Lữ hành và sứ giả của niềm hy vọng - Tưởng nhớ Đức cố Giáo hoàng Phanxicô

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP
09/05/2025
41
Đức Thánh Cha Phanxicô băng hà trong năm Toàn xá 2025, được ngài đặt phương châm là “Lữ hành của niềm hy vọng”. Hy vọng là một đề tài được ngài đề cập vào nhiều cơ hội khác nhau, mà Nhà xuất bản Vatican thu thập thành một tập sách phát hành hồi cuối năm 2024 dưới tựa đề: “Hy vọng, ánh sáng giữa đêm tối”. Hy vọng cũng trở thành tựa đề của cuốn tự truyện xuất bản tại Italia và nhiều quốc gia trên thế giới hồi đầu năm 2025.


Phan Tấn Thành


Dẫn nhập


I. Khái niệm

A) Hy vọng, một tâm tình tự nhiên: 1) bản chất; 2) chí khí; 3) nguyên nhân và động lực; 4) tầm quan trọng trong cuộc sống

B) Hy vọng, một nhân đức hướng Chúa: 1) bản chất; 2) vài đặc tính

II. Lữ hành hy vọng

III. Thừa sai hy vọng


---------------------

Dẫn nhập


Đức Thánh Cha Phanxicô băng hà trong năm Toàn xá 2025, được ngài đặt phương châm là “Lữ hành của niềm hy vọng”1 . Hy vọng là một đề tài được ngài đề cập vào nhiều cơ hội khác nhau, mà Nhà xuất bản Vatican thu thập thành một tập sách phát hành hồi cuối năm 2024 dưới tựa đề: “Hy vọng, ánh sáng giữa đêm tối”. Hy vọng cũng trở thành tựa đề của cuốn tự truyện xuất bản tại Italia và nhiều quốc gia trên thế giới hồi đầu năm 2025. Trước đó ngài đã dành một loạt bài huấn giáo thứ tư hàng tuần (38 bài, từ ngày 7-12-2016 đến ngày 25-10-2017) để giải thích nhân đức “tí hon” này (một tên gọi do Charles Péguy đặt ra, vì muốn nói đến sự chèn ép bởi hai bà chị là đức tin và đức mến2). Trong bài viết này, sau khi ôn lại khái niệm về hy vọng, chúng tôi xin dừng lại ở hai đề tài “lữ hành” và “chứng tá” hy vọng, dựa theo sứ điệp Mùa Chay năm 2025 “Chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong hy vọng” (được công bố ngày 25-2-2025 ) và sứ điêp ngày truyền giáo năm 2025 “Những nhà thừa sai của niềm hy vọng giữa các dân tộc” (được công bố ngày 6-2-2025 ).


I. Khái niệm về hy vọng


Hy vọng là gì? Theo ông Lê Gia, “hy vọng” là ngóng trông, mong chờ, trông mong. “Hy” là ít, thưa, hiếm; “Vọng” là trông chờ, trông ngóng, ngóng nhìn.3 Có lẽ bởi vì “hy là hiếm” cho nên chúng ta ít khi gặp nó; nhưng “vọng” thì được ghép với rất nhiều từ khác nhau, chẳng hạn như: nguyện vọng, ước vọng, kỳ vọng, vọng cổ (trông ngóng, tưởng nhớ tới những cái xưa); ảo vọng (hy vọng không có thật); thất vọng (mất lòng trông mong; trông mong mà không được).


“Hy vọng” là một từ ngữ gốc Hán; còn trong tiếng Việt, chúng ta gặp thấy một từ ngữ tương đương là “trông mong”. Nên lưu ý: “trông” liên quan đến việc nhìn (trông ngóng, trông nhìn, trông chờ); còn “mong” thì liên quan đến một mơ ước; mong đợi: chờ đợi ước mơ.4


Trong thần học Kitô giáo, có hai lối tiếp cận đề tài hy vọng: một đàng xét như là một tâm tình tự nhiên, một đàng xét như là một nhân đức hướng Chúa. Trong tiếng Pháp, có sự phân biệt rõ rệt giữa hai khía cạnh ấy: espoir (tâm tình tự nhiên) và espérance (nhân đức trông cậy).


A. Hy vọng, một tâm tình tự nhiên


Những nhận xét sơ khởi này giúp chúng ta đi vào bản chất của hy vọng, dựa theo sự phân tích của thánh Tôma Aquinô5 .


1/ Bản chất của hy vọng


Hy vọng bao hàm lòng ước ao một điều gì sẽ đến. Nó hướng về tương lai (nghĩa là về điều chưa đến, chứ không phải điều đã hoặc đang xảy ra rồi). Trên thực tế, đối với những gì sẽ đến, chúng ta không chỉ hy vọng mà đôi khi còn lo lắng sợ hãi nữa. Như vậy hiểu ngậm rằng tương lai có thể mang lại điều lành hoặc điều dữ. Ta chỉ trông mong điều lành, chứ không trông mong điều dữ (hoặc nói chính xác hơn: mong sao điều dữ đừng đến). Một sinh viên mong thi đậu chứ không đời nào lại mong thi rớt (trừ khi nào việc thi rớt có thể mang lại một cái lợi nào đó, chẳng hạn như anh sẽ tiếp tục được bố mẹ cấp tiền thêm một năm nữa thay vì bắt đi làm)! Người nông dân mong cho mưa thuận gió hoà, chứ không mong hạn hán hoặc bão táp.


Để có một khái niệm đầy đủ hơn về hy vọng, ngoài yếu tố “điều tốt trong tương lai”, ta cần thêm một yếu tố nữa, đó là “cam go”, nghĩa là kèm theo những khó khăn, rủi ro. Hy vọng là: lòng ước mong đạt được một điều tốt lành cam go. Thực vậy, cũng như ta không trông mong điều gì đang nằm trong tầm tay rồi, thì ta cũng chẳng trông mong điều gì đương nhiên sẽ xảy ra (tôi không mong ngày mai mặt trời sẽ mọc, trừ khi nào miền đất của tôi đang bị cơn bão hoành hành cả tuần nay). Ngoài ra, ta trông mong điều gì có thể đạt được, chứ điều gì không đạt được (chẳng hạn như lên cung trăng) thì ta chẳng trông mong: nếu khó quá thì ta đành rút lui; ngược lại, nếu ta không đạt được điều trông mong thì ta sẽ rơi vào tuyệt vọng.
Tuy rằng chúng ta đang phân tích những cảm nghiệm của con người, nhưng có lẽ không sợ sai lầm khi áp dụng những suy nghĩ này cho cả loài động vật nữa: quan sát những loài vật sống chung quanh ta, ta có thể nói được rằng chúng cũng có những ước mong, thèm thuồng. Có lẽ chúng không có ý thức về hiện tại hoặc tương lai, nhưng chúng có thể lượng định cái gì có thể đạt được; nếu không thì chúng “bỏ cuộc”. Như vậy, dưới một phương diện nào đó, hy vọng là một tâm trạng chung cho loài người và loài vật; tuy nhiên, cần phải thêm rằng ở nơi con người, lòng trông mong mang vài sắc thái riêng biệt.


2/ Hy vọng và chí khí


Thật vậy, tuy con người cũng có những cảm xúc giống như các động vật (yêu, ghét, vui, buồn, sợ, mong, giận...), nhưng con người có thể điều khiển các cảm xúc ấy nhờ lý trí và ý chí. Đối với sự “trông mong” cũng vậy. Con người không chỉ dùng lý trí để phân tích những lý do khiến cho mình trông mong, mà còn có thể gợi lên niềm trông mong, đặc biệt nhờ sức mạnh của ý chí. Như vậy, nơi con người, sự trông mong (hy vọng) không chỉ là một cảm xúc do bản năng mà còn là một hành vi của ý muốn tự do.


Từ đó, ta có thể nói đến những hy vọng “lớn” hay “nhỏ”. Tính cách lớn nhỏ này được đo lường bởi sự cam go của nó. Ai có chí lớn thì mới dám hy vọng làm những chuyện khó khăn mà những người khác không dám làm. Dưới khía cạnh tâm lý, tất cả những người như thế đều đáng được gọi là “can đảm, to gan”; nhưng dưới khía cạnh luân lý, thì “hy vọng” chỉ đáng mang danh là “nhân đức” khi đối tượng của nó là điều tốt. Thật vậy, những tay giang hồ, đứng đầu các đảng cướp hoặc tổ chức buôn lậu quốc tế đều đáng mang danh là “to gan” bởi vì họ dám thách thức đương đầu với các lực lượng an ninh, và nếu cần cũng sẵn sàng liều mạng để bảo toàn kế hoạch của mình. Có lẽ chúng ta thán phục sự táo bạo của họ, nhưng không ca ngợi họ. Nhưng nếu thay vì sử dụng tài năng vào chuyện bất lương, họ chuyển sang việc phục vụ những kẻ cô thân cô thế, thì đáng gọi là anh hùng.


Để dám làm những chuyện cam go, người có lòng hy vọng cần được trang bị với nhiều đức tính, được thánh Tôma gắn với nhân đức can đảm, chẳng hạn như: độ lượng (magnanimitas), hào hiệp (magnificentia) dám nhìn xa trông rộng, thiết lập những dự án lớn lao; họ là những con người tự tín, tuy vẫn khiêm tốn. Ngoài ra, để hoàn thành những kế hoạch lớn lao, cần có đức nhẫn nại (patientia), bền chí (perseverantia).


3/ Những nguyên nhân và động lực của hy vọng


Từ những nhận xét vừa rồi, ta có thể kết luận được rằng ai cũng có những ước mơ, nhưng không phải ai cũng có hy vọng. Ước mơ là một cảm xúc tự nhiên, còn hy vọng đòi hỏi sự rèn luyện ý chí để vượt qua những trở ngại. Trở ngại càng lớn thì càng đòi hỏi ý chí vững mạnh.


Điều gì làm cho ta hy vọng? Đâu là những nguyên nhân của hy vọng?


Có thể có nhiều câu trả lời. Một người dám hy vọng vì họ bạo dạn, dám liều. Nhưng bên cạnh yếu tố ý chí, thiết tưởng không nên bỏ qua yếu tố lý trí, nghĩa là sự hiểu biết: biết người biết mình. Ở đây, ta nên hiểu sự hiểu biết theo nghĩa thực tiễn chứ không chỉ hiểu biết thuần lý. Nói cách khác, người hiểu biết nhiều là người từng trải, người có nhiều kinh nghiệm.


(a) Liên quan đến kinh nghiệm, thánh Tôma đưa ra nhận xét thú vị.6 Kinh nghiệm giúp ta tăng thêm khả năng hy vọng, bởi vì nhờ đã quen thuộc công việc cho nên ta dễ nắm chắc kết quả hơn. Nhưng đừng quên rằng nhận xét này chỉ có tính tương đối mà thôi. Kinh nghiệm có thể khiến ta chùn bước, nhất là kinh nghiệm về sự thất bại trong quá khứ. Mặt khác, mặc dù ít kinh nghiệm, nhưng nói chung người trẻ mang nhiều hy vọng hơn người già. Điều này không khó giải thích: người trẻ mang nhiều hy vọng bởi vì họ sống hướng về tương lai, hơn là hướng về quá khứ; ngoài ra, giới trẻ cảm thấy trong mình nhiều nghị lực, vì thế họ dám liều (mặc dù thứ liều lĩnh này đôi khi cũng được ví như người điếc không sợ súng).


(b) Thí dụ về người trẻ cho ta thấy rằng bên cạnh yếu tố hiểu biết (kinh nghiệm), còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng đó là sức mạnh. Ở đây, sức mạnh được hiểu về vật lý cũng như về tinh thần. Hơn thế nữa, sức mạnh có thể là nội tại (nằm bên trong chủ thể) hoặc ngoại tại (ở bên ngoài chủ thể): ta có thể hy vọng vì biết mình có sức vượt qua trở ngại này, hoặc cậy nhờ vào một quyền lực ở bên ngoài. Có lẽ vì hiểu theo nghĩa này cho nên người xưa dịch spes là “trông cậy”, nghĩa là dựa trên thế lực của ai đó, như thành ngữ có câu “chó cậy nhà, gà cậy vườn”. Sự phân biệt này quan trọng đối với lãnh vực tôn giáo mà chúng ta đang bàn. Con người có thể “cậy sức mình” (dựa vào khả năng của mình) hoặc là “cậy vào Chúa”.7 Sự nương tựa vào Thiên Chúa được đặt ra cách riêng khi con người phải đối diện với những trở ngại vượt quá sức lực tự nhiên: trên đời này, ai cũng đã từng trải qua những lúc mà mình cảm thấy bất lực, bó tay, và chỉ còn biết nương tựa vào sức mạnh từ trời (chẳng hạn một cơn bệnh thập tử nhất sinh). Nhưng bên cạnh vài tình huống đặc biệt ấy, ta phải nhìn nhận rằng có vài đối tượng hoàn toàn vượt lên trên khả năng của con người, chẳng hạn sự sống vĩnh cửu, đang khi con người mang thân phận phải chết. Chính đây là lúc cần đến đức “hy vọng” (đức cậy), một nhân đức siêu nhiên do chính Chúa ban.


Tóm lại, qua những phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng hy vọng bao hàm nhiều yếu tố:


- Nó có thể ám chỉ một tâm trạng khi hướng về tương lai: ước mong đạt được điều tốt cam go. Có thể nói được rằng đây là một tâm trạng do bản năng tự nhiên.


- Bản năng này có thể được điều khiển nhờ lý trí và ý chí; từ đó hy vọng có thể được tập luyện nhờ sự thực hành các nhân đức như: khôn ngoan, can đảm, kiên trì.


- Trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hy vọng, ta có thể kể đến: sự hiểu biết (kinh nghiệm) và nghị lực. Nghị lực này có thể nội tại hoặc ngoại tại, nghĩa là ở trong ta, hoặc nhờ sự trợ giúp bên ngoài.


Chúng ta đã phân tích những khía cạnh khác nhau của hy vọng. Hy vọng là một tâm tình tự nhiên của con người. Chúng ta hãy đi thêm một bước nữa để nhận biết tầm quan trọng của nó trong đời sống con người.


4/ Hy vọng trong cuộc sống


(a) Hy vọng cần thiết cho cuộc sống. Hy vọng mang lại nghị lực cho hành động, sự kiên trì trong khi gặp gian truân (vì biết rằng sau cơn mưa trời lại sáng), hân hoan hướng về tương lai (ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay). Chúng ta tạm gọi đó là những hiệu quả của hy vọng cho cuộc sống. Chừng nào thiếu nó, ta mới cảm thấy sự cần thiết. Người thiếu hy vọng (hoặc thất vọng) dễ đâm ra bi quan, yếm thế, chán nản, có thái độ buông xuôi. Tệ hơn nữa, sự tuyệt vọng vì không còn thấy lý lẽ cuộc sống có thể dẫn đến tự vẫn.


(b) Hy vọng không chỉ cần thiết cho cuộc sống mà thôi; theo vài triết gia, hy vọng là một yếu tố cấu thành đời sống con người, gắn liền với bản tính con người. Hy vọng định nghĩa con người. Thật vậy, để trả lời câu hỏi: Con người là gì? Các triết gia đã đưa ra nhiều yếu tố khác nhau định nghĩa bản tính con người, cách riêng để phân biệt với loài động vật.


- Thời xưa, ông Aristote định nghĩa con người là “động vật có lý trí” (animal rationale): lý trí chỉ dẫn cho con người biết cái gì hữu ích và cái gì có hại, điều gì phải và điều gì trái. Một cách tương tự như vậy, Pascal định nghĩa con người là “cây sậy biết tư duy”. Vào thời cận đại, với sự ra đời của các ngành nhân văn, nhiều định nghĩa khác được đưa ra, chẳng hạn như Homo sapiens (con người tinh khôn), Homo faber (con người lao động), để đánh dấu mức độ tiến hóa so với các loài linh trưởng khác.


- Những định nghĩa trên đây mang đặc tính siêu hình: nhấn mạnh đến lý trí như yếu tố cấu tạo bản tính con người. Trong viễn tượng ấy, hy vọng không được nhắc đến. Sang thế kỷ XX, do ảnh hưởng của trào lưu hiện sinh, con người được nhìn dưới khía cạnh sinh động của cuộc sống, vì thế quan niệm đã thay đổi. Theo triết gia Gabriel Marcel, hy vọng là một nhân tố cấu thành cuộc sống con người, bởi vì ông định nghĩa con người là homo viator:8 con người mang thân phận lữ hành. Có lẽ định nghĩa này không mang màu sắc thuần tuý triết học, nhưng phản ánh mặc khải Kitô giáo: cuộc đời này là một cuộc lữ hành đức tin tiến về quê hương trên trời. Thử hỏi: đối với một người không có đức tin, thì câu định nghĩa ấy có ý nghĩa gì không? Thiết tưởng, ta có thể giải thích theo một nghĩa khác. Tuy không thể nhất thiết khẳng định rằng con người hướng về Thiên Chúa, nhưng một điều không thể chối cãi được là con người luôn hướng về tương lai. Trên đây, chúng ta đã nói rằng loài vật cũng trông mong cái gì đó sẽ đến, nhưng chúng ta không thể nói được rằng chúng có ý thức về tương lai. Nhờ lý trí, con người mới biết đo lường thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Hơn thế nữa, con người không chỉ đón chờ điều sẽ đến, nhưng còn dám dự phóng tương lai, đưa ra những kế hoạch sẽ được thực hiện. Con người không chỉ sống cho khoảnh khắc hiện tại, nhưng còn chuẩn bị cho tương lai nữa. Con người không an phận với hiện tại, nhưng muốn cải thiện hiện tại, mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn. Cái gì là động lực cho những dự án, những kế hoạch, những công trình, nếu không phải là hy vọng? Hy vọng nằm trong bản tính con người, bởi vì con người hướng về tương lai, biết thiết lập kế hoạch cho cuộc đời.


(c) Bước sang phạm vi tôn giáo, chỗ đứng của hy vọng càng cao hơn nữa. Đối với triết gia Immanuel Kant,9 hy vọng làm nên lý do hiện hữu của tôn giáo. Theo ông, có ba câu hỏi căn bản của con người, từ đó nảy ra ba môn học để giải thích: Tôi có thể biết cái gì? Tôi phải làm điều gì? Tôi có thể hy vọng điều gì? Triết học trả lời câu hỏi thứ nhất; luân lý trả lời câu hỏi thứ hai; tôn giáo trả lời câu hỏi thứ ba.


Có lẽ không phải mọi người đều đồng ý với ông Kant. Nhưng điều không thể chối được là con người chạy đến tôn giáo để tìm lời giải đáp cho các vấn đề liên quan đến niềm hy vọng của họ, như công đồng Vaticanô II đã nhìn nhận trong Tuyên ngôn về mối liên lạc giữa Hội thánh và các tôn giáo (số 1): “Con người là gì? Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và mục đích gì? Sự thiện và tội lỗi là chi? Đau khổ có nguyên nhân và mục đích nào? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực? Phải hiểu thế nào về cái chết, sự phán xét và thưởng phạt sau khi chết? Sau cùng, huyền nhiệm tối hậu và khôn tả bao trùm cuộc sống chúng ta là chi, chúng ta xuất phát từ đâu và chúng ta hướng đi đâu?”. Những câu hỏi này không chỉ nhằm thỏa mãn óc tò mò muốn hiểu biết, nhưng còn định hướng tất cả cuộc đời và hoạt động của con người. Vì thế mà thánh Phêrô đã mời gọi các tín hữu hãy luôn sẵn sàng để trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng của mình (1Pr 3,15).


B. Hy vọng, một nhân đức hướng Chúa


Trong thần học công giáo, hy vọng còn là một nhân đức hướng Chúa, một trong bộ ba “tin – cậy – mến”. Tuy nhiên, chúng tôi thích gọi là “đức hy vọng” hơn là đức cậy, bởi vì “cậy” thường mang nghĩa tiêu cực (chẳng hạn trong tục ngữ “chó cậy nhà, nhà cậy vườn”, hoặc “cậy thần cậy thế”). Chúng ta hãy ôn lại bản chất và những đặc tính của nhân đức này.


1/ Bản chất của đức hy vọng


Trước khi đi vào chi tiết, thiết tưởng cần nhắc lại rằng bộ ba “tin-cậy-mến” gắn bó mật thiết với nhau. Chúng ta phân tích để tìm hiểu bản chất của từng nhân đức, nhưng trên thực tế, chúng không thể tách rời nhau. Mối liên hệ giữa bộ ba không những được thánh Phaolô nhấn mạnh ở cuối bài ca đức mến trong chương 13 của thư thứ nhất gửi Côrintô, mà ngay từ trong phần chính, tác giả đã viết: “đức mến tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả” (1Cr 13,7). Sự liên hệ giữa tin và cậy cũng được nói nhiều trong Kinh thánh. Trong Cựu ước, tin được diễn tả bằng hai từ ngữ aman và batah, hàm ngụ ý tưởng “tín thác, tin tưởng”, gần giống tiếng Việt. Cách riêng, trong Tân ước, tác giả thư Hípri định nghĩa bản chất đức tin là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hr 11,1). Những điều hy vọng (đối tượng của đức cậy) cũng trùng hợp với đối tượng của đức tin. Chúng ta tin vào những điều mà ta hy vọng, vào những điều Chúa hứa ban. Tác giả đã trưng dẫn rất nhiều tấm gương của các tổ phụ đã làm chứng cho niềm tin vào lời hứa (11,4-40). Niềm hy vọng là đối tượng của việc tuyên xưng (10,23). Tư tưởng này cũng được gặp thấy nơi nhiều đoạn văn của thánh Phaolô, chẳng hạn như trong thư gửi Rôma (8,24-25): “Quả thế chúng ta được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa; vì ai lại trông mong điều đã thấy rồi?” Ông Abraham tổ phụ đức tin cũng là gương mẫu cho đức cậy “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18: “contra spem in spem credidit”). Thánh Phêrô cũng mời gọi các tín hữu hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình (1Pr 3,15), tức là đối tượng của niềm tin.


Về bản chất của đức hy vọng, ta có thể tìm thấy hai câu định nghĩa trong sách Gíao Lý Hội thánh Công Gíao . Câu định nghĩa thứ nhất ở số 1817: “Đức cậy là nhân đức hướng Chúa, nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Thánh Linh, chứ không vào sức mạnh của chúng ta”.


Câu định nghĩa vừa rồi cho thấy bản chất đức hy vọng ở thế “tĩnh”. Số 2090 cung cấp một định nghĩa theo khía cạnh “động” (nghĩa là nguồn gốc và động lực) như sau: “Khi Thiên Chúa mạc khải và kêu gọi con người, con người không thể đáp lại trọn vẹn tình yêu thần linh bằng sức riêng mình. Họ phải trông cậy, Thiên Chúa sẽ ban cho họ khả năng để yêu lại Ngài và khả năng để hành động theo các giới răn của đức mến. Đức cậy là sự mong đợi đầy tin tưởng sự chúc lành của Thiên Chúa và sự vinh phúc hưởng kiến Thiên Chúa; đức cậy cũng là việc sợ xúc phạm đến tình yêu của Thiên Chúa và sợ bị trừng phạt”.


Qua hai câu định nghĩa ấy, chúng ta có thể vạch ra vài nét chính sau đây của đức hy vọng:


a) Hy vọng nằm trong bản tính con người, vốn hướng về tương lai nhiều hơn là an thân với quá khứ và hiện tại. Ai cũng mong rằng “ngày mai sẽ tươi sáng hơn”. Cách riêng, con người khát mong hạnh phúc. Con người không chỉ mơ ước hạnh phúc mà còn cố gắng cải thiện điều kiện sinh hoạt để sống hạnh phúc hơn. Đó là động lực thúc đẩy những cuộc chinh phục, khám phá và thậm chí của các cuộc tranh đấu dẫn tới chiến tranh đẫm máu nữa. Tuy nhiên, con người, xét như cá nhân cũng như cộng đồng, sớm nhận ra rằng các thứ hạnh phúc mà mình cố gắng tạo ra đều có giới hạn. Giới hạn kinh hoàng nhất là cái chết, kết liễu cuộc sống trên đời này. Đang khi đó, con người mang một khát vọng được hạnh phúc bất diệt.


b) Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết bí quyết của hạnh phúc: chỉ duy nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy hạnh phúc đích thực, làm thoả mãn tất cả các khát vọng của mình: sự sống dồi dào, tình yêu thắm thiết, hiểu biết tường tận. Làm cách nào đạt được những ước ao đó? Chính Thiên Chúa đã trả lời rằng Ngài sẽ giúp chúng ta thực hiện được ước nguyện, xét về cá nhân cũng như cộng đồng. Ngài hứa ban cho ta sự sống bất diệt. Ngài hứa ban cho nhân loại “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”. Đó là ý nghĩa của ơn cứu độ, bao gồm toàn thể con người và toàn thể nhân loại.


c) Những lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Kitô, một tôi tớ trung tín của Thiên Chúa. Người loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến, Người đã chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại qua việc chữa lành người ốm đau bệnh tật, an ủi người nghèo khổ, tha thứ cho tội nhân. Người đã chứng tỏ tình yêu đến mức tột độ khi hiến mạng sống mình cho loài người. Người đã được Thiên Chúa cho sống lại, và mang lại cho nhân loại niềm hy vọng vượt qua được cái chết và những sự dữ khác. Người cho chúng ta thấy rằng phàm ai đi theo Người thì cũng được chia sẻ với Người vào vinh quang Thiên Chúa.


d) Đức hy vọng được Chúa ban cho những ai tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Nhờ nhân đức hy vọng, không những các tín hữu ước ao được hạnh phúc, nhưng còn chắc chắn rằng ước ao ấy có thể thực hiện được, dựa vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.


2/ Vài đặc tính


a) Đối tượng của đức hy vọng là hạnh phúc tương lai. Tuy nhiên, con người sống đức hy vọng trong hiện tại. Thực ra, người tín hữu không hy vọng vào cái gì, cho bằng hy vọng vào ai. Đức hy vọng dựa trên một mối tương quan: tương quan với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, tương quan với Đức Kitô là Đầu của thân thể Hội thánh mà ta là phần tử, tương quan với Thánh Linh, đang hiện diện trong chúng ta. Chúng ta sống trong tương quan với Thiên Chúa tam vị trong ân sủng, hưởng trước sự kết hiệp với các Ngài mai sau trong nơi vĩnh cửu.


b) Nhờ sống mối tương quan ấy, hy vọng trở nên “trông cậy”: người tín hữu biết rằng mình dựa vào quyền năng của Thiên Chúa tình yêu. Không gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm 8,35). Nhờ nương tựa vào sức mạnh ấy, người tín hữu thâm tín rằng mình có thể làm được tất cả, như thánh Phaolô đã khẳng định (Pl 4,13). Lòng can đảm này mang lại nghị lực để đương đầu với những gian truân thử thách, cách riêng trong việc tuân hành ý Chúa. Dù nói thế nào đi nữa, người tín hữu không tự phụ vì sức riêng của mình, nhưng khiêm tốn nhìn nhận hồng ân của Thiên Chúa (2Cr 12,9-10).


c) Tin mừng nhất lãm thường gắn liền lòng tín thác vào Cha nhân lành với việc cầu nguyện và tin tưởng vào Cha quan phòng: Cha luôn ân cần lo lắng cho con cái, và xếp đặt mọi sự tốt lành cho chúng (Mt 6,25-34). Người có lòng tin cậy thì biết rằng tất cả mọi việc xảy ra đều có ích cho mình.


d) Được nâng đỡ bởi niềm hy vọng và được nuôi dưỡng bởi lòng yêu mến, người tín hữu cũng tìm cách phục vụ Nước Trời đang đến bằng cách hoạt động cho công lý và hòa bình trong xã hội.


II. Lữ hành hy vọng


Đức thánh cha Phanxicô đã muốn lấy “lữ hành hy vọng” làm châm ngôn cho Năm Toàn Xá 1925. Ngài đã giải thích ý nghĩa của việc lựa chọn này trong sắc chỉ tuyên bố mở năm Toàn xá, ở các số 7-15. Ngoài ra, trong sứ điệp mùa Chay năm nay10, Ngài đã vạch ra vài áp dụng cụ thể của việc “Bước đi trong hy vọng” tóm lại trong ba điểm sau:


1/ Trước hết là bước đi. Lời kêu gọi hoán cải đầu tiên xuất phát từ nhận thức rằng tất cả chúng ta đều là những người hành hương trong cuộc sống này; mỗi người chúng ta được mời gọi dừng lại và tự hỏi cuộc sống của chúng ta phản ánh sự thật này như thế nào. Tôi có thực sự đang bước đi hay đang đứng yên, bất động, bị tê liệt vì sợ hãi và tuyệt vọng hay không muốn bước ra khỏi vùng an toàn của mình? Tôi có đang tìm cách thoát khỏi những dịp tội và những hoàn cảnh hạ thấp phẩm giá của tôi không? Trong Mùa Chay, việc đối chiếu cuộc sống hằng ngày của chúng ta với cuộc sống của người di cư hoặc người nước ngoài, là một thực hành rất tốt giúp chúng ta học cách đồng cảm những trải nghiệm của họ và nhờ đó biết được Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì để có thể tiến bước vững vàng hơn trên hành trình về nhà Cha. Đây sẽ là một “cuộc xét mình” rất tốt cho tất cả chúng ta, những người lữ hành.


2/ Thứ hai, chúng ta hãy bước đi cùng nhau. Giáo hội được kêu mời bước đi cùng nhau, hiệp hành với nhau. Các Kitô hữu được kêu gọi bước đi bên nhau, chứ không bao giờ như những lữ khách đơn độc. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đừng thu mình lại, nhưng ra khỏi chính mình để đi đến với Chúa và anh chị em. Bước đi cùng nhau có nghĩa là củng cố sự hiệp nhất được đặt nền trên phẩm giá chung của con cái Thiên Chúa (x. Gl 3,26-28); nghĩa là bước đi bên cạnh nhau, không xô đẩy chà đạp người khác, không đố kỵ hay giả tạo, không để ai bị bỏ lại phía sau hay cảm thấy bị loại trừ. Chúng ta hãy cùng đi về một hướng, hướng tới cùng một mục tiêu, quan tâm đến nhau trong tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.


3/ Thứ ba, chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong hy vọng, vì chúng ta được ban cho một lời hứa. Ước gì niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng ấy (x. Rm 5,5), là sứ điệp trọng tâm của Năm Thánh, trở thành điểm quy chiếu cho hành trình Mùa Chay của chúng ta hướng đến chiến thắng Phục Sinh. Như Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã dạy trong Thông điệp Spe Salvi, “con người cần đến một tình yêu vô điều kiện. Con người cần đến một sự chắc chắn khiến người ấy nói được: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực sâu hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, sẽ không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8,38-39). Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh! Người đang sống và hiển trị trong vinh quang. Sự chết đã được biến đổi thành chiến thắng và đức tin cùng hy vọng lớn lao của người Kitô hữu đặt nơi điều này: sự phục sinh của Đức Kitô!


Và đây là lời kêu gọi hoán cải thứ ba: đó là lời kêu gọi hy vọng, tin tưởng vào Thiên Chúa và vào lời hứa trọng đại của Người về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta phải tự hỏi: Tôi có tin chắc rằng Thiên Chúa tha tội cho tôi không? Hay tôi hành động như thể tôi có thể tự cứu mình? Tôi có khao khát ơn cứu độ và xin Chúa giúp tôi đón nhận ơn cứu độ không? Tôi có sống cụ thể niềm hy vọng giúp tôi giải thích các biến cố trong lịch sử và thúc đẩy tôi dấn thân xây dựng công lý và tình huynh đệ, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, và theo cách mà không ai bị loại trừ không?


III. Loan báo niềm hy vọng


Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam đề ra định hướng “Cùng nhau loan báo Tin mừng”. Hợp với Giáo hội hoàn vũ, ta có thể thêm “Cùng nhau loan báo Tin mừng hy vọng”, như Đức Thánh Cha Phanxicô gợi lên trong sứ điệp ngày Truyền giáo thế giới . Chúng tôi xin tóm lại trong ba điểm như sau:


1/ Chúng ta hãy noi gương Đức Kitô. Người là “niềm hy vọng của chúng ta” (1Tm 1,1), đồng thời cũng là thừa sai của niềm hy vọng: “Trong cuộc sống trần thế của mình, Người ‘đi khắp nơi làm điều thiện và chữa lành mọi người’ khỏi sự dữ và Ma quỷ (x. Cv 10, 38), mang lại niềm hy vọng vào Thiên Chúa cho những người nghèo khổ và dân chúng. Hơn nữa, Người đã trải nghiệm mọi sự yếu đuối của con người, ngoại trừ tội lỗi, thậm chí trải qua những thời điểm quyết định có thể dẫn đến tuyệt vọng, chẳng hạn trong cơn hấp hối ở Vườn Ghếtsêmani và trên thập giá. Nhưng Chúa Giêsu đã phó thác mọi sự cho Thiên Chúa Cha, bằng cách hoàn toàn tin tưởng tuân theo kế hoạch cứu độ của Ngài dành cho nhân loại, một kế hoạch hòa bình cho một tương lai tràn đầy hy vọng (x. Gr 29,11).


2/ Đức Kitô muốn tiếp tục sứ mạng qua các môn đệ của Người: “Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ hy vọng cho nhân loại. Người vẫn cúi xuống trên từng người nghèo khó bị sự dữ làm sầu khổ, tuyệt vọng và hao mòn, để đổ dầu an ủi và rượu hy vọng lên vết thương của họ. Vâng lời Chúa và Thầy của mình và với cùng một tinh thần phục vụ, Giáo hội, cộng đồng các môn đệ – truyền giáo của Chúa Kitô, nối dài sứ mạng này, hiến dâng cuộc sống của mình cho tất cả mọi người giữa các dân tộc. Một mặt, dù phải đối mặt với những sự bắt bớ, hoạn nạn và khó khăn và, mặt khác, những sự bất toàn và sa ngã của chính mình do sự yếu đuối của mỗi thành viên, nhưng Giáo hội không ngừng được tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy tiến tới trong sự kết hiệp với Người trên con đường truyền giáo này và gánh lấy, như Người và với Người, tiếng kêu của nhân loại, và cả tiếng rên xiết của mọi thụ tạo đang mong đợi sự cứu chuộc cuối cùng. Đây là Giáo hội mà Chúa luôn luôn và mãi mãi mời gọi bước theo bước chân của Người: ‘Không phải là một Giáo hội tĩnh tại, [mà] là một Giáo hội thừa sai, bước đi với Chúa trên các nẻo đường của thế giới’ 12. Do đó, chúng ta hãy cảm thấy được truyền cảm hứng bước theo bước chân Chúa Giêsu để trở thành, với Người và trong Người, những dấu chỉ và sứ giả của niềm hy vọng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi và mọi hoàn cảnh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta sống. Ước gì tất cả những người được rửa tội, những môn đệ-truyền giáo của Chúa Kitô, hãy làm cho niềm hy vọng của Người được tỏa sáng khắp mọi nơi trên trái đất!


3) Vì thế trong Năm Thánh này, chúng ta cần canh tân sứ vụ hy vọng. Để được như vậy, “cần phải đổi mới nơi mình linh đạo Vượt Qua mà chúng ta sống trong mỗi cử hành Thánh Thể và đặc biệt trong Tam Nhật Vượt Qua, trung tâm và đỉnh cao của Năm Phụng vụ. Chúng ta được rửa tội trong cái chết và sự phục sinh cứu chuộc của Chúa Kitô, trong Lễ Vượt Qua của Chúa vốn đánh dấu mùa xuân vĩnh cửu của lịch sử. Như thế, chúng ta là “những người của mùa xuân”, với một cái nhìn luôn tràn đầy hy vọng để chia sẻ với tất cả mọi người, bởi vì trong Chúa Kitô “chúng ta tin và biết rằng cái chết và hận thù không phải là những lời cuối cùng” trên cuộc sống của con người (x. Bài Giáo lý, ngày 23 tháng 8 năm 2017). Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng: “Các nhà thừa sai của niềm hy vọng là những người nam và người nữ cầu nguyện, bởi vì “người hy vọng là người cầu nguyện”, như Đấng Đáng Kính Hồng y Văn Thuận nhấn mạnh, người đã giữ niềm hy vọng mãnh liệt suốt thời gian dài gian truân trong nhà tù nhờ sức mạnh ngài nhận được từ lời cầu nguyện kiên trì và Bí tích Thánh Thể 13. Chúng ta đừng quên rằng cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên và đồng thời là “sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng” (Bài Giáo lý, ngày 20 tháng 5 năm 2020)... Ngoài ra, “việc loan báo Tin Mừng luôn là một quá trình mang tính cộng đồng, như đặc tính của niềm hy vọng Kitô giáo14. Quá trình này không kết thúc bởi lời rao giảng tiên khởi hay bí tích rửa tội, nhưng nó tiếp tục với việc xây dựng các cộng đồng Kitô hữu qua việc đồng hành với mỗi người đã được rửa tội trên con đường Tin Mừng.


Chúng tôi xin kết luận bài này với những lời kết của sứ điệp cho ngày Truyền giáo: “Chúng ta hãy hướng về Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ mong ước này cho Năm Thánh và những năm sắp tới: “Cầu mong ánh sáng của niềm hy vọng Kitô giáo đạt tới mỗi người như một thông điệp về tình yêu của Thiên Chúa gửi đến tất cả mọi người! Cầu mong Giáo hội trở thành chứng nhân trung thành cho lời loan báo này ở mọi nơi trên thế giới! » (Sắc chỉ Spes non confundit, số 6).

---------------------

Xem nguyên văn sắc chỉ công bố năm thánh 2025 trên website của Tòa Thánh: https://www.vatican.va/content/francesco/vi/bulls/documents/20240509_spes-non-confundit_bolla-giubileo2025.html


Charles Peguy: L’Espérance est une petite fille de rien du tout.( Le Porche du mystère de la deuxième vertu, 1912)


Lê Gia, Tiếng nói nôm na, TPHCM 1999, trang 1554.


Cũng theo ông Lê Gia (trang 518), Mong do chữ “mông mộng” là mơ ước cho được mà không thấy. Chữ “mông” là bị che khuất, không thấy, chữ “mộng” là giấc mơ.


Trong sách Tổng luận thần học, thánh Tôma bàn về Hy vọng (spes) đặc biệt dưới hai khía cạnh: 1/ Như một “cảm xúc” (passio): I-II, q.40; 2/ Như một nhân đức hướng Chúa (virtus theologalis): II-II, q.17-22.


Summa Theologica, I-II, q.40, a.5-6.


Tâm tình này cũng mang tên là “tin tưởng”, “tín thác”, “cậy trông”.


Gabriel Marcel, Homo viator. Prolégomènes à une métaphysique de l’espérance, Paris 1944.


Immanuel Kant, Vorlesungen ueber Logik, Einleitung III, Werke, Darmstadt, 1968, V, 448 (Nguyên bản ra đời năm 1781).


10 Xem bản dịch ở website của HĐGM: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-mua-chay-2025-cua-duc-thanh-cha-chung-ta-hay-cung-nhau-buoc-di-trong-hy-vong


11 Xem bản dịch ở website của HĐGM: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-giao-nam-2025---nhung-nguoi-truyen-giao-cua-niem-hy-vong-giua-muon-dan


12 Bài giảng Thánh lễ bế mạc Đại hội thường kỳ Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 27 tháng 10 năm 2024.


13 x. F.X. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, Rôma 2001, số 963. Nên biết là Hồng y Thuận cũng được ĐTC Bênêđictô XVI nhắc đến như một chứng nhân hy vọng trong thông điệp Spe salvi, số 32.

14 x. Bênêđíctô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 14

TIN LIÊN QUAN
Lịch Phụng Vụ Hội Dòng Tháng 4
AUDIO

Audio Dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình: Sách Nói Công Giáo - Suy Niệm Lời Chúa