỏi.tr.47)

3. Bản tóm tắt trên bảng chúng ta thường dùng trong phần giải thích cũng rất hữu ích, giúp trẻ nhìn và ghi nhớ sâu. Ví dụ: KINH LẠY CHA
HAI LƯU Ý QUAN TRỌNG KHI TRÌNH BÀY
 1. Dù phải thích ứng với khả năng trẻ, GLV cần thận đừng bóp méo chân lý.
GLV phải làm cho bạn trẻ hiểu Chúa là người Cha đầy tình thương; nhưng không phải chỉ coi Chúa như một ông già hiền lành, luôn luôn dễ dãi và hay làm ơn. Uy quyền, thánh thiện và sự cao cả của Chúa cũng phải được nhấn mạnh không kém lòng nhân từ.
GLV sẽ thiếu sót, nếu chỉ trình bày một Chúa Giêsu nhân ái và dịu dàng mà không nói đến Chúa Giêsu Vua, thưởng phạt công bằng, Người không bao giờ dung túng kẻ bất trung.
Khi dạy về Chúa quan phòng, GLV sẽ làm cho trẻ hiểu lầm, nếu chỉ cho chúng tin rằng điều gì Chúa cũng làm dễ dàng cho ta, mà quên nói về sự cộng tác của con người.
2. Mục đích của việc dạy giáo lý không chỉ nhằm vào dạy kiến thức mà vào Đức Tin. Vậy:
GLV phải cẩn thận, làm sao cho bạn trẻ thấy ở Giáo lý Công giáo một sứ điệp của Thiên Chúa gởi tới. GLV phải ý thức rằng mình đang trao một tín thư của Chúa, đó là “tín thư của cứu rỗi”. Thiên Chúa nói với bạn trẻ rằng: Người muốn cứu họ. Việc dạy giáo lý phải nhằm vào lòng tin, tin vượt xa hẳn thái độ “tin như thật”. Tin là mở tâm hồn đón nhận ơn Cứu Độ của Chúa, luôn thưa với Chúa: “Xin vâng như lời Chúa truyền”.
Về cơ cấu của lòng tin: GLV phải hướng dẫn sao cho bạn trẻ hiểu rằng: Thiên Chúa nói qua Giáo hội; ta không tin cách mù quáng, vì ta biết rằng lời dạy dỗ của Giáo hội là Lời Chúa.
GLV đừng đem giảng ngay những chứng lý xác đáng về Thiên Chúa, về việc Chúa lập Giáo hội. Những điều ấy không thích hợp cho lòng tin thơ ngây của đứa trẻ. Nhưng hãy vạch rõ Chúa tỏ mình bằng nhiều cách như thế nào, trình bày vẽ đẹp và sự vững bền của Giáo hội, tính cách duy nhất và phổ quát, kết quả của Giáo hội trong việc lành và hạnh các thánh. Đường lối tốt nhất để củng cố Đức Tin là thực hành Đức Tin.
III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH
1. Dạy Giáo lý, GLV cống gắng làm cho bạn trẻ không những hiểu, mà còn biết nhận định giá trị và thực hành sống đạo. Sau khi giải thích mỗi tín điều, GLV cần hướng dẫn vào áp dụng thực hành trong đời sống. Hai câu hỏi dưới đây GLV sử dụng để giúp trẻ áp dụng thực hành:
a). Tín điều này có ý nghĩa gì đối với bản thân tôi?
GLV phải gây cho đứa trẻ một tâm trạng tương ứng đối với tình cảm mà tín điều sẽ gợi lên. 
Ví dụ:
-Sự chết của Chúa Kitô trên Thánh giá: Vinh quang Cha trên trời có nghĩa gì đối với tôi?
 
- Tôi nghĩ gì về tội? Chúa Giêsu yêu chúng tôi biết bao!

b). Chân lý này dạy tôi phải làm gì, tránh gì?
Hãy tìm một điều gì xác đáng để thực hành. Ví dụ:
-“Chịu thai bởi phép Thánh Thần”: các em đọc kinh Truyền tin thế nào?
- Sự sa ngã của Adong và Evà: Khi bị cám dỗ các em xử sự làm sao?
- Hậu quả của tội Tổ tông: Các em có xin Chúa Giêsu ban ơn giữ các em trong đường lành?.

NB: GLV đừng gợi những gì mà mình không thực hành.
c). Hãy tập cho trẻ biết áp dụng giáo lý vào đời sống hằng ngày:
 GLV giúp trẻ thực hành Dấu Thánh Giá, Thánh Lễ, Rước Lễ, ngày lễ thánh bổn mạng, đền thánh.. và dạy cho chúng biết nhìn thấy Chúa qua những kỳ công của Người trong vũ trụ, trong sự khéo léo của bàn tay, đôi mắt, lỗ tai con người; bằng những thí dụ cụ thể mà trẻ học trong vạn vật, địa lý hay khoa học. Rồi kết luận: “Đây là những ý tưởng của Chúa; con cố gắng suy lại những ý tưởng ấy”.
2. Áp dụng thực hành theo đúng nghĩa,
gồm có: Huấn luyện lương tâm và thực hành cầu nguyện
1). Huấn luyện lương tâm.
Để huấn luyện lương tâm: học thuộc 10 giới răn chưa đủ. GLV sẽ thiếu sót lớn, nếu chỉ nếu chỉ dạy cho bạn trẻ hiểu tội là gì, mà không tập cho chúng biết nhận ra đầu là điều lành và vạch ra những gương mẫu để trẻ hăng hái thực hiện việc tốt.
Hiểu biết lý thuyết suông không đủ, cần phải đưa đến những quyết tâm thực hành. GLV thúc giục trẻ xét mình hằng ngày, nhưng cần được hướng dẫn xét mình trong lớp học.
Ví dụ: sau khi giảng nghĩa về đức bác ái đối với anh em, hãy bảo trẻ để tay trên trán và xét theo vài câu hỏi:
-Tôi xử đối thế nào với các bạn nhỏ và yếu hơn tôi?
-Hôm nay tôi có giúp đỡ người nào ở gần nhà tôi không?
-Mai đây tôi có thể làm gì cho họ?

Huấn luyện lương tâm được nâng đỡ bằng sự canh tân thái độ và tăng cường động lực.
Để thúc đẩy trẻ sống theo lý tưởng thì khi giải thích các giới răn, GLV phải biết bày tỏ vẻ đẹp và sự hấp dẫn của những tâm hồn can đảm biết sống theo các giới răn và sự xấu xa của tội lỗi. Nhưng điều quan trọng là: tất cả giáo lý phải nhằm tác tạo những động lực đích thực, bằng cách làm cho trẻ ý thức:
1). Phẩm chất người Kitô hữu để sống xứng đáng với phẩm chất ấy.
2). Thiên Chúa yêu thương ta và ta phải đáp lại bằng việc tôn thờ và vâng phục Người.

2. Thực hành Cầu nguyện (X. Sư Phạm Cầu Nguyện.tr.51)
Mỗi bài giáo lý đều dẫn đến gặp gỡ thân mật với Chúa qua cầu nguyện, nên:
GLV tha thiết mời các em đọc kinh trong lớp học cho sốt sắng. Hãy dạy cho chúng hiểu lời kinh chúng đọc. Hãy giải thích rành mạch từng tiếng, từng câu để tránh thói đọc máy móc. Hãy cho các em tự viết ra vài kinh, bạn sẽ thấy nhiều điều ngạc nhiên!
Dạy các em biết cầu nguyện bằng tâm hồn, cầu nguyện không cần bản kinh. Hãy diễn tả thái độ của em nhỏ muốn bày tỏ cho người mẹ biết nhu cầu của mình, rồi dạy các em biết tín nhiệm và phó thác nơi Chúa và thưa chuyện với Chúa cách đơn sơ, thành thật như em nhỏ trong tay người mẹ. Hãy dạy trẻ lời nguyện vắn tắt.
GLV hướng dẫn cầu nguyện theo ý chính của mỗi bài giáo lý.
- Chẳng hạn sau khi nói với các em về những vật xinh tốt Chúa đã tạo dựng, hãy bảo các em cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con ngợi khen sự khôn ngoan Chúa, chúng con ngợi khen quyền phép Chúa”.
- Sau khi cắt nghĩa một giới răn, hãy thêm vào một lời cầu nguyện xin ơn sống theo giới răn ấy.
Trước khi cầu nguyện, GLV hãy mời trẻ đứng lên và cầm trí lại trong vài giây để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa.
 
Bài 15.  SƯ PHẠM CÂU HỎI
Một trong những phương pháp giúp học viên hiểu sâu xa được nội dung bài học, đó là biết cách đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Thần học gia Karl Rahner xác quyết rằng: những câu hỏi tốt là dấu hiệu về sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Đức tin lớn lên được là nhờ việc đặt vấn đề, thăm dò và tìm hiểu.
I. ÍCH LỢI CỦA CÂU HỎI
1. Về tâm lý, giáo dục: Đặt câu hỏi,
Là bắt đầu hiểu một phần vấn đề, cần tìm hiểu sâu hơn. 
Là thái độ cởi mở, thắng vượt e lệ, lãnh đạm, để trao đổi. 
Là xác định bản lãnh của mình: có ý nghĩ riêng, đối chiếu quan điểm. 
Là phương pháp tìm hiểu tâm tính và kiểm tra kiến thức.

2. Về loan Tin mừng:
Chúa Giêsu đáp lại những câu hỏi của mọi hạng người: 
Thầy ở đâu ? Ông có phải là Đức Kitô ? 
Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?

Chính Chúa Giêsu cũng dùng câu hỏi để dẫn người nghe đến chân lý: “Các con bảo Thầy là ai ? Anh có tin con người không ?”
II. CÁC LOẠI CÂU HỎI
1. Câu hỏi về sự kiện: Đây là câu hỏi để bảo đảm kiến thức chính xác về những sự kiện quan trọng:
Vd: “Bí tích là gì ? Có bao nhiêu bí tích ?”
Những câu hỏi này được đặt ra để nắm vững về những sự kiện cơ bản, kiểm tra kiến thức.
2. Câu hỏi về ý nghĩa: Từ một câu chuyện, một định nghĩa, một sự kiện, ta đặt câu hỏi “Điều nầy có ý nghĩa gì ?”.
Câu hỏi này nhằm hiểu biết dư luận, tìm ý kiến về một vấn đề. Nó mời gọi đi sâu vào sự kiện đức tin và đời sống, hơn những kiến thức hời hợt.
3. Câu hỏi về giá trị: Nhằm gợi lên những suy nghĩ sâu xa và cụ thể của từng cá nhân:
Vd: “Các bí tích có ảnh hưởng gì đến bạn ? Bạn có thường xuyên lãnh Bí tích không, và nó giúp ích gì cho bạn ?”.
Câu hỏi loại này có tính cách cá nhân, nên cần tôn trọng và tuỳ theo sự nhạy bén, đừng ép phải trả lời loại câu hỏi này. Cần tạo bầu khí tin tưởng, sẽ dễ dàng trao đổi kinh nghiệm sống.
4. Câu hỏi về cùng đích cuộc đời: Loại này liên quan đến đời sống và đụng chạm đến những huyền nhiệm của sự sống con người, niềm tin công giáo.
Vd: “Bí tích cho thấy gì về sự sống và sự chết ? Đâu là điều thiện, điều ác ? Đâu là hạnh phúc đích thực ?”
Đây là những câu hỏi đụng chạm về chiều sâu cảm nghiệm và niềm tin. Có thể khó trả lời cách trôi chảy. Những câu trả lời tốt nhất thường do sự suy tư trầm lắng, niềm tin phó thác và sự cầu nguyện khiêm tốn.
5. Ngoài ra, còn có câu hỏi lạc đề: do học viên đưa ra, thiếu xác tín và ngoài vấn đề học hỏi. Lý do?
Có thể vì nhiều lý do: chán học, mệt, muốn giải trí, bài học xa thực tế, không gây thích thú.
III. CÁCH ĐẶT CÂU HỎI CHO HỌC VIÊN
Để giúp học viên suy nghĩ và thảo luận, có 4 cách đặt câu hỏi:
1. Tránh nêu câu hỏi “đóng” , vì câu trả lời chỉ là: Có hoặc Không.
2. Bình thường, nên đặt câu hỏi chung cho cả lớp, trước khi hỏi riêng từng cá nhân. Điều này nhằm mời gọi cả lớp cùng suy nghĩ.
3. Có thể đặt câu hỏi trong nhiều dạng khác nhau: Vd: đặt câu hỏi với chính người hỏi, hoặc với cả lớp, hoặc dùng thơ văn, tranh ảnh, truyện kể, phim truyện hoặc những hoạt động sáng tạo khác.
4. Đừng hài lòng những câu trả lời hời hợt, đòi hỏi phải suy nghĩ sâu.
Lưu ý cách đặt câu hỏi về ý nghĩa và giá trị, đó là một kỹ năng quan trọng cho việc dạy học có chiều sâu.
IV. THÁI ĐỘ CỦA GLV TRƯỚC NHỮNG CÂU HỎI
1. Tiếp nhận câu hỏi với thiện cảm:
Trước hết, tỏ ra thái độ cởi mở, tiếp nhận, thái độ biết lắng nghe và biết lưu tâm đến thắc mắc và giá trị của người khác.
Không nên trả lời vội vã. Nên đào sâu câu hỏi và tìm gặp tâm tư của người đặt câu hỏi. Về mặt sư phạm: Câu trả lời tốt không phải là câu trả lời nhanh, nhưng là lời giải đáp mà trẻ cảm thấy vui, vì nhận thấy phát xuất từ đáy lòng GLV.
2. Không nên trả lời hết mọi câu hỏi:
Cần nắm vững nguyên tắc sư phạm: GLV chỉ nên trả lời 2 loại câu hỏi sau đây: 
- loại có liên quan đến đa số học viên, 
- loại tạo nên sự hiểu biết thêm về chân lý mạc khải.

Cần tập trẻ suy nghĩ cẩn thận trước khi đặt câu hỏi, và đặt những câu hỏi liên quan đến tập thể.
GLV cũng phải biết hạn chế câu hỏi để tránh lạc đề quá xa. Vì có một số câu hỏi không thể nào thoả đáp:
Vd: Tự do của con người, Tri thức của Thiên Chúa, Tiền định.. .
- Cho trẻ thấy giới hạn của trí tuệ con người.

Nếu câu hỏi ngoài vấn đề, nhưng lại quan trọng và ích lợi cho đa số, tính sao ? 
- Nếu đa số thích thú muốn được giải đáp, và nếu đủ giờ, thì nên trả lời. Còn nếu đa số dửng dưng, hoặc GLV chưa suy nghĩ kịp, hay không đủ giờ, thì hẹn lại lần sau, hoặc trả lời riêng.

3. Giải thích thêm và gạn lọc câu hỏi:
Có những câu hỏi mà trẻ đặt ra cách vụng về, thiếu mạch lạc, khó hiểu: GLV hãy gạn lọc, phân tích, sắp xếp cho gọn, dễ hiểu và giúp cho cả lớp thấy tầm quan trọng của vấn đề.
GLV nên gợi ý: “Em định nói gì, thử tóm ý của em... Em hiểu chữ X theo nghĩa nào ? Em có thể cho một ví dụ cụ thể... Có phải ý em muốn nói là ...”
V. CÁCH GIẢI ĐÁP TỪNG LOẠI CÂU HỎI
Trước khi trả lời, GLV cần phân định câu hỏi thuộc loại nào, và tìm lời giải thích ứng cho mỗi loại.
1. Câu hỏi đặt vấn đề về giá trị:
Vd: “Tại sao Giáo Hội buộc dự Thánh lễ ngày Chúa nhật ?”
Loại câu hỏi này do thiếu kiến thức: không biết hoặc không biết đủ. Để trả lời loại này, ta cần phải có kiến thức và biết thông truyền kiến thức.
2. Câu hỏi gợi lên mầu nhiệm:
Vd: Nếu Thiên Chúa tốt lành, tại sao có sự ác ? hoặc “Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài biết tôi được cứu rỗi, vậy tôi đâu còn Tự do ?”
Đây là loại câu hỏi đưa đi rất xa, vì liên quan đến mầu nhiệm đức tin. Để giải đáp, không thể chứng minh trực tiếp bằng kiến thức, lý luận, vì là những mầu nhiệm, nên con người không đủ khả năng thấu hiểu như Chúa.
GLV cần phải uốn nắn những thành kiến, ngộ nhận nếu có. Hãy đem những kinh nghiệm sống, những chứng từ trong cuộc sống, trong Giáo hội cho thấy đã khắc phục khó khăn. Giúp cho trẻ hiểu: một cuộc sống trung tín trong đức tin và cầu nguyện, dần sẽ giải toả được những khó khăn mà trí khôn không thể thấu triệt. Có thứ hiểu biết bằng tâm hồn nhờ ánh sáng của của đức tin, của Chúa Thánh Thần.
3. Câu hỏi lạc đề:
Tìm lý do xuất phát câu hỏi, có thể : vì nhàm chán, muốn giải trí, bài không thích thú, xa lạ..
GLV tránh đừng rơi vào “bẩy” của học viên, không nên trả lời, nếu thấy đùa giỡn, câu giờ. Nhắc cho biết là lạc đề, nhưng sẽ trả lời sau, nếu muốn. Cũng có thể hỏi ngược lại: “Em định trả lời sao ?”, GLV cũng kiểm điểm lại cách dạy, trình độ, sở thích, có thích hợp với trẻ không !
Kết: Hãy sử dụng tốt Phương pháp đặt Câu hỏi và trả lời Câu hỏi, Bạn sẽ thành công nhiều trong nhiệm vụ Giáo dục đức tin cho trẻ.
 
Bài 16.  SƯ PHẠM CẦU NGUYỆN
“Mọi giờ giáo lý đều hướng đến Cầu nguyện và Phụng tự”. Cầu nguyện được xem là đỉnh cao của bài Giáo lý. Vậy huấn luyện việc cầu nguyện là điều rất cần thiết trong giáo lý, cần cho GLV lẫn học viên.
I. THÁI ĐÔ KHI CẦU NGUYỆN 
1. Thái độ thụ tạo: Mọi sự, kể cả bản thân ta đều do Chúa tác tạo, yêu thương : nên thái độ chúng ta là tôn thờ, ca tụng, biết ơn Chúa. Cần khơi dậy tâm tình thờ lạy và vui tươi khi cầu nguyện với trẻ.
2. Thái độ người con: Nhờ Chúa Giêsu, ta được trở nên con Thiên Chúa. Tâm tình của người con là yêu mến, kính trọng, vâng phục, phó thác vào Cha, như tâm tình của Chúa Giêsu.
3. Thái độ tội nhân: Tin vào Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng thương xót, nhân từ, và khao khát ơn cứu rỗi, ta cầu xin tha thứ tội lỗi và sống tinh thần sám hối.
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ CẦU NGUYỆN
1. Đặt mình trước sự hiện diện của Chúa:
Vì cầu nguyện là “gặp gỡ” và “nói chuyện” với Chúa, nên cần ý thức sự hiện diện của Chúa, tập trung vào Chúa.
2. Có gì để nói với Chúa:
Cầu nguyện không chỉ là đọc vài kinh cho xong, mà còn cần có vài điều riêng tư trong lòng để nói với Chúa: chúc tụng, cám ơn, xin lỗi, xin ơn.
3. Lắng nghe tiếng Chúa nói:
Đây là điều thường bị “bỏ quên”. Cần phải lắng đọng tâm hồn, trong bầu khí tôn nghiêm, kính cẩn, tự do, trầm tĩnh, mới có thể nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa : đó chính là “lời nói trong lương tâm”, từ “những câu Kinh Thánh đã biết” thôi thúc, ai ủi, khích lệ ta làm lành, lánh dữ...
4. Tâm hồn biến đổi: vì tin mình được Chúa lắng nghe, và biến đổi lòng mình để thực thi ý Chúa, có niềm vui và an bình sau khi cầu nguyện.
III. DẠY TRẺ CẦU NGUYỆN
1. Chính GLV hãy trở nên người cầu nguyện: cầu nguyện nhiều trong suốt cuộc sống, và nuôi dưỡng tâm tình cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc…
2. Thái độ GLV khi dạy cầu nguyện: Cần phải giúp trẻ tin Chúa hiện diện để cầu nguyện. Cách tốt nhất để giúp trẻ TIN: là thái độ trang nghiêm “Như thấy Đấng vô hình” của chính GLV. Vì thế, GLV không thể giúp trẻ cầu nguyện trong thái độ : giận dữ, dò xét, doạ nạt, lo ra, lếu láo... Hãy bộc lộ nét trang nghiêm, tôn kính trong lúc cầu nguyện. Nếu cần sửa lỗi trẻ đang chơi giỡn, thì chờ đến khi đã cầu nguyện xong.
3. Tập cho trẻ cầu nguyện theo diễn tiến:
1. Đặt mình trước mặt Chúa.
2. Gợi lên tâm tình: thờ lạy, cảm ơn, xin lỗi, xin ơn.
3. Tìm lời và cử chỉ thích hợp (theo bài học) để diễn tả tâm tình.
4. Dạy cho trẻ biết cầu nguyện liên lĩ: 
- Luôn nhớ Chúa.
- Dâng ngày cho Chúa. Dâng mỗi việc làm cho Chúa.
- Biết dùng những lời nguyện tắt...

IV. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN TRONG GIÁO LÝ
Tuỳ bài học, lứa tuổi, hoàn cảnh mà GLV thích ứng các hình thức cầu nguyện, để tránh nhàm chán.
1. Lời nguyện tắt: Là lập đi lập lại tên “Giêsu” cách chậm rãi, âm thầm, hoặc câu ngắn gọn như: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.
“Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. 
“Giêsu, Maria, Giuse mến yêu, xin thương cứu các linh hồn”

2. Lặp lại lời nguyện: GLV đọc lớn từng câu ngắn, trẻ lập lại lớn tiếng (hoặc đọc thầm) từng câu: Vd: Lạy Chúa Giêsu, (Trẻ lặp lại) - Chúa đang ở giữa chúng con, (...) Chúng con tin Chúa yêu thương chúng con
3. Gợi lên một tâm tình, một đề tài, rồi trẻ tự cầu nguyện theo tâm tình ấy. Vd: Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta. Ngài ban cho chúng ta có cơm áo, nhà ở. TC tốt lành. Các em hãy ca ngợi và cảm ơn Chúa đi.
4. Cầu nguyện theo kiểu “Đáp ca”, hay kiểu “Kinh cầu”.
5. Cầu nguyện theo kiểu Chủ sự, cuối lời nguyện, tất cả thưa Amen.
6. Đọc kinh thường, nhưng đọc chậm, chú ý lời đọc : Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh.. .Đọc Thánh vịnh..
7. Cầu nguyện bằng bài hát : hướng ý trước về tâm tình, rồi hát lên.
V. CÁCH SOẠN MỘT LỜI NGUYỆN
Đôi khi GLV cảm thấy lúng túng khi soạn một lời nguyện chung cho hay, cho đúng, cho cân đối...
Dựa theo mẫu những Lời nguyện Phụng vụ của Giáo hội, ta thấy cấu trúc lời nguyện có gồm 5 phần:
1. Nêu danh xưng: Lạy Chúa, Lạy Chúa Giêsu, Lạy Chúa Thánh Thần, Lạy Mẹ Maria...
2. Lý do xin ơn: Thường dựa vào Lời Chúa, việc Chúa làm, hay từ biến cố cuộc sống.
3. Diễn tả nội dung: Muốn xin ơn gì ?
4. Chủ đích xin ơn: Xin ơn đó để làm gì ? Theo 2 chủ đích 
Lợi ích con người bản thân, gia đình, xã hội, giáo hội..
Làm vinh danh Chúa.

5. Kết thúc: Trông cậy Chúa ban ơn, vì công nghiệp Chúa Kitô...
Một lời nguyện mẫu
Lạy Chúa (nêu danh Chúa), Chúa không muốn kẻ có tội phải hư mất, nhưng muốn họ hối cải được sống (Lý do). Xin cho những người đang lìa xa Chúa, được nghe tiếng Chúa kêu mời trở lại trong mùa Chay thánh này (Nội dung). Để họ được hương nhờ ơn cứu rỗi của Chúa (cđ1) và làm sáng tỏ lòng nhân hậu hay tha thứ của Chúa (cđ2). Chúng cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con (Kết). Amen.
Kết: Cần thiết huấn luyện cầu nguyện. Lời cầu nguyện cần được phát xuất từ tấm lòng khiêm nhường, chân thành và đơn sơ, để nói với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo ý Chúa.
 
Bài 17.  SƯ PHẠM CHUYỆN KỂ
I. LÝ DO KỂ CHUYỆN TRONG GIÁO LÝ
Bài giáo lý được trình bày theo lối Qui Nạp thường dùng một câu chuyện cụ thể để làm khởi điểm, rồi dựa vào câu chuyện ấy để trình bày đề tài giáo lý. Chính Chúa Giêsu thường áp dụng đường lối giảng dạy này.
Ngoài ra, chúng ta còn có những lý do sau:
Ai cũng thích nghe kể chuyện. Đó là lý do hiển nhiên mà bạn thấy nơi chúng ta, dù già hay trẻ.
Các câu chuyện làm đời sống phong phú hơn. Nó như những mảng đời sống, giúp ta mở rộng tầm hiểu biết, từ đó ta khám phá những cái hay đẹp đang diễn ra hằng ngày.
Câu chuyện giúp ta biết được mình là ai. Qua một câu chuyện, nhờ đồng hoá với các nhân vật câu chuyện, như vui với điều tốt, vượt qua thử thách, có những tâm sự hay kinh nghiệm riêng tư... ta tìm được con đường, bài học thích hợp cho mình.
Câu chuyện gây hứng khởi và cổ võ. Khi nghe nội dung, tình tiết câu chuyện: như thiện thắng ác, lòng can đảm, tính trung thực, đức bác ái, gương anh hùng ... tự nhiên nội tâm ta hứng khởi, muốn hành động theo gương những nhân vật trong truyện.
II. PHÂN LOẠI CHUYỆN KỂ
Ta có thể phân chia chuyện kể thành 4 thể loại:
1. Chuyện Thánh Kinh
Trong Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước có rất nhiều câu chuyện để giúp các trẻ hiểu biết LSCĐ. Những chuyện này dùng để trình bày giáo lý rất tốt và thích hợp nhất, nhờ tính chất và nội dung tôn giáo của nó, cũng như để thông truyền kiến thức Thánh Kinh cho trẻ. Vd: Tạo dựng Ađam - Evà; Cain và Abêlê; Lửa cháy bụi gai; Vượt Biển Đỏ...
2. Chuyện Lịch sử Giáo Hội và Hạnh các Thánh.
Đây cũng là kho tàng chứa đựng nhiều câu chuyện để trình bày các đề tài Giáo lý. Tuy nhiên, cần trung thực, nên tránh những chi tiết ly kỳ, huyền thoại, phi lịch sử có thể làm hại đức tin cho trẻ sau này. Nên chọn lựa kỹ lưỡng, trình bày khéo léo và ứng dụng hợp lý. Vd: Cuộc đời thánh Phaolô, Hạnh Thánh Augustinô, Phanxicô Assisi, Xaviê, Têrêsa Hài đồng, Mẹ Têrêsa Calcuta...
3. Chuyện Dụ ngôn, chuyện Đời xưa.
Đây là kho tàng văn hoá dân gian, qua lớp áo văn chương, chuyện dụ ngôn được tiềm ẩn một bài học sâu sắc, cần khám phá để áp dụng vào đề tài giáo lý. Khi chọn lựa dụ ngôn, ta cần hiểu rõ được giá trị ẩn dụ để sự áp dụng được kết quả tốt đẹp, không gượng ép, lạc đề.
4. Chuyện đời thường hay thời sự
Những chuyện xảy ra hàng ngày, những biến cố thời sự cũng có thể làm khởi điểm để giúp suy nghĩ và dẫn vào đề tài Giáo lý. Tuy nhiên việc lựa chọn loại chuyện này khó hơn, cần hội đủ 2 điều kiện:
+ Có thích hợp hay không có mâu thuẫn với chủ đề giáo lý.
+ Có thể chuyển mạch từ câu chuyện sang đề tài giáo lý cách dễ dàng, không gượng ép, giả tạo.
III. GIÁ TRỊ CHUYỆN KỂ
Chuyện kể là con đường chạy thẳng vào tâm hồn, trí tưởng tượng và bản năng của con người.
Chuyện kể là phương tiện truyền đạt chân lý lịch sử -Văn hoá - Tôn giáo... để nâng cao kiến thức, mang tính giáo dục, giải trí, thư giãn.
“ Con người có thể đối kháng chống lại một chân lý, nhưng họ không thể Kháng cự lại một câu chuyện... khoảng cách ngắn nhất giữa con người và chân lý là một câu chuyện.” (Anthony de Mello)
IV. NGUYÊN TẮC CHỌN và SỬ DỤNG CHUYỆN KỂ
Có 4 nguyên tắc quan trọng:
1. Lên chương trình cẩn thận: Câu chuyện được chọn phải ăn khớp với chủ đề và mục tiêu của mỗi bài học, cũng như phải thích hợp với hoạt động và nhịp điệu tiến triển của lớp Giáo lý.
2. Chọn chuyện hợp tâm lý lứa tuổi. Mẫu giáo, nhi đồng: Truyện thú vật, cổ tích, thần tiên, có âm điệu, hò hát. Thiếu niên 10-13: Truyện phiêu lưu, viễn tưởng, anh hùng, truyền thống. Tráng niên 13-18: Truyện dũng cảm, thiên nhiên, có chất thơ, vần điệu.
3. Chuẩn bị kể chuyện cẩn thận. Cần đọc trước câu chuyện mà bạn muốn sử dụng. Tìm thấy cái hay, cái đẹp, ý nghĩa của câu chuyện. Nếu bạn không cảm thấy hứng thú, hay cảm thấy không có gì sâu sắc trong chuyện kể, thì các trẻ cũng sẽ cảm thấy thế, nên đừng chọn.
4. Đừng “lên lớp”. Hãy kể chuyện như là chuyện, đừng vội nhấn mạnh đến những điểm chính hoặc tính cách luân lý của câu chuyện. Tốt hơn, nên để các trẻ nói cho bạn biết câu chuyện nói gì về cuộc sống và về chúng.
V. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
Kể chuyện là nghệ thuật để truyền thụ kiến thức, để minh hoạ bài học thêm dễ hiểu, dễ nhớ. Nó là một kỹ năng cần thiết của Giáo lý viên, của nghề Quản trò. Vì thế, cần thiết phải nghiên cứu và sáng tạo Nghệ thuật Kể chuyện.
1. Chuyện kể hay, phải có các yếu tố:
Có nội dung hay và tình tiết hấp dẫn: có đối thoại, mô tả, gợi cảm.
Cảm hứng ngay từ đầu và có kết thúc linh hoạt, không dài dòng.
Liên quan đến người nghe: rút được bài học, dẫn đến chân lý.

2. Người kể chuyện hay, và hấp dẫn, cần phải:
Thích câu chuyện và muốn người khác nghe.
Nắm vững kết cấu việc kể chuyện.
Chuẩn bị chuyện kể cách chu đáo.

Biết thay đổi giọng nói cho phù hợp với tình tiết : nói rõ và chậm, nói to - nhỏ - vừa... có thể bắt chước giọng nói, điệu bộ thích ứng với nhân vật trong chuyện.
3. Kết cấu việc kể chuyện : gồm 5 giai đoạn
1. Giao đãi: giới thiệu, dẫn nhập, khởi đầu câu chuyện.
2. Thắt nút: lúc có vấn đề, có mâu thuẫn, có xung đột, gây khó chịu, thắc mắc.
3. Phát triển thắt nút : đẩy mâu thuẫn lên cao, bằng những tình tiết hấp dẫn, gây cấn.
4. Cao trào: Mâu thuẫn đạt đỉnh cao, cần thiết phải gây thách đố cách giải quyết.
5. Mở nút: giải quyết vấn đề, kết cục. Rút ra bài học liên hệ cuộc sống.
4. Luyện tập kể chuyện
a). Chuẩn bị chuyện kể
Chọn truyện thích hợp người nghe, liên quan vấn đề muốn truyền đạt.
Đọc truyện nhiều lần, thạo lời nói và động tác câu chuyện.
Nhớ động tác kế tiếp, những điểm gay cấn, những hình ảnh.
Thử kể chuyện trước gương, làm cử chỉ phù hợp lời nói.
Giọng nói bình dị, chậm rãi, trầm tĩnh, trực tiếp.
Ghi dàn bài, nhớ những điểm then chốt.

b). Khi kể chuyện
Quên hết mọi việc, chỉ cần biết câu chuyện và người nghe.
Tiếng nói đủ nghe, đủ lớn, đừng quá cao, quá đều.
Lời nói của nhân vật trong truyện phải phát biểu rõ ràng.
Khi tới điểm gay cấn, phải kết mau lẹ, đừng đặt câu hỏi và tán rộng ý nghĩa luân lý, sẽ làm mất hứng thú nghe chuyện.
Kể truyện cách vui vẻ, hào hứng, vì sự hăng say của người kể có sức truyền cảm cho người nghe.
Khi có những lời nói, tình tiết then chốt cần nhấn mạnh, ngưng một chút.
Cần sự tham gia của thính giả: hết chuyện đứng lên ho to: Hạ màn, Chấm dứt.

c). Bí quyết dẫn đến thành công: 
Biết mình có chuẩn bị.
Tin rằng mình sẽ làm được việc.
Nhìn cử toạ như là những người về phe mình, bạn mình.
Biết cách hít thở để tăng dưỡng khí, bớt hồi hộp.

BÀI TẬP
1. Chọn một truyện, rồi xem xét đâu là thắt nút, cao trào và mở nút.
2. Thực tập kể rõ 1 câu chuyện từ 2 đến 3. Lưu ý việc phát âm: tròn vành, rõ chữ. Kể thật rõ lời và tránh đứt quảng sai chỗ.
3. Tập kể chuyện, lưu ý có đối thoại, có cử điệu và bắt chước giọng nói của từng nhân vật. (Lưu ý cử điệu diễn tả cho người lớn khác cử điệu cho tuổi thiếu nhi).

 
Bài 18.  CỬ HÀNH TRONG GIÁO LÝ
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta ban cho chúng con, hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (1Co 11,24)
Nhập: Chủ đích của Giáo lý là hướng dẫn con người gặp gỡ và hiệp thông thân mật với Chúa; là giúp con người lắng nghe tiếng Chúa nói, tiếp nhận Lời Chúa và quyết tâm dấn thân thực hành trong cuộc sống. Với chủ đích đó, việc cử hành mang ý nghĩa và là đỉnh cao trong giờ Giáo lý.
Vì thế, GLV cần biết tổ chức giờ cầu nguyện, trong hay ngoài (hoặc kết thúc) giờ giáo lý, được gọi là Cử hành.
I. ĐỊNH NGHĨA
Cử hành,  đó là thực hiện chung việc tưởng niệm một biến cố cứu độ.
Thực hiện: Đó là một hành động, một việc xảy ra, trong không gian và trong thời gian riêng biệt, bởi những cử chỉ và lời nói, đồ vật và cử động.
Chung: gồm một nhóm người. Đó chính là Giáo hội cử hành, cho dù chỉ là một số ít thành viên của Giáo hội.
Tưởng niệm: Có sự qui hướng về quá khứ, về lịch sử đã xảy ra trong thực tế. Nhưng cái riêng của việc tưởng niệm là hiện tại hoá kinh nghiệm đã được hình thành trong quá khứ. Một sự hiện tại hoá như thế hướng về tương lai và xác nhận một hứa hẹn: cái đã xảy ra trong quá khứ và nay được hiện tại hoá, sẽ được hoàn hảo trong lịch sử tiếp tục.
Biến cố cứu độ: đó là việc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người trong lịch sử. Mỗi biến cố trong lịch sử Israel đều hướng về sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, được tiếp tục kéo dài trong lịch sử Giáo hội. Đĩnh cao của tất cả mọi cử hành, chính là Chúa Kitô Phục sinh, hiện thực hoá trong mầu nhiệm Thánh thể.
II. HAI YẾU TỐ HÌNH THÀNH VIỆC CỬ HÀNH
Cấu trúc của một việc cử hành rất đơn giản. Tất cả được tổ chức quanh 2 thực tại: cộng đoàn và biến cố cứu độ.
1. Cộng đoàn hiện diện:
Bởi sự hiện diện thể lý của những con người trong cùng một một Nơi chốn, một thời gian.
Bởi sự hiệp thông tinh thần của những người tham dự. Hình thành sự hiệp thông này, chính là mục đích của giai đoạn đón tiếp và tập trung ý hướng.
Bởi sự tham gia tích cực của tất cả mọi người, bộc lộ bề ngoài của sự hiệp thông tinh thần.
Bởi sự nhắm đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cộng đoàn.
Bởi sự biểu lộ mối liên hệ của cộng đoàn với Giáo hội (có sự hiện diện của linh mục hay một thừa tác viên ).
2. Biến cố cứu độ được trình bày. 
Bởi Lời Chúa được loan báo và thực hiện.
Bởi một hay nhiều cử chỉ biểu tượng diễn tả nội tâm.
Bởi sự đón nhận trong đức tin từ lời Chúa và từ những cử chỉ.
Bởi sự tuyên xưng đức tin và kinh nguyện tự phát.

III. CẤU TRÚC VIỆC CỬ HÀNH
Ta cò thể trình bày cấu trúc và diễn tiến sinh động của việc cử hành :
Quá khứ
Biến cố cứu độ
Hiện tại
Tụ họp và
Chuẩn bị
Lời Chúa và
Đáp trả
Sai đi
Đón tiếp
Ý hướng
Cử chỉ biểu tượng
Đức tin
Vào thế giới
- - - Được triệu tập - - - - Cộng Đoàn - - - được canh tân và sai đi - - -

IV. CHUẨN BỊ và TỔ CHỨC THÀNH CÔNG
1. Chuẩn bị cho một việc cử hành bao gồm :
1. Xác định cộng đoàn và hoàn cảnh cụ thể.
2. Dự kiến những cách thế để cộng đoàn tham dự sốt sắng.
3. Xác định biến cố cứu độ sắp được cử hành.
4. Dự kiến những cách thế để làm cho biến cố hiện thực và biểu thị cho cộng đoàn.
5. Dự kiến sự tiếp nối sinh động của tất cả những biến cố trong một tiến trình cụ thể.

2. Hai nguyên tắc căn bản để một cuộc cử hành thành công:
1. Trong việc cử hành, tất cả phải được biểu đạt :Không gian, đồ vật, lời nói, sự thinh lặng, sự chuyển động: mỗi dữ kiện góp phần tạo nên một thế giới hợp nhất cho cảm nghiệm biểu đạt.
2. Tất cả phải được biểu đạt bởi chính nó: Những thông báo và huấn lệnh sẽ được báo trước một cách ngắn gọn. Không nên giải thích hay chú giải dài dòng, làm mất đi sự biểu trưng của cuộc cử hành. Chỉ chấp nhận bài giảng rõ ràng, trực tiếp, xem như thành phần chính yếu của việc cử hành.
V. BỐN GIAI ĐOẠN CỦA VIỆC CỬ HÀNH
1. Bước Vào: Vào cuộc cử hành, tức là rời xa những gì cản trở để chuẩn bị cho việc gặp gỡ Chúa: Thay đổi nơi chốn, hoàn cảnh, thân thể.
Nghi thức mở đầu: bài hát, nghe nhạc, chiêm ngắm hình ảnh, thinh lặng chung, hình thành vòng tròn, nắm tay, làm cuộc rước... Vấn đề là sắp xếp, chuẩn bị sẵn sàng để gặp gỡ Chúa .
2. Lắng nghe Lời Chúa : Chọn bản văn ngắn gọn, hay một đoạn Phúc âm với 1 hay nhiều người đọc. Có thể tiến hành theo 2 phần :
Công bố Lời Chúa.
Đáp trả Lời Chúa, bằng việc nghe hay đọc chung, hát chung 1 Thánh vịnh, Thánh ca.
3. Dấn thân: Việc lắng nghe Lời Chúa thôi thúc hành động : một sự thay đổi, một sự hoán cải, được đánh dấu trong việc cử hành. Có thể thực hiện những việc sau :
Lời nguyện tự phát hay lời nguyện chung.
Làm dấu Thánh giá chậm rãi, dâng hoa, đốt nến và dâng nến...
Đọc kinh Lạy Cha trong cử điệu (giang tay). Thông thường, Kinh Lạy Cha để kết thúc phần này.

4. Sai đi: GLV cần làm cho mọi người hiểu rằng việc cử hành được kết thúc bằng một nghi thức sai đi:
Bằng một lời kinh Chúc lành và sai đi truyền giáo, sống đạo.
Bằng một bài hát kết thúc, một cuộc rước ra về. Nhờ nghi thức này, mọi người nhận ra việc họ vừa cử hành cần được sống trong cuộc sống thường ngày.
 
Bài 19. PHƯƠNG PHÁP DẠY CÁC GIỚI RĂN
I. MỤC ĐÍCH
Mục đích việc dạy các Giới răn là làm sao cho bạn trẻ biết giữ luật Chúa trong tinh thần của Chúa Kitô, tinh thần tự do của con cái Thiên Chúa.
Nền tảng của sự tự do này xây trên sự kiện là: chúng ta đã được tái sinh vào một đời sống mới.
Người Kitô hữu giữ luật Chúa không vì sợ, nhưng do lòng yêu mến sâu xa đối với sự thánh thiện, vì “Lòng yêu mến Chúa đã được rót vào tâm hồn chúng ta đã lãnh nhận” (Rm 5,5). Lòng yêu chuộng sâu xa đối với sự thiện là đặc điểm của con người đã được cứu chuộc; những kẻ tuân theo sự hướng dẫn của Thánh linh Chúa là con cái Chúa.. (Rm .8,14). Theo nghĩa này, Chúa đã hứa: “Ta sẽ in luật ta vào tư tưởng sâu thẳm của chúng và khắc vào tâm khảm chúng”. (Jer.31,33). Đây chính là điểm khác biệt của luân lý Kitô giáo với Cựu Ước.
“Giữ luật bề ngoài thôi chưa đủ, điều quan trọng là phải phát xuất do lòng yêu mến sâu xa đối với luật Chúa, cùng với tâm hồn trong sạch”.
Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nhiều vào sự khác biệt này: “Chúng con đã nghe.. nhưng Ta, Ta bảo chúng con...” (Mt 5,17-6,24). Người còn chống với bọn Pharisêu giả hình, vụ hình thức mà quên cốt lõi. Sự giảng dạy của chúng ta phải hợp với tinh thần Chúa Kitô.
II. BA TRỞ NGẠI GÂY HIỂU LẦM
1. Phần lớn, GLV dạy các giới răn để chuẩn bị cho các em Xưng tội. Điểm này hay làm cho ta có khuynh hướng coi các giới răn như một bản thống kê những đường lối người ta có thể phạm đến Chúa.
2. Nếu chỉ coi các giới răn như một bản kê khai các thứ tội, là một bản ghi những điều cấm, người ta dễ có cảm tưởng đó là một thứ gò bó nặng nề, ngăn cản không cho con người tự do hưởng thú vui! Điều này làm nguy hại trẻ hơn cả những cuộn phim, những hài kịch ca tụng nết xấu và cười nhạo nhân đức, dẫn đến việc xem người sống đời lương thiện chỉ là người hèn nhát, không dám phá bỏ vòng quy ước trói buộc; bạn trẻ hổ thẹn vì phải sống lương thiện, tuân theo luật!.
Vậy, GLV phải đập tan quan niệm sai lầm trên và nên tuyên dương người thực hành nhân đức là người cường tráng, can đảm và cao thượng, còn nết xấu là cái gì yếu đuối, hèn nhát, đê tiện, ích kỷ.
3. Nhiều người còn có quan niệm sai lạc về tự do. Họ tưởng tự do là buông theo mọi ước muốn ngông cuồng. Tự do thật là tài năng chọn lựa làm theo điều tốt. Lựa chọn sai lầm là một khuyết điểm của tự do. Tội bao giờ cũng là kết quả của nô lệ tình dục hay nô lệ dốt nát.
III. ĐỀ NGHỊ PHƯƠNG PHÁP DẠY GIỚI RĂN
Dạy các giới răn thế nào để gợi lòng yêu mến điều thiện.
1. Trước khi giải thích từng giới răn, hãy nhấn mạnh về phần Chúa truyền dạy lề luật như thế nào.
Các giới răn là một phần của ý muốn toàn năng mà Thiên Chúa hoạt động trong khắp vũ trụ. Với ý muốn ấy, Chúa hướng dẫn các vì sao và các nguyên tử; Chúa làm cây cỏ mọc lên và sinh hoa kết quả; Chúa cai trị thế giới loài vật qua các bản năng của chúng. Chỉ có con người là được quyền lựa chọn hoặc theo hoặc chống lại ý Chúa. Nhưng con người không được tự do thoát ly hậu quả do sự lựa chọn ấy: hoặc tình thân ái của Chúa, hưởng hạnh phúc trên trời, hoặc án phạt đời đời trong hoả ngục. Lương tâm con người là khả năng nhận biết luật Chúa, hướng dẫn ta làm lành lánh dữ, Chúa đã đặt vào linh hồn ta, nên GLV cần thiết huấn luyện lương tâm ngay chính.
Mười giới răn đã được tuyên bố cách long trọng, là một bản tuyên cáo rõ ràng luật Chúa đã in trong tâm hồn con người. Chính Chúa Kitô đã củng cố và hoàn tất luật ấy.
Nhấn mạnh vào hai giới răn trọng đại gồm tóm mọi giới răn khác: đó là Kính Chúa Yêu người. Đức Ái là căn bản cho đời sống Kitô hữu.
2. Tiến trình dạy mỗi giới răn: 
a. Bắt đầu bằng cách nêu rõ sự kiện nền tảng của giới răn.
b. Diễn tả những hành vi mà những sự kiện ấy đòi hỏi.
c. Dẫn giải bằng gương Chúa Giêsu.
d. Chỉ rõ các tội cần xa tránh.

Ví dụ:
1). Khi giảng về giới răn thứ nhất và trọng nhất: “Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con bằng tất cả trái tim”, GLV hãy gợi lại các sự kiện trong tâm trí:
Sự lệ thuộc tuyệt đối của ta vào Chúa, Đấng đã ban cho ta sự sống mới từng giây phút.
Ta cần đến Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa.
Vì tính cách cao trọng của nhân phẩm, con người không thể thoả mãn với những hạnh phúc thấp hèn.
Chu toàn giới răn là sống theo những sự kiện này:
Giới răn thứ năm: Kính trọng sự sống bản thân và sự sống tha nhân.
Sự kiện: Chúa đã dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa ( St. 9,6). Chúa đã cho chúng ta tham dự vào cuộc sống Người. Mỗi thiệt hại gây cho tha nhân là gây thiệt hại cho hình ảnh Chúa.

3). Giới răn thứ sáu:
a. Về tình nghĩa vợ chồng. (giải thích sao cho các em đã biết cũng như chưa biết có thể hiểu sự truyền sinh). Chúa muốn cho người cha và người mẹ luôn luôn hợp nhất để Chúa trao phó con cái cho họ và vạch cho chúng thấy mối tương quan giữa cha mẹ như thế nào. Đối với các trẻ lớn hơn, bạn có thể dẫn chứng qua việc hôn nhân trần thế đến hình ảnh sự kết hợp cao cả của Chúa Giêsu với Giáo Hội.
b. Qua những lời giảng giải, GLV hãy dạy trẻ biết tôn trọng thân xác và những khả năng lạ lùng Chúa đã đặt trong thân xác. Thân xác phải như một mãnh vườn rào kín và được canh giữ để trưởng thành và giữ luôn mầu trong sạch. Được hiến dâng trong phép Thánh Tẩy, thân xác trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, nên chi thể Chúa Kitô, và đáng được chung phần vinh quang với Chúa Kitô Phục sinh.
IV. VÀI Ý KIẾN VỀ DẠY LUÂN LÝ.
Luân lý không phải một môn phải học thêm, còn hơn thế, luân lý giúp bạn trẻ sống một đời lương thiện và hạnh phúc.
Quy tắc ghi nhớ: “Hãy chú ý vào bạn trẻ hơn vào cuốn sách”. Khi dạy Giáo lý Công giáo, GLV phải trao một sứ điệp của Chúa; khi dạy luân lý ta hãy giúp bạn trẻ hiểu những chân lý liên hệ đến ý nghĩa cuộc đời, đã in vào tâm hồn mỗi người và ta có thể nhận ra bằng suy luận. Nhiệm vụ của GLV là làm sáng tỏ những lý tưởng ấy nơi trẻ, hơn là đề ra một lý thuyết có uy thế.
Lớp luân lý sẽ trở nên một niềm vui sướng cho GLV nào biết ý thức rằng: mình đang làm thoả mãn một khát vọng chính đáng đang được thức tỉnh trong tâm trí học sinh; và kinh nghiệm cho ta thấy rằng chính các học viên tỏ ra rất hâm mộ và thành thật biết ơn GLV, người đã trở thành bạn và người hướng dẫn đầy hiểu biết, cảm thông.
Mới đây một cuộc điều tra về vấn đề dạy luân lý đã được thực hiện trong một số trường ở An Độ, qua đó, ta biết đại đa số học sinh khát mong được hướng dẫn và khuyến khích luân lý.
1. Ước vọng cầu nguyện: Trong số 785 học sinh trung học và cao đẳng không Kitô giáo, có tới 93% nói rằng họ cầu nguyện hằng ngày và nhiều người tỏ ý mong muốn được chỉ dẫn để cầu nguyện xứng đáng hơn, để thực hành sự kết hợp với Chúa. Phần lớn học sinh mong muốn GLV dạy họ không những biết đọc kinh hôm kinh mai, kinh ăn năn tội, kinh dâng mình; nhưng còn biết cách cầu nguyện với Chúa tự đáy lòng mà không cần bản kinh; biết ngợi khen và cảm tạ Chúa, biết cầu xin sức mạnh và ơn soi dẫn trong mọi thử thách và khó khăn. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng nguyên một việc dạy cách nhận biết Chúa trong mọi trong mọi vật quanh ta và thuật sống luôn kết hợp với Chúa bằng cách thanh tẩy tâm trí và làm mọi việc để phụng sự Chúa và vì danh Chúa, cũng rất được hâm mộ. Trong môn luân lý, nếu gợi trong họ lòng tin tưởng yêu mến Chúa và giúp họ thói quen cầu nguyện tha thiết với Chúa để xin ánh sáng và sức mạnh, thì đáp ứng mong ước.
2. Ước vọng được giúp sống lương thiện
Trong những năm cuối cùng trung học, học sinh thấy rõ những khuynh hướng tốt và xấu đang lẫn lộn trong họ. Điều quan trọng đối với GLV là phải ý thức rằng mình có một kẻ đồng minh, nên phải biết lợi dụng cơ hội để gây liên lạc trong tâm hồn bạn trẻ. Làm sao cho họ biết hãnh diện vì đã sống lương thiện, thành thật, bác ái và trong sạch, đó là điều tối quan trọng. Hãy kể những câu chuyện hay, những gương sáng để giúp bạn trẻ cảm nhận sức hấp dẫn của nhân đức.
3. Ước vọng được nghe chuyện và xem tranh ảnh
Nhiều học viên phàn nàn rằng giờ Giáo lý buồn tẻ vì phải học thuộc lòng những câu hỏi và những câu trả lời. Trình bày, giải thích và áp dụng là một đường lối hiển nhiên phải theo. Nhưng nên biết, thành công của việc dạy giáo lý phần lớn lệ thuộc ở những sự kiện hình ảnh và câu chuyện mà bạn đem sử dụng. Chứng lý của bạn sẽ hấp dẫn và truyền cảm nhiều hay ít, tuỳ hình ảnh bạn trình bày.
4. Ước vọng phụng sự người nghèo và dân tộc
GLV nên gây ý thức trách nhiệm xã hội nơi thế hệ trẻ. Đa số bạn trẻ cho biết ước nguyện chính của họ là làm việc để nâng cao mức sống của gia đình nghèo, kiện toàn công cuộc kiến thiết quê hương. Đây là một nền móng vững chắc để chúng ta xây dựng. Điều quan trọng là phải tránh rao giảng một thứ luân lý quá vị kỷ. Hãy dạy nền luân lý công bằng bác ái Chúa Kitô.
KẾT: Là GLV, Bạn có nhiệm vụ rất quan trọng trong Giáo Hội và xã hội, đó là Giáo dục đức tin, hướng dẫn luân lý, góp phần phát triển và thăng tiến con người cho thế hệ tương lai. Thế hệ tương lai có sống lương thiện hay không, phần lớn nhờ vào sự giáo dục luân lý của Bạn.
Hãy ý thức và thi hành chu đáo sứ vụ: giảng dạy và làm chứng.
 
Bài 20.  GIÁO LÝ BẰNG KINH THÁNH
I. Soạn bài.
II. Lên Lớp: tiến trình 5 bước
III. Đọc Kinh Thánh: 4 giai đoạn
I. SOẠN BÀI
Soạn bài là khâu quan trọng trong việc dạy giáo lý. Trước khi lên lớp, GLV cần biết mình phải nói gì, truyền đạt ra sao, theo thứ tự nào cho thích hợp, để các em có thể lĩnh hội. Thành công, kết quả tốt của một giờ dạy giáo lý, tuỳ thuộc phần lớn vào việc soạn bài kỹ lưỡng.
Để soạn bài chu đáo, GLV cần làm 2 bước : 
Chuẩn bị chất liệu. 
Sắp xếp nội dung.

A. Chuẩn bị chất liệu:
Tìm hiểu kỹ bài sắp dạy, để nắm vững nội dung phải truyền đạt. Cần đọc kỹ đoạn KT sắp dạy, nên ghi lại: Ý chính, ý phụ; mục đích của bài; tâm tình nào cần được khơi dậy; từ ngữ nào, câu nào khó hiểu, bài học tâm linh, nhân bản nào rút ra.
Cầu nguyện: Cầu xin CTT soi dẫn cho biết cần truyền đạt những gì. Nên tìm giờ thuận tiện để cầu nguyện bằng những chất liệu đã soạn (ý chính, tâm tình). Nên cầu nguyện cho học viên của mình.
Tìm phương pháp truyền đạt hiệu quả : Tìm và chuẩn bị những giáo cụ : bản đồ, hình ảnh, câu chuyện, bài hát và tìm cách diễn tả, minh hoạ nội dung sao cho các em thích thú và dễ tiếp thu.
B. Sắp xếp nội dung (Soạn Giáo án)
Có thể gọi đây là bước lên lớp bằng bút . Mỗi bài dạy nên ghi : 
1 Ngày tháng. Tựa bài. 
2. Nội dung những điều sẽ trình bày: 
Lời Chúa: Số trích đoạn KT của bài học. 
Ý chính, ý phụ. 
Tâm tình. 
Giáo cụ để minh hoạ.

3. Những câu hỏi đáp của bài học, những từ ngữ cần giải thích hoặc cần nhấn mạnh. 
4. Trọng tâm của đoạn Kinh Thánh. 
5. Bài học tâm linh, quyết tâm sống Lời Chúa. 
6. Bài học nhân bản phù hợp.

II. LÊN LỚP: Tiến trình 5 bước
Xin giới thiệu tiến trình của một giờ giáo lý Kinh Thánh (Theo CT.GL.PT)
Gồm 5 phần chính:
1. Mở đầu (10 phút)
Cầu nguyện đầu giờ 
Kiểm tra bài cũ,
Giới thiệu bài mới.

2. Nghe Lời Chúa (5)
Dẫn vào Lời Chúa. 
Công bố Lời Chúa

3. Hiểu Lời Chúa (25)
GLV giải thích những chữ khó hiểu. 
Thảo luận: chia tổ và thảo luận theo các câu hỏi gợi ý để tìm ý nghĩa và trọng tâm của đoạn Kinh Thánh. Sau đó nộp bản đúc kết, và kiểm tra theo hình thức thi đua. 
Lời Chúa dẫn đến bài học: GLV tổng kết các câu trả lời, tóm lược và ghi bài học.

4. Sống Lời Chúa (10)
Bài học tâm linh: Đây là phần quyết tâm sống Lời Chúa, cụ thể trong đời sống thường ngày. GLV có thể đúc kết cả bài học trong một vài câu ngắn gọn để giúp các em dễ nhớ và sống trong tuần. 
Chứng từ: gương các thánh: GLV có thể dùng một mẫu gương trong cuộc đời các vị thánh để củng cố thêm bài học. 
Cầu nguyện cao điểm: Từ bài học trên, GLV rút ra ý cầu nguyện và giúp trẻ cầu nguyện với cả tấm lòng. Đây là lúc trẻ đáp trả những gì đã được biết thêm về Chúa, về tình yêu Chúa cho mình. Có thể cầu nguyện tự phát.

5. Kết thúc: (10)
Các chỉ dẫn về nhân bản: khai triển các ý trong bài để lồng vào bài học nhân bản phù hợp. 
Bài tập về nhà, tìm hiểu đề tài tuần sau. Cầu nguyện kết thúc.

 
PHƯƠNG PHÁP
ĐỌC KINH THÁNH BẰNG 4 GIAI ĐOẠN 
(Trích dịch: Voyages à travers la Bible)

Có nhiều cách đọc và học Kinh thánh. Xin giới thiệu một tiến trình học hỏi Kinh Thánh dành cho Thanh thiếu niên bằng 4 giai đoạn: 
1 - Tạo bầu khí lắng nghe. 
2 - Đón nhận bản văn Lời Chúa. 
3 - Khám phá bản văn.
4 - Nội tâm hoá bản văn.

Bốn giai đoạn nầy được liên hệ mật thiết với nhau và mọi giai đoạn đều có tầm quan trọng đặc biệt. Ta không thể lướt nhanh hoặc bỏ qua một giai đoạn nào.
Mục tiêu sư phạm: Phương pháp này mời gọi cả thầy lẩn trò cùng khám phá bản văn, thấm nhuần Lời Chúa, tiến đến sự cầu nguyện và hoán cải. 
Mỗi giai đoạn đều có những gợi ý Sư phạm thực hành.

1. Tạo bầu khí lắng nghe
Mục tiêu: mở ra con đường dẫn đến bản văn.
Các trẻ không luôn dễ dàng và sẵn sàng đón nhận và làm việc trên bản văn Kinh Thánh. Vì thế, nên tạo điều kiện ước muốn và chú ý lắng sẵn sàng nghe, ngõ hầu trẻ có thể vui vẻ đón nhận bản văn .
Phương pháp sư phạm:
- Kể một phần bản văn và bảo trẻ tưởng tượng phần kế tiếp. 
- Mời gọi gợi nhớ bản văn. 
- Trao một bản văn với những chữ, những câu còn thiếu (điền vào chỗ trống). 
- Khởi đầu bằng việc đặt câu hỏi về một nhân vật hay những từ ngữ của bản văn. 
- Cho những thông tin về bản văn : ngáy tháng, bối cảnh xã hội... 
- Rọi hình, hay trình bày một bức tranh gợi nhớ bản văn.

2. Đón nhận bản văn
Mục tiêu: Chuẩn bị tiếp nhận tốt bản văn 
Lời Chúa, là chính Chúa tự hiến cho con người. Điều quan trọng là tỏ cho trẻ biết rằng Kinh Thánh cần được đón nhận như là ân ban của Chúa. Vì thế, ta cần trình bày bản văn Lời Chúa cách long trọng và trang trọng.

Phương pháp sư phạm 
- Đề nghị thực hiện trang giấy có bản văn trình bày đẹp, thoáng, sạch, trang trí màu sắc. 
- Trang trí quyển sách, trong đó có bản văn sắp đọc. 
- Tạo bầu khi thinh lặng để lời Chúa vang dội tâm hồn. 
- Đọc bản văn, làm cho đọc tốt hơn nhờ: đọc nhiều, trên nền nhạc, lặp lại vài chữ, vài câu như tiếng vang (echo). Vừa đọc vừa dán những câu đã viết sẵn lên bảng. 
- Đọc với việc phân chia các vai nhân vật trong bản văn.

3. Khám phá bản văn
Mục tiêu: Khảo sát bản văn và thấm nhuần bao nhiêu có thể. 
Càng làm việc nhiều trên bản văn, thì bản văn càng cho ta nhiều tư tưởng, lời nói. Khi ta thấm nhuần bản văn, ta càng khám phá sự đa nghĩa và nhận ra nhiều điều mới từ sứ điệp Tin Mừng.

Phương pháp sư phạm 
- Ghi ra những nhân vật, sự vật, hành động, sự di chuyển, lời nói... 
- Thực hiện một sơ đồ, diễn tiến câu chuyện. 
- Khám phá cấu trúc bản văn. 
- Khảo sát bản văn khi đối chiếu với những bản văn khác. 
- Cho tựa đề bản văn.

4. Nội tâm hoá bản văn
Mục tiêu: hiện tại hoá bản văn để cầu nguyện, để hoán cải. 
Đây là lúc làm cho giờ học, giờ đọc Kinh Thánh trở thành giờ Giáo lý, lúc làm cho Lời Chúa được vang dội nơi mỗi cá nhân. Cả GLV lẩn học viên đều được mời gọi để sám hối, canh tân và cầu nguyện.

Phương pháp sư phạm 
- Tạo khoảng không gian, bầu khí trang nghiêm để nội tâm hoá. 
- Kể lại bản văn đã khảo sát. 
- Viết lại bản văn với những hình ảnh, sự kiện của thời nay (tân biên). 
- Chia sẻ suy tư, cầu nguyện, chiêm niệm, ý tưởng cá nhân.
- Quyết tâm hành động, thực hiện dấn thân, đổi mới. 
- Lưu giữ những tác phẩm: hình vẽ, bản văn, lời nguyện, bài hát, vần thơ đã thực hiện.

Bài 21.  SƯ PHẠM HÌNH ẢNH
I. TRANH ẢNH TRONG GIÁO LÝ
Ngày nay, tràn ngập hình ảnh quảng cáo: trên đường, trong nhà, phòng thông tin, phòng họp được minh hoạ, trang trí bằng tranh ảnh. Lý do: học nhờ nhìn hơn là nghe. Nghiên cứu cho biết: 83% những điều chúng ta học là nhờ mắt. Còn Khổng Tử nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”.
Tranh ảnh nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo rất quan trọng trong việc sử dụng để dạy Giáo lý. Nó là cánh cửa dẫn vào tâm hồn người học những huyền nhiệm sự sống và thông truyền đức tin.
1. Nguyên tắc căn bản sử dụng tranh ảnh 
Chọn lựa cẩn thận: Dùng hình chụp, ảnh đẹp, trong tạp chí, quảng cáo, lịch treo tường ... để hấp dẫn người xem, kích thích tình cảm và làm cho người xem phải suy nghĩ sâu hơn về sự sống và niềm tin. Hãy sưu tập ảnh đẹp.
Nghiên cứu trước khi sử dụng:
Ngắm nhìn tranh ảnh, xem xét thật kỹ: 
- ghi nhận những phản ứng đầu tiên, 
- suy nghĩ vấn đề đã thấy, 
- tưởng tượng ra cách sử dụng chúng.

Cách Dạy Giáo lý bằng tranh ảnh: 
Chia sẻ và diễn tả ấn tượng về tranh ảnh :

Hãy nhìn xem tranh ảnh trong vài phút, rồi đặt câu hỏi : 
- Em thấy gì nơi bức tranh ? 
- Em thích gì nơi bức tranh ? 
- Đìều gì đang xảy ra trong bức tranh ? 
- Bức tranh muốn nói lên điều gì ?

Kế đến, em hãy ghi nhận những chi tiết và ý nghĩa của chúng: Màu sắc nóng, lạnh? Đường nét thẳng, cong, ngang, dọc; toàn cảnh, nhân vật
Từ tranh ảnh đến con người
Từ tranh ảnh dẫn đến phản ứng người xem tranh, dần dần hướng về cái nhìn cuộc sống thực tế của mình.

Vd: - Có khi nào em cảm thấy điều đó không ?
- Em có hành động, có sống giống như thế chưa ?
- Bức tranh nói gì về thái độ và giá trị của những người cùng tuổi?

Có thể viết lại câu chuyện từ tranh ảnh, đã xảy đến cho em.. .
Từ tranh ảnh đến cầu nguyện và hành động:

Suy tư, chia sẻ về tranh ảnh sẽ giúp nhận thức sâu xa về Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
- Hãy nhớ câu Kinh Thánh có liên quan đến tranh ảnh.
- Hãy đáp trả Lời Chúa với lời cầu nguyện.
- Hình ảnh thôi thúc ta dấn thân hành động thế nào?

Hình ảnh giúp suy niệm, thúc đẩy hành động : đó là áp dụng vào giáo lý.
2. Vài đề nghị sử dụng tranh ảnh
Vài phương pháp sử dụng tranh ảnh trong giờ giáo lý:
Trình bày: Treo tranh ảnh để lôi kéo sự chú ý vào đề tài bài học, tạo sự tò mò, duy trì chú ý, và tập trung vào bài học.
Chủ đề: Để các em viết chủ đề cho tranh không lời. Tìm câu Kinh thánh phù hợp chủ đề, hay đưa ra câu Kinh thánh, rồi tìm tranh ảnh phù hợp.
Sưu tập tranh ảnh: đưa tạp chí, rồi cho các em tìm ảnh nào phù hợp với đề.
Sáng tác câu chuyện: từ tranh ảnh, yêu cầu các em viết kể bằng lời hay diễn kịch...
Cắt dán, báo tường: Cho các em cắt lấy hình hay-đẹp, dán chung trên bảng thông cáo, để trình bày sứ điệp, về ngày lễ.. .
Tặng ảnh: dịp sinh nhật, lễ vui, tặng mỗi người một hình đạo.
3. Phương pháp Đọc Tranh ảnh 
Hình, ảnh, phim: đó là những chọn lựa điều mà tác giả muốn trình bày. Hình ảnh là một trang viết về quan điểm, cái nhìn và ý hướng của tác giả. Đọc hình ảnh là khám phá những khía cạnh được tác giả trình bày và giá trị sứ điệp tác giả muốn gởi gắm.
Tiến trình Đọc tranh ảnh: gồm 4 bước ( BÀI TẬP.tr.108):
1). Thành phần hình ảnh: Bạn thấy gì nơi tranh ảnh?
Hình ảnh, gồm mấy phần, mấy người và vật, hoạ tiết theo những đường nét ngang-dọc, cong-nghiêng,
Nhân vật: bao nhiêu người, hình dạng ra sao: chân-tay, mặt-mày, dáng vẻ.
Ánh sáng nhiều hay tối, màu sắc nóng hay lạnh:
- màu nóng: đỏ, cam, vang, nâu; - màu lạnh: xanh, tím, ve.
Khung ảnh (Plan): rộng-hẹp chứa đựng người- cảnh - vật -chi thể (mỗi khung ảnh có ý nghĩa riêng. Tr.109)
2). Hình ảnh cho con người: Hình ảnh đánh động gì nơi bạn?
Hình ảnh đánh động giác quan của bạn như thế nào ? Như sờ, nếm, ngửi, nghe, thấy: khô - ướt; nóng - lạnh; cứng - mềm; trơn - nhám.
Các đồ vật, nhân vật, cử chỉ hành động nào mang giá trị biểu tượng cho nhóm, tôn giáo, văn hoá dân tộc nào ?.. . Nói lên ý nghĩa gì chung cho mọi người ? 
Tình cảm hay cảm xúc nào gợi lên cho bạn từ hình ảnh ?
3). Hình ảnh cho Giáo lý: Ứng dụng vào đề tài Giáo lý ? 
Tìm câu Kinh thánh, dụ ngôn Phúc âm nào có thể nảy sinh từ hình ảnh ?
Hình ảnh gởi đến cho thời nay sứ điệp gì ? Hoà bình, nạn đói, thiên tai...
Hình ảnh đành động tâm tình tôn giáo nào ? Tin, cậy, mến, chúc tụng, hân hoan.

4). Hình ảnh cho bài học: Thực hành cầu nguyện và dấn thân phục vụ. 
Hình ảnh nhắc nhớ gì cho con người ? Vd: lao động, chia sẻ, yêu thương...
Mang lại giá trị và tương quan đạo đức như thế nào ? Vd: xây hoà bình, chống chiến tranh...
Gợi ý cầu nguyện cho vấn đề gì ?: Cầu nguyện theo Lời Chúa, về...

Mời gọi dấn thân hành động thế nào cho bản thân, gia đình, Giáo hội, xã hội ?
II. VẼ TRONG GIÁO LÝ
Một trong những điều làm học sinh thích thú, đó là Vẽ tranh. Thế giới ngày nay dường như con người thích vẽ hơn trước kia, vì nền văn hoá ngày nay thuộc về thị giác và màu sắc. Vì thế, Vẽ cũng có giá trị trong Giáo lý.
1. Tại sao phải vẽ ? 
Vẽ để bộc lộ và diễn tả tâm tư, kinh nghiệm, cảm xúc.
Vẽ để phát huy trí tưởng tượng, năng khiếu thẩm mỹ.
Vẽ để phản ánh suy tư: diễn tả điều minh biết - tin hơn bằng lời.
Vẽ để tự do chia sẻ tâm tư và cảm xúc, tạo ra những cảm thức mang tính cộng đồng.
Vẽ để khuyến khích cầu nguyện và hành động.

2. Vẽ trong giờ Giáo lý 
Cốt yếu là ý nghĩa và cảm xúc, chứ không là kỹ thuật.
Diễn đạt tự nhiên: nét, màu, lớn, nhỏ, tưởng tượng.
Khuyến khích vẽ chung: từng cặp, trên bảng hoặc giấy lớn.
Khen nỗ lực: giúp thực hiện khả năng diễn tả.
Trưng bày và ứng dụng: sử dụng vài ảnh cho những chủ đề kế.

3. Vài loại hình Vẽ trong Giáo lý 
Vẽ kinh nghiệm: Vẽ những gì thấy được trong cuộc sống.

Vd: “vẽ thế giới của bạn”, thêm chút hài hước như phim hoạt hình.
Vẽ chuyện Kinh thánh: để minh hoạ hiểu biết mới về Kinh Thánh.
Vẽ biểu tượng hoặc Nghi thức phụng vụ: Vd: vẽ về BT Thánh thể có ý nghĩa thế nào: sách, đèn, chén lễ, bánh, chim câu...
Vẽ một cảm xúc hay niềm xác tín: Vẽ cô đơn, bỏ rơi, được yêu.
Vẽ bích hoạ: có tính cách quảng cáo, diễn tả niềm xác tín, như: “Cho thì vui hơn nhận”, hoặc “xây dựng hoà bình”. 
Vẽ trang trí: vào dịp lễ vui, trang trí thiệp chúc mừng, bảng, tập vở.

4. Nét vẽ Minh Hoạ Giáo lý   
GLV tập vẽ nét đơn sơ để minh hoạ bào giáo lý: vẽ bảng, vẽ tập, vẽ báo.
GLV sưu tập nét vẽ đơn sơ, đẹp, thoáng để sử dụng khi cần thiết.

III. PHIM ẢNH TRONG GIÁO LÝ ẢNH HƯỞNG CỦA PHIM ẢNH TRONG THỜI ĐẠI. THÁI ĐỘ ĐỐI DIỆN VỚI TRUYỀN THÔNG
1. Lược đồ về Truyền thông, trên nhiều lãnh vực 
- Tác phẩm:
 Phim, vidéo, bài hát, truyện kể, tiểu thuyết, kịch..
- Thực tế Tp:
 tác giả chọn lựa, gạn lọc, sắp xếp, để nói lên chủ đề.
- Người nhận:
 chỉ thấy điều đã gạn lọc, dàn dựng theo ý tác giả.
Lưu ý:
 về sự sai biệt giữa thực tế trên phim và thực tế cuộc sống.

2. Đọc Phim ảnh  
Phim ảnh là thứ ngôn ngữ nghe nhìn. Cần phải biết cách “đọc”: 
Đọc phim ảnh: là nói lại điều mình nghe - thấy.
- Là diễn tả: là chấp nhận cái mình thấy, hình ảnh là chính nó.
- Là hiểu: cái nhìn trí tuệ: ảnh được cấu tạo thế nào ? Ý nghĩa gì ?
- Là bước vào đối thoại: chia sẻ cảm nhận từ hình ảnh, với những giá trị phim ảnh, nét hài hoà hay nghịch lý.

Đối thoại: - Với thái độ tôn trọng.
- Đón nhận ý kiến và cảm xúc của người khác.
- Những tiêu chuẩn cá nhân về vấn đề: bỏ hay chấp nhận.

Vấn đề thảo luận:
- Tôi đã thấy gì qua phim ảnh ?
- Phân tích điều đã nghe, đã thấy.
- Sử dụng “Chìa khoá đọc Phim” để nhận ra ý hướng tác giả dựng phim.

3. Chìa khoá để đọc Phim Vidéo
1. Xem phim lần 1, ghi lại những đoạn chính, nơi và đồ vật có ý nghĩa ?
2. Đặt tên những nhân vật chánh, và nói về đặc tính của họ.
3. Nhân vật hay đối tượng nào được nhấn mạnh ?
4. Nhịp điệu hình ảnh nhanh chậm ?
5. Kiểu “plan” nào sử dụng nhiều nhất : chân dung, toàn diện, toàn cảnh ? Kiểu di động máy quay đặc biệt ? (Xem tr.109)
6. Những thái độ, nơi chốn, đồ vật, lời, nhạc, vay mượn từ những nền văn hoá, tôn giáo khác nhau ?
7. Vấn đề ghi âm: Tiếng động môi trường, âm nhạc: Có vai trò thế nào ? Có người kể (voix off) ?
8. Nếu phim Kinh Thánh: đọc bản văn tương ứng trong Kinh Thánh, có sáng chế lời, nơi, nhân vật, hành động ?
9. Sự phân tích này giúp chúng ta khám phá điều gì ? Sản phẩm và ý hướng tác giả ?
10. Có thể sử dụng tác phẩm này dịp nào ? Lời khuyên nào cho người sử dụng ?

4. Dạy GIÁO LÝ GIỚI TRẺ bằng phim Vidéo
1). Tiêu chuẩn chọn lựa phim vidéo:
- Nội dung: vidéo nói vấn đề gì ? Như thế nào ?
- Chất lượng kỹ thuật: ảnh đẹp, âm thanh rõ, tình tiết trình bày tốt
- Sự thực hiện: ai thực hiện, giả tưởng, phóng sự, quan điểm;
- Thời gian: tuỳ buổi dạy, tuỳ vấn đề, lý tưởng là 15-20 phút
- Tác động cảm xúc: rất quan trọng về thẩm mỹ và đạo đức.

2). Ba bước thực hành Dạy giáo lý bằng phim:
Bước 1: Chuẩn bị cho nhóm trẻ nghe và nhìn: Tạo nên thích thú để xem, để trao đổi và để tranh luận. Hãy giới thiệu vài nét về phim : tựa đề, tác giả, nhà sản xuất, ngày phát hành, mục đích , chủ đề. Hãy mời trẻ lưu ý (chia nhóm) những : tình tiết (cấu trúc), nhân vật, lời nói, âm thanh, hình ảnh.. .
Bước 2: Phản ứng sau khi đã nghe và thấy : Sau khi xem phim lần 1, hãy để thời gian cho trẻ lắng đọng, cảm nhận và nói lên những gì đã nghe và thấy . Xem lần 2, (có thể ghi lại những điều nghe thấy) và nói ra phản ứng tự phát về những cảm xúc hay tình cảm của mình.
Bước 3: Hiểu, cử hành, làm chứng: Đây là bước chính yếu của việc dạy giáo lý. Tuỳ theo loại tài liệu, sẽ có những hướng khác nhau :
Nếu là phim Kinh Thánh: So sánh bản văn Kinh Thánh với cảnh nghe thấy trong phim. Sau khi suy nghĩ, sẽ đến bước tham gia buổi cầu nguyện và thực hành dấn thân trong cuộc sống.
Nếu là phim Chứng nhân đức tin : Hãy mời trẻ suy nghĩ về cách sống đạo mà họ vừa khám phá qua phim ảnh : những nét hay. Học được gì qua chứng từ trên phim ? Có thể diễn tả và thực hiện cách sống mới tốt hơn phim ?
Nếu là phim Phóng sự về một vấn đề, hoàn cảnh ; giai đoạn kế tiếp có thể diễn tả phản ứng từng người và cùng nhau khám phá ra điều cần học tập, sự thay đổi cần thiết như phim đã đề nghị. -
 
Bài 22.  SINH HOẠT GIÁO LÝ
I. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Sinh hoạt Giáo lý là những thể loại hoạt động trong Giáo lý, nhằm chủ đích giúp cho các học viên vận dụng các cơ năng như trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, sáng tạo, khéo léo... để cụ thể hoá bài học, giúp hiểu sâu hơn bài giảng, ghi khắc vào trí nhớ và diễn tả bên ngoài, chứ không không nhằm chủ đích giải trí. SHGL còn giúp cho GLV kiểm điểm hiệu quả giảng dạy và mức độ tiếp thu của học viên.
Vì thế, GLV nên tránh sự lạm dụng, đừng để cho giờ giáo lý quá "vui nhộn" đến nỗi mất tính chất tôn giáo, trang nghiêm, hoặc cứ lo “Sinh hoạt” mà lấn át thời giờ hay quên mất nội dung giảng dạy.
Xin giới thiệu vài thể loại Sinh hoạt Giáo lý nhằm gợi ý và hướng dẫn thực hiện. GLV tuỳ nghi thực tập và ứng dụng vào giờ giáo lý, miễn sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và với chủ đích của bài giáo lý.
II. PHÂN LOẠI
A. Theo tổ chức:
1. Sinh hoạt do một người làm thay cả lớp 
2. Sinh hoạt theo từng nhóm 
3. Sinh hoạt chung cả lớp.

B. Theo thể loại: 
1. Vẽ, cắt dán giấy, làm panô. 
2. Ca Hát, Cử điệu Băng reo 
3. Trò chơi, Đố vui, sưu tầm. 
4. Hoạt cảnh, Kể chuyện. Thảo luận nhóm

C. Theo vị trí và thời gian 
1. Trong lớp, trong giờ giáo lý. 
2. Trong phòng, ngoài giờ giáo lý. 
3. Ở nhà: sưu tầm, phóng sự, tìm tòi...

1. CA HÁT TRONG GIÁO LÝ
1. Giá trị bài hát
Bài hát có thể dùng trong việc giảng dạy như một phương tiện sư phạm sinh động và có hiệu quả cao.
Bài hát có khả năng chuyển tải ý nghĩa một chủ đề giáo dục nhân bản, hoặc một bài Giáo lý.
Bài hát còn nhanh chóng gầy dựng được bầu khí vui tươi cho một tập thể, tránh sự nhàm chán không phân biệt lứa tuổi.
2. Cách chọn bài hát
Bài hát được chọn dùng cần phải : 
Phù hợp với chủ đề cần giới thiệu. 
Phù hợp với lứa tuổi của đối tượng tham dự. 
Phù hợp với loại hình ( Sinh hoạt, Thánh ca)

“ Hãy hát được bài hát ấy một cách thành thạo trước khi tập lại cho người khác. Nếu được, nên thuộc lòng bài hát”.
3. Phương pháp Tập hát
Có nhiều cách, uyển chuyển thay đổi cho phù hợp với từng loại bài, có thể chọn một trong những cách dưới đây hoặc phối hợp chung :
1). Hát trước bài hát ấy 2, 3 lần cho mọi người nghe quen tai. Sau đó tập lại từng câu. 
2). Tập lại từng câu một, đồng thời minh hoạ rõ các cử điệu đi kèm với câu ấy. 
3). Chép trọn vẹn cả bài hát lên bảng. Sau đó tập hát và xoá dần đi từng câu cho đến khi hết bài 
4). Vừa hát vừa giải thích từng câu của bài hát một cách lý thú và sinh động. 
5). Chia phe hát đuổi nếu là các bài hát được sáng tác theo dạng bài canon (Các câu có thể chồng lên nhau mà vẫn khớp về hoà âm và hài thanh)

4. Cách Đánh nhịp 
Chỉ cần giữ nhịp cho rập ràng nhịp nhàng là đủ. 
Nếu là nhịp 2/4 hoặc nhịp 4/4 thì chỉ cần nhịp mạnh đánh xuống và nhịp yếu đánh lên là đủ để giữ nhịp. 
Nhịp 2/4 và 4/4 cũng còn có thể đánh theo dạng đường vòng như số 8 nằm ngang. 
Nếu là nhịp 3/4 thì cứ đánh theo hình Tam giác cân.

2. SÁNG TÁC CỬ ĐIỆU BÀI HÁT
1. Bài hát có Cử điệu
Là bài hát ngắn, có kèm theo các cử chỉ và dáng điệu đơn giản, để diễn tả nội dung từng câu, từng ý trong bài hát.

N.B: Có loại Bài hát suông, Bài hát có vỗ tay, Bài hát có động tác, Bài hát có vũ điệu.
Nhờ các cử điệu, người hát bộc lộ các nhân đức và tâm tình vào bài hát như: xác tín, phó thác, yêu mến, diễn tả lòng tri ân, sự kính trọng, vui tươi, vâng phục, hồn nhiên.. .
2. Chuẩn bị
Về bài hát : chọn bài ngắn, câu cân phương, 4 hoặc 8 câu, có âm vận, ý tứ dễ thương, theo nhịp 2/4 hoặc 3/4 nhẹ nhàng.

Cử điệu kèm theo: Mỗi câu chỉ chọn 1 hoặc 2 cử điệu đơn giản, theo nhịp. Thường sử dụng các ngón tay, bàn tay, cánh tay, phối hợp chân bước nhịp, di chuyển, hài hoà ánh mắt, nét mặt.
Về hình thể: vòng tròn cho sinh hoạt ngoài trời ; bán cung cho nghi thức, cầu nguyện, tĩnh tâm, có thể ngay trong lớp với các bàn ghế ...
Về Linh hoạt viên : nên hát mẫu kèm theo cử điệu mẫu, cách chậm rãi và rõ ràng, sau đó tập nháp và làm chính thức. Có thể giới thiệu sơ về ý nghĩa bài hát trước hoặc đang khi tập.
3. Kỹ thuật diễn xuất
GLV cần có nhiều sáng kiến, biến báo, sâu sắc mới dễ dàng chọn, sáng tác và thể hiện cử điệu đúng ý nghĩa, cân đối, duyên dáng. Cần lưu ý :
1. Thống nhất đầu - cuối: nhanh - chậm, Dí dỏm - Trang trọng, Sôi nổi - Dịu dàng, sao cho hợp với bài hát. Có thể kết hợp tiếng hô - hò - băng reo để tạo bầu khí sinh động.
2. Thống nhất Thứ tự: Trái - Phải : tay trái, chân trái trước, phải làm sau. Thượng - Hạ. Tiền - Hậu, vòng Ngoại - Nội.
3. SÁNG TÁC CÂU HÒ với THƠ LỤC BÁT
Câu hò trong Giáo lý 
Hò là loại hình sinh hoạt rất gần gũi, đơn sơ, rất phổ biến, nhưng lại đầy tính văn hoá và nghệ thuật của dân tộc Việt nam.

Chỉ cần đôi câu Lục “Bát, vài câu Hò” Hụi, khi được một người khởi xướng có thể nhanh chóng gây bầu khí vui tươi, phấn khởi.
Bài giáo lý, Lời Chúa, có thể đúc kết thành đôi câu Lục – Bát, được xướng lên, sẽ giúp học viên ghi nhớ bài học, làm cho bài dạy được sinh động.
2. Luật thơ Lục-Bát 
2 Nguyên tắc Cơ bản:

1). Luật Bằng-Trắc: (B) - (T) 
Thông thường : . . . B . . . T . . . B, 
. . . B . . . T . . . B . . . B.

Tình yêu Thiên Chúa cao vời, 
Hiến ban Con Một, cứu người trần gian

Bất thường : . . . T . . . B . . . B, 
. . . B . . . T . . . B . . . B.

Khi chén rượu, khi cuộc cờ, 
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.

2). Luật gieo vận, một nguyên tắc bắt buộc: 
Từ cuối câu 6 ăn vần với từ thứ 6 của câu 8. 
Từ cuối câu 8, nếu còn câu 6 kế sau, phải ăn vần với từ cuối câu 6 đó.

Là con Chúa cả trên trời, 
Em luôn sống đúng những lời Chúa ban

3. Thực Hiện Câu Hò
1. A li hò lờ:
- Sau câu 6 chữ : Tất cả: “A li hò lờ”
- Đến câu 8 : sau 4 chữ đầu : “A li hò lờ”
- Sau 4 chữ còn lại : vỗ tay theo nhịp, và hò câu: “Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai đang hò lờ, hò lơ, hó lơ”.

Vd : Tình yêu Chúa rất bao la,(Ali) 
Ngài yêu ta trước,( Ali.) khi ta yêu Ngài.(Hò..)

2. Hò Dô Ta:
- Ký hiệu *, thì hô: DÔ TA. 
- Ký hiệu #, thì hát: Dô tà, dô tà là hò dô ta, dô ta.

Vd: Đ èo cao * thì mặc đèo cao *, 
Nhưng lòng ta quyết *, còn cao hơn đèo#.

Lưu ý: Mở đầu bằng câu gọi: “Ơ này anh chị em ơi”,
hay: “Ơ này anh Hai, cô Ba đó ơi” ! để thêm khí thế.

4. TRÒ CHƠI
Trò chơi rất cần thiết trong việc phát triển con người về trí - thể - đức dục. Trò chơi giúp xây dựng bầu khí tươi vui, rèn luyện khéo léo và giáo dục chiều sâu nội tâm. Đối với Giáo lý, trò chơi giúp ghi nhớ nội dung giáo lý.
1. Định nghĩa
Trò chơi là một cuộc vận động sinh hoạt 
- Do một người Tổ chức 
- Cho một số người tham gia 
- Theo một qui ước có hướng dẫn 
- Trong một thời gian nhất định 
- Tại một nơi chốn.

Mục đích là: để đem lại một ý nghĩa riêng cho mỗi người và chung mọi người có mặt.
2. Mục đích yêu cầu trong Giáo lý: Giáo dục chiều sâu 
Yêu cầu này cần thiết phải lộ rõ. Nó góp phần giáo dục:

Về nhân bản: Trò chơi giúp nhận thức kỷ luật tập thể, Tính trung thực trong thi đua. Ứng xử tốt đẹp xã hội; Ý chí cương quyết.
Về thiêng liêng: Trò chơi tôn giáo hình thành ý niệm Thiên Chúa và tha nhân, thêm yêu mến Kinh Thánh, đặc biệt là lời mời gọi của Phúc âm.
3. Điều khiển trò chơi
GLV làm người Quản trò (QT) là người hướng dẫn, điều khiển các trò chơi. Để đạt được thành công, nên cân nhắc chọn lựa trò chơi cho thích hợp với hoàn cảnh, nội dung bài dạy, lứa tuổi và số người tham dự.
Quản Trò tốt luôn thực hiện 4 bước sau: 
1. Chuẩn bị Trò chơi 
Quản Trò cần nghiên cứu kỹ lưỡng: 
Địa điểm tổ chức sinh hoạt. 
Phân công cụ thể. 
Chuẩn bị các dụng cụ chơi cho chu đáo.

2. Hướng dẫn Trò chơi 
Khi người Quản trò hướng dẫn trò chơi cho mọi người, cần chú ý các đìểm sau đây : 
Tất cả phải im lặng chú ý nghe Quản Trò giới thiệu tên Trò chơi, phổ biến các qui ước trong luật chơi.
Quản trò giới thiệu rõ ràng và hấp dẫn, nên có câu chuyện, hoặc câu Lời Chúa để dẫn dụ vào trò chơi. 
Ở từng điểm, nên cẩn thận hỏi lại xem mọi người đã hiểu, đã nắm vững luật chơi chưa. 
Đề nghị chơi thử, xé nháp một hai lần cho chắc chắn, cũng là tạo bầu khí lôi cuốn mọi người vào cuộc chơi.

3. Diễn tiến Trò chơi
Đang khi tiến hành cuộc chơi, người Quản Trò phải chú ý các tính cách sau đây, liên quan đến tâm lý người chơi: 
Quản Trò biết trực tiếp hoà mình một cách nhiệt tình trong trò chơi . 
Luôn nhắc nhở, nêu cao tinh thần tự nguyện tự giác, trung thực. 
QT khéo léo khuyến khích những ai nhút nhát, chưa quen sinh hoạt.

4. Kết thúc Trò chơi
Khi trò chơi chấm dứt, cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây : 
Đừng bao giờ để các em chơi đến mức quá mệt, sinh ra dấu hiệu ngán ngẩm mà vẫn chưa chấm dứt trò chơi. Nên chuyển sang một trò chơi khác, nhẹ nhàng hơn.

Tuyên bố kết quả trò chơi sao cho công bằng, nhưng vẫn không quá chênh lệch giữa đội về nhất và đội về chót, khen người thắng và khuyến khích người chưa thắng.
Cuối cùng, nên vắn tắt nêu ý nghĩa của trò chơi vừa chơi xong, ý nghĩa nhân bản ở đời cũng như ý nghĩa hướng về chủ đề Giáo Lý
Nếu trò chơi cần đến hình phạt, nên chuẩn bị sẵn một số trò chơi phạt dưới hình thức như một phần thưởng đặc biệt hay một màn biểu diễn.
Chú ý: Trò phạt không được hành hạ như một nhục hình, nhưng chỉ cốt gây thêm bầu khí vui ; người bị phạt không thấy ngượng và mặc cảm ; cũng không phạt riêng một người nào đó, nhưng có thêm vài người cùng chịu phạt cho vui và bớt cô đơn.
5. BĂNG REO
Định nghĩa: Băng reo là tập hợp nhiều tiếng reo, thống nhất trong câu nói, cử chỉ, âm thanh, để bộc phát lên thành khẩu hiệu, lời tung hô, quảng cáo, nhằm kích thích sự hăng hái, phấn khởi, làm in sâu vào tâm trí người nghe. 
Công dụng: Để chào mừng, tán thưởng, đổi bầu khí, tập trung chú ý. . .

Vài thể loại:
1. Lặp lại theo người điều khiển, thêm cử điệu:
Vd: ĐK: - Chúa đã về - Tc lặp lại (vỗ tay 3 cái) 
-Trên phố phường - Lặp lại, (bước vào 3 bước.) 
-Trên làng quê - Lặp lại, (bước thêm 3 b.) 
-Trên quê hương VN (nhảy ra 6 bước 9, vung tay, Ah la lên !)

2. Người ĐK chỉ nói 1 câu, Tất cả nói câu khác: 
Vd : ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trong Anh (chỉ vào) 
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trong tôi (chỉ ngực)
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trên trời (chỉ lên) 
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Khắp mọi nơi (xoay) 
Rồi hát bài : Này em, em có biết ...
(Hoặc: Tình yêu Chúa - Tc: cao, sâu, rộng, bao la)

3. Người ĐK nêu nhiều ý, TC chỉ lập lại 1 câu : 
Vd:
 ĐK: Ta vui - Tc: Bên nhau. (vỗ tay**) 
ĐK: Ta múa - Tc: Bên nhau (vỗ lên đùi)
ĐK: Ta hát - Tc: Bên nhau (2 tay lên vai) 
ĐK: Ta ca - Tc: Bên nhau 
(Hát :Tang tang tang tình tang tính...)
(Hoặc : Ai đẹp, vui, hiền, duyên nhất ?: - Tc : Anh A)

4. Người ĐK nêu ý, TC cùng bổ túc ý : 
Vd:
 ĐK: Sống trên đời - Tc: Phải có bạn.(2 tay chữ V) 
ĐK: Không có bạn - Tc: Buồn chết đi (chắp tay) 
ĐK:Nhưng phải chọn- Tc: Bạn tốt (nắm tay) 
Vd : ĐK: Xin cho em-Tc: Là chim (giang tay) 
ĐK: Để em gieo-Tc: Tin mừng (vung gieo) 
ĐK: Để em rắc -Tc: Hoà bình (vỗ tay 2 bên)
ĐK: Để em bay -Tc: Về bên Chúa (vung, chắp)

5. Băng reo “Không lời”: tiếng xì, tiếng vỗ tay,tiếng thú vật . . . 
Người ĐK nâng tay lên, (hoặc cầm một khăn tay), khi đưa lên cao, TC xì lớn, (hoặc vỗ tay lớn), khi hạ thấp thì nhỏ dần, bất chợt, tung khăn lên, thì chấm dứt .

Bài 23.  PHƯƠNG PHÁP DỰ PHÒNG
Nhập: Phương pháp Dự Phòng, hay Hệ thống giáo dục Dự phòng, do thánh Don Boscô, nhà giáo dục đại tài vào thế kỷ thứ 19 (1815-1888) đã để lại cho Giáo Hội, qua Tu hội Salêsien. Phương pháp này có thể ứng dụng thành công trong việc Dạy Giáo lý cho Thanh Thiếu niên.
I. KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP DỰ PHÒNG
1. So sánh 2 phương pháp giáo dục
Trong Giáo dục đào tạo, có 2 phương pháp nổi bật : Đàn áp và Dự Phòng
a). Phương pháp Đàn áp:
Nhằm cho người thụ giáo biết rõ luật lệ, nên giám sát chặt chẽ để phát hiện kẻ phạm pháp, khi cần thì có những hình phạt cân xứng với lỗi phạm.
Phương pháp này giáo dục dễ dàng, ít mệt nhọc, nhanh chóng thiết lập trật tự. Người giáo dục gia tăng uy quyền của người trên, luôn tỏ ra nghiêm nghị, chỉ có mặt đúng lúc để ngăm đe và sửa phạt.
Phương pháp này rất thích hợp trong quân đội và môi trường cải tạo, sự giáo dục nhằm đề cao tính kỷ luật và trật tự.
b). Phương pháp Dự phòng:
Đ ối nghịch phương pháp đàn áp, phương pháp Dự phòng không nhằm mục tiêu là luật lệ, trật tự phải được duy trì bằng bất cứ giá nào, nhưng nhằm sự thăng tiến đích thực của người trẻ.
Phương pháp này được xây dựng trên lý trí, tôn giáo và tình yêu. Phương pháp này loại bỏ mọi thứ hình phạt thô bạo, đánh đập, hăm doạ, tạo sự sợ hãi, xa cách; trái lại, nó đòi hỏi một tình yêu, sự kiên nhẫn và lòng tin tưởng bao dung.
Sự hiện diện thân tình của người giáo dục nhằm soi sáng khả năng suy nghĩ của người thọ giáo, vì trước đó, họ đã chinh phục được các trẻ bằng tình thương và sự tín nhiệm. Đứng trước một người trẻ cụ thể có nhiều hạn chế như: chậm hiểu, mau quên, tự ái, quậy phá.. . họ có mặt để giúp khơi dậy khát vọng hướng thiện, hạn chế khuyết điểm, nhờ đó mà đào tạo được những người trẻ biết suy nghĩ, tự trọng và tiến tới trưởng thành.
2. Nền tảng phương pháp Dự phòng
Don Boscô đã đặt phương pháp nầy trên nền tảng Thiên Chúa là tình thương, được Mạc khải trong Tin mừng của Đức Kitô. Tất cả thái độ giáo dục cần bén rễ sâu vào Đức tin, vào sự suy niệm Phúc âm. Có thể nói: phương pháp giáo dục Dự phòng là phương pháp của Thiên Chúa, là phương pháp giáo dục của Tin mừng.
Việc thực hành phương pháp Dự phòng đều dựa vào những lời của thánh Phaolô: “Tình thương thì nhẫn nại, tình thương thì phục vụ, không ghen tương, không huênh hoang, không kiêu căng, không làm điều xấu, không tìm tư lợi, không bực tức, không để lòng hiềm thù, không vui vì sự bất công, nhưng tìm thấy niềm vui trong chân lý. Tình thương thì tha thứ mọi sự, tin tưởng mọi sự, hi vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự”. (1 Cor 13, 4-7)
3. Ba khía cạnh căn bản của phương pháp Dự phòng:
Tôn trọng sự tự do của người trẻ: sự tự do cần được soi sáng và hướng dẫn. Hệ thống giáo dục này để cho người trẻ cởi mở - triển nở - tự tìm lấy đường hướng tốt - trưởng thành.
Nhìn và hiểu người trẻ trong con người toàn diện: thể lý - tinh thần, vật chất - thiêng liêng ; cá nhân - tập thể và xã hội. Giúp trẻ phát triển đồng bộ mọi chiều kích này.
Thiết lập mối quan hệ trên tình thân ái : Chính tình thân ái giữa nhà giáo dục và người trẻ, là phẩm chất số một của phương pháp. Sự yêu thương thúc đẩy nhà giáo dục dám hi sinh, và nhờ đó, sự hiện diện của họ mới là sự hỗ trợ thân tình cho trẻ. Không có thân tình, sẽ không tạo sự tin tưởng. Không có tin tưởng và tín nhiệm, giáo dục sẽ không đạt kết quả tốt. Muốn được sự tín nhiệm, nhà giáo dục hãy bắt đầu bằng việc tin tưởng các em, thương các em và làm cho các em cảm thấy rằng mình được yêu thương. Đó là bí quyết giáo dục giới trẻ của Don Boscô.
II. ÁP DỤNG VÀO VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Việc áp dụng phương pháp Dự phòng không là đề ra một phương pháp giảng dạy mới trong giờ giáo lý (như Qui nạp, Trực giác, Linh hoạt..), nhưng chỉ đưa ra những gợi ý cho Giáo Lý viên, như là một đường hướng để lồng vào trong bối cảnh, bầu khí và thái độ trong việc Dạy Giáo lý.
1. Xét về Giáo lý viên 
GLV cần đặt mình vào tư cách của nhà giáo dục Kitô hữu, chứ không là giáo viên môn giáo lý. GLV cần thông truyền kiến thức tôn giáo với cả một niềm say mê Thiên Chúa. “Họ thông truyền sự hiện diện đầy tình yêu thương của Chúa bằng chính con người của họ”. (DGL 66).
Với thái độ giáo dục Kitô hữu, thì phong cách cư xử và giảng dạy của GLV đối với học viên sẽ là : tin tưởng, tôn trọng tự do nhân vị, xây dựng tình thân ái, gây tín nhiệm. Tình thương sẽ giúp GLV kiên nhẫn, uyển chuyển, sáng tạo và quan trọng hơn cả : họ chinh phục được cõi lòng của Học viên bằng tình mến Chúa yêu người.
2. Xét về Học viên
Nhờ GLV áp dụng phương pháp Dự phòng, các học viên sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng, vì chính học viên sẽ cảm nghiệm phần nào tình yêu Thiên Chúa qua thái độ và cách cư xử của GLV. Họ cảm thấy mình được tôn trọng, được thông cảm, được nâng đỡ, phát huy.
Học viên cảm thấy mình là một con người hơn, có tự do và nhân cách hơn các lớp học khác...và như thế, việc học sẽ mau tiến bộ hơn, nhất là học viên cảm nghiệm được niềm vui sống như người con Chúa.
3. Xét về bối cảnh lớp Giáo lý
Đó là bầu khí gia đình đầm ấm, sinh hoạt vui tươi, nhờ vào tương quan tôn trọng, tin tưởng, thân ái, gần gũi của GLV đối với học viên. Việc học giáo lý cũng dễ dàng kết hợp với những hoạt động ngoài giờ giáo lý, như vui chơi, giải trí, cắm trại... hầu đưa Tin mừng vào cuộc sống cụ thể hàng ngày, nhằm phát triển nhân cách và trưởng thành đức tin.
Phương pháp Dự phòng còn giúp cho GLV hiện diện tích cực và hỗ trợ với các học viên, gọi là sự “Hộ trực”. Sự hiện diện này thể hiện cách sinh động trong giờ giáo lý, và còn trải dài cả ngoài giờ lớp giáo lý, như môi trường gia đình, trường học, khu xóm, bạn bè... GLV tiếp tục quan tâm, theo dõi việc học, tiếp thu ý kiến, tạo điều kiện giúp các em nghèo, yếu kém, quậy phá... để hướng dẫn, sửa bảo các em trong lãnh vực nhân bản và đức tin.
 
Bài 24.  PHƯƠNG PHÁP NĂNG ĐỘNG NHÓM
HỌP NHÓM và HỘI THẢO
Phương pháp Năng động Nhóm : là những phương thế, kỹ thuật tân thời, nhằm gia tăng hiệu năng làm việc của mỗi thành viên trong nhóm. Phương pháp này đặt nền tảng trên lòng kính trọng con người và sự chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên của nhóm.
Mục đích của Năng động nhóm : nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tích cực tham gia học hỏi, tìm hiểu. Qua năng động nhóm, mối quan hệ giữa người và người được thiết lập, sẽ giúp nhau trau dồi kiến thức và còn làm cho mỗi thành viên được chuyển biến sâu xa nơi tâm hồn. Phương pháp này thích hợp cho Lớp Giáo lý Thanh niên, người lớn.
Lợi ích của Năng động nhóm:
Tạo cơ hội để “Tập nghệ thuật lắng nghe”. Nghe gì, nghe ai, nghe thế nào, nghe để làm gì ? Nghe để hiểu người, nghe với hết con tim và con người mình. Châm ngôn: “Lòng ta nghe ý bạn”Tạo cơ hội để “Tập phát biểu”, từ suy nghĩ đến phát biểu thành lời là quá trình không luôn dễ dàng đâu ! Nhờ năng động nhóm, ta nỗ lực phát huy sức mạnh, tự khẳng định mình, tìm cơ hội để phát biểu.
Tạo cơ hội để “Thực sự gặp nhau”: Khi lột bỏ mặt nạ, cởi mở giao tiếp trực tiếp với các thành viên khác, ta tự “biết mình”, “biết người” chung quanh ta, để nhờ đó có một chuyển biến sâu xa hơn.
I. HỌP NHÓM
Đ ây là phương pháp thỉnh thoảng áp dụng dạy Giáo lý cho tuổi Thanh thiếu niên, khi có những đề tài cụ thể, gần gũi với các em.
1. CÁCH THỨC. GLV giới thiệu đề tài Giáo lý, nêu lên vấn đề dưới hình thức đặt câu hỏi thảo luận. Kế đến, lớp chia ra thành những nhóm nhỏ 7-8 em, cùng nhau suy nghĩ, trao đổi, ghi lại trên giấy. Sau đó, các nhóm họp chung, báo cáo kết quả nhóm mình. Đến phần thảo luận chung, GLV tổng hợp, làm nổi bật ý kiến hay, bổ túc và đưa ra dái pháp chung cuộc về vấn đề đã thảo luận.
2. KẾT QUẢ cuộc Họp Nhóm tuỳ thuộc 2 yếu tố: 
Sự đóng góp tích cực và thành thực của mỗi thành viên trong nhóm. 
Sự hướng dẫn khéo léo và đúc kết chính xác của GLV.

3. DIỄN TIẾN phương pháp Họp Nhóm.
Bườc I. Giới thiệu đề tài và đặt câu hỏi.
GLV khởi điểm bài Giáo lý bằng một đoạn Kinh Thánh, hoặc một sự kiện, một trường hợp. Từ đó, nêu lên một thắc mắc, một vấn đề để suy nghĩ, thảo luận, tìm ra giải đáp. Mục đích của phần nầy là gây ấn tượng.
Muốn gây ấn tượng, gây phản ứng, cần đặt câu hỏi dưới nhiều hình thức mới lạ, sắc bén, đôi khi bi thảm... Có thể đặt vấn đề bằng lời, chữ viết, tranh vẽ, trang báo... nhưng tất cả phải có khả năng gợi ý hướng về nội dung tôn giáo và đưa đến một giải đáp.
Bước II. Họp Nhóm nhỏ
Chia từng nhóm nhỏ để mọi người có thể : hiểu vấn đề, phát biểu ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra. Việc trao đổi nhóm còn nhằm tiếp thu các ý kiến và chuẩn bị cho phần thảo luận chung.
Đ iều quan trọng trong việc trao đổi nhóm, là mọi người đểu cởi mở phát biểu ý kiến, chú trọng và lắng nghe người khác, cho dù có vài điều mình không đồng ý. Đây chưa phải là lúc đối chiếu quan điểm.
Mỗi nhóm, chọn ra một trưởng nhóm, giữ vai trò Linh hoạt và điều hành. Trưởng nhóm biết gợi câu hỏi, mời phát biểu, biết tóm ý kiến chính xác và ngắn gọn. Cần có 1 thư ký để ghi lại những ý kiến đã phát biểu và tổng hợp để tường trình trong phần Họp chung.
Bước III . Họp Chung.
Tường trình : Thư ký mỗi nhóm sẽ tường trình cho cả lớp biết kết quả trao đổi của nhóm mình. Việc tường trình theo 2 qui luật : 
- Tường trình theo thứ tự: 
- Tình hình chung của cuộc trao đổi. 
- Những điểm đã đề cập tới. 
- Các ý kiến phân làm mấy loại, tóm từng loại. 
- Những điều nổi bật đáng chú ý trong cuộc trao đổi. 
- Người tường trình sau: Không cần nhắc lại những điều nhóm trước đã trình bày. Nên theo thứ tự: 
- Nhóm tôi đồng ý với các nhóm trước về điểm này... 
- Xin bổ túc thêm về điểm này... 
- Có quan niệm khác, hoặc ngược lại về điểm này .. .

Thảo luận chung: GLV nên ghi lại trên bảng theo từng loại : những ý kiến thuận rộng rãi, những ý mơ hồ cần suy nghĩ thêm, những ý kiến còn khác biệt. Rồi mời tất cả thảo luận.
GLV cần làm 4 việc: 
- Đào sâu nỗ lực suy nghĩ, tìm hiểu của học viên.
- Xác định và chấp nhận những ý kiến đúng . 
- Lưu ý về những điều chưa ai để ý tới. 
- Đúc kết tất cả thành công thức ngắn gọn.

Bước IV. Đúc kết.
Khi thảo luận xong, GLV tổng hợp các ý kiến cách mạch lạc, đánh giá những ý kiến, làm nổi bật những ý kiến góp phần giải đáp, rồi cuối cùng : tóm lược giải đáp, rút ra bài học bằng một câu ngắn gọn.
4. VÀI QUI LUẬT 
Cuộc thảo luận lúc họp dễ gây rối loạn, lạc đề, đôi khi vượt ngoài khả năng hiểu biết và tự chủ, GLV cần áp dụng vài kỷ luật cho mọi người:
1). Trước khi phát biểu, phải suy nghĩ kỹ về quan điểm của mình và tìm cách phát biểu ngắn nhất, rõ ràng nhất.
2). Không được cắt ngang lời người đang nói, cần chờ đợi họ nói xong.
3). Trước khi nhận định về ý kiến của ai, ta cần yêu cầu người đó giải thích rõ ràng ý kiến của họ.
4). Khi các ý kiến đưa ra mơ hồ, GLV cần yêu cầu người phát biểu giải thích và trưng dẫn bằng chứng, sự kiện hoặc ví dụ cụ thể.
Phương pháp Họp nhóm rất khó, nó đòi hỏi sự trưởng thành suy luận và kỷ luật tự phát nơi học viên. Cần phải dày công huấn luyện mới đạt.
II. HỘI THẢO
1. HÌNH THỨC: có nhiều hình thức hội thảo, ở đây chỉ nói đến hình thức đơn giản và thông dụng gọi là “Panel”. Hội thảo là hình thức trao đổi của một nhóm hội thảo viên trước một cử toạ về những cảm nghĩ, quan điểm, kinh nghiệm bản thân về một vấn đề nào đó. Quan điểm của mình được đối chiếu với quan điểm của những người khác.
2. ĐIỀU KIỆN cần có để thành cuộc hội thảo:
Có nhiều quan điểm khác nhau về một vấn đề, nhưng phải có lý và có thể chấp nhận được.
Các hội thảo viên là những người có chủ trương và đã hành động theo quan điểm đó.
Cử toạ có thể phát biểu cảm nghĩ của mình, và dựa vào các quan điểm trình bày, có thể duyệt lại quan điểm riêng.
3. ÁP DỤNG vào Giáo lý.
Trong giáo lý, Hội thảo là cơ hội đối chiếu các quan điểm sống đạo khác nhau, và còn là phương thế loan truyền Tin Mừng đích thực.
Tuy cùng chấp nhận một đức tin giống nhau, nhưng khi áp dụng Lời Chúa và sống đức tin trong hoàn cảnh khác nhau, nên mọi người có sự lựa chọn và thái độ khác nhau, vì thế cần đối chiếu quan điểm.
Nhờ đối chiếu các quan điểm khác nhau, mỗi người có thể duyệt lại các quan điểm của mình, xem có hợp lý và đứng vững không, sẽ đưa đến sáng suốt và xác tín hơn về sự lựa chọn của mình.
Hội thảo còn là dịp thuận lợi để mỗi người rèn luyện thái độ lắng nghe, hiểu nhau, chấp nhận sự khác biệt và tôn trọng lẫn nhau. Giúp cho hiểu và sống Tin Mừng cách sâu sắc...
4. DIỄN TIẾN cuộc Hội thảo.
1). Khởi đầu
Cần chuẩn bị trước vài tuần cho các hội thảo viên được tuyển lựa: Giúp hiểu cách thức và diễn tiến hội thảo, giải thích đại cương đề tài hội thảo. Mỗi người có thể hỏi ý kiến cha mẹ, thầy, bạn, sách ... Cần chú trọng 3 điểm: 
- Hiểu rõ đề tài và vấn đề đưa ra. 
- Xác định quan điểm riêng của mình về vấn đề này. 
- Tìm lý lẽ bênh vực, tìm ví dụ cụ thể để biện hộ chọn lựa.

2). Bố trí phòng hội thảo.
Số hội thảo viên có thể từ 4 đến 10, lý tưởng là từ 6 đến 8, nhằm đủ đối thoại và muốn có nhiều ý kiến khác nhau.
Bố trí vị trí: Hội thảo viên xếp ghế ngồi 2 bên hơi xéo, để có thể nhìn thấy nhau, GLV làm hướng dẫn viên ngồi ở giữa, đối diện với cử toạ.
3). Vai trò của GLV làm Hướng dẫn viên, điều phối chương trình.
GLV tạo cơ hội cho mọi người phát biểu, yêu cầu giải thích thêm hoặc đưa ra bằng chứng. GLV hướng cuộc thảo luận về những điểm mới.
4). Chia giờ trong cuộc hội thảo.  
- Hướng dẫn viên trình bày vấn đề: 5 
- Thảo luận giữa các Hội thảo viên: 30
- Cử toạ đặt câu hỏi với Hội thảo viên:20
- Hướng dẫn viên kết luận: 5

Phần kết thúc, GLV chú trọng 2 điểm: 
Nhận định về mỗi lập trường đã được trình bày: giá trị và giới hạn.
Làm nổi bật lý do biện minh và chân lý đức tin làm nền tảng lập trường.

http://giaophanvinhlong.net/Sach-Su-Pham-Giao-Ly.html


PHẦN I: GIÁO LÝ - SƯ PHẠM GIÁO LÝ